Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Kiến thức, thái độ và thực hành rửa tay phòng bệnh của sinh viên Y6 hệ bác sĩ đa...

Tài liệu Kiến thức, thái độ và thực hành rửa tay phòng bệnh của sinh viên Y6 hệ bác sĩ đa khoa trường đại học Y Hà Nội

.DOC
77
923
109

Mô tả:

1 ĐẶT VẤN ĐỀ Rửa tay phòng bệnh là rửa tay sạch đúng cách bằng xà phòng và nước, tại đúng các thời điểm (như trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh, sau khi tiếp xúc với máu/dịch cơ thể...) nhằm loại trừ các vi khuẩn gây bệnh bám trên tay người do quá trình tiếp xúc với môi trường mang lại. Rửa tay phòng bệnh bao gồm rửa tay xà phòng (RTXP) trong sinh hoạt hằng ngày và rửa tay thường quy (RTTQ) tại bệnh viện. Các nhà khoa học đã xác định, trên 1cm² da của người bình thường chứa tới 40.000 vi khuẩn. Đặc biệt số lượng này còn nhiều hơn ở trên da tay, vốn là nơi thường xuyên tiếp xúc với đủ mọi vật trong cuộc sống thường ngày [5]. Theo tổ chức y tế thế giới (TCYTTG), rửa tay (RT) được coi là liều vắc xin tự chế, rất đơn giản, dễ thực hiện, hiệu quả về chi phí. Chỉ một động tác RT sạch với nước và xà phòng đã làm giảm tới 35% khả năng lây truyền vi khuẩn Shigella, vốn là nguyên nhân gây các bệnh tiêu chảy và làm tử vong hàng triệu người mỗi năm trên thế giới [37]. Theo nhiều báo cáo của các chuyên gia kiểm soát nhiễm khuẩn trong và ngoài nước thì các bệnh truyền nhiễm đã và đang diễn ra trong cộng đồng hoàn toàn có thể phòng ngừa được bằng cách RTXP [21, 27]. Khuyến cáo tại Hội nghị kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện khu vực Châu Á Thái Bình Dương lần thứ III năm 2007 dựa vào các nghiên cứu khoa học đã chỉ ra : 1. Rửa tay là biện pháp đơn giản nhất, rẻ tiền nhất và cũng hiệu quả nhất trong kiểm soát nhiễm khuẩn, do đó cần tăng cường sự tuân thủ RT. 2.RTTQ hoặc sát khuẩn tay bằng dung dịch chứa cồn là phương pháp tiện ích và hiệu quả nhất trong kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện [18]. TCYTTG ước tính, tại bất kỳ một thời điểm nào đều có trên 1,4 triệu ca nhiễm khuẩn liên quan tới chăm sóc y tế [43]. Nhiễm khuẩn bệnh viện ngày nay đã trở thành một thách thức mang tính thời đại và tính toàn cầu, được ngành y tế các quốc gia trên thế giới hết sức quan tâm. 2 Vài năm gần đây, Bộ Y tế đã phát động phong trào vệ sinh bàn tay ở cả bệnh viện và cộng đồng [2, 23]. Những nghiên cứu trước đây cho thấy tỷ lệ thực hành rửa tay tại cộng đồng và tại các bệnh viện của Việt Nam còn thấp (đều dưới 15%) [1, 12, 15, 21]. Con số này cho thấy nguy cơ mắc các bệnh nhiễm trùng ở nước ta rất lớn. Đại học Y Hà Nội là một trong những nơi đầu ngành về đào tạo y tế, nơi hàng năm có hàng trăm bác sĩ ra trường, họ sẽ tỏa đi tới mọi miền đất nước làm việc trong lĩnh vực chăm sóc y tế. Việc họ có thói quen thực hành RT tốt sẽ bảo vệ sức khỏe chính bản thân họ và những người xung quanh, đồng thời cũng góp vào việc phòng chống NKBV. Vậy thực sự những bác sĩ tương lai Y6 sắp ra trường đã được trang bị đầy đủ về kiến thức cũng như kĩ năng rửa tay phòng bệnh như thế nào? Những nghiên cứu trước đây chủ yếu đánh giá thực hành RTTQ của các nhân viên y tế hoặc thực trạng thực hành RTXP của hộ gia đình, học sinh vùng nông thôn. Sinh viên Y hằng ngày vẫn có mặt tại bệnh viện, tiếp xúc trực tiếp với rất nhiều bệnh nhân, nguy cơ nhiễm khuẩn cao, song mới có một vài báo cáo về thực trạng rửa tay của SV. Với những lí do nêu trên, chúng tôi thấy cần có một nghiên cứu về kiến thức, thái độ và thực hành rửa tay phòng bệnh của sinh viên Y6 trường đại học Y Hà Nội, từ đó góp phần đề xuất những giải pháp nâng cao ý thức, thực hành vệ sinh đôi tay cho các bác sĩ tương lai. Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Kiến thức, thái độ và thực hành rửa tay phòng bệnh của sinh viên Y6 hệ bác sĩ đa khoa trường đại học Y Hà Nội năm 2010” với các mục tiêu: 1. Mô tả kiến thức, thái độ, thực hành rửa tay thường quy của sinh viên Y6 hệ bác sĩ đa khoa trường đại học Y Hà Nội năm 2010. 2. Mô tả kiến thức, thái độ, thực hành rửa tay xà phòng của sinh viên Y6 hệ bác sĩ đa khoa trường đại học Y Hà Nội năm 2010. 3 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1 Sinh thái học của lớp vi khuẩn trên đôi bàn tay 1.1.1 Lớp vi khuẩn cư trú thường xuyên Bình thường trên bàn tay người có lớp vi khuẩn (VK) cư trú thường xuyên. Chúng nằm trên bề mặt và sâu dưới da; ổn định về mặt số lượng và chủng loại. Theo các nhà khoa học, dù không nhìn thấy bằng mắt thường, nhưng quan sát qua kính hiển vi trên 1cm² da tay người bình thường chứa hơn 40.000 vi khuẩn các loại [5]. Chúng thường là VK không gây bệnh trên người lành như:  Staphylocoque coagulase negative  Cryhelacteries  Microcoques  Propionibacterium acnes... Lớp VK này không bao giờ bị tiêu diệt hoàn toàn ngay cả khi rửa tay (RT) ngoại khoa. Cách duy nhất để đảm bảo an toàn cho NVYT và bệnh nhân là mang găng tay vô khuẩn [13]. 1.1.2 Lớp vi khuẩn cư trú tạm thời Hằng ngày, thông qua những tiếp xúc với bệnh nhân và môi trường xung quanh; số lượng VK trên bàn tay các NVYT còn tăng lên gấp nhiều lần. Lớp VK này có mặt ngay trên bề mặt da bàn tay, chúng rất phong phú về chủng loại cũng như số lượng. Chúng thường là những VK gây bệnh cơ hội như:  Enterobacteries  E.coli 4  Klebsiella  Pneudomonas acruginosa  Clostridium difficile  Candida  Adenovirus..... Trong số đó, có rất nhiều VK gây bệnh, lan truyền nhanh và có thể phát triển thành dịch rất nhanh chóng như: Rotavirus, Pseudomonas, Adenovirus....Người lành mang lớp VK này cũng có thể gặp nguy hiểm, rất có khả năng sẽ bị mắc bệnh. Nếu chúng ta không rửa tay để loại bỏ lớp VK này thì đôi bàn tay chúng ta sẽ là môi trường sinh sôi của VK, là nguồn lây truyền bệnh dịch cho bản thân, những người xung quanh và làm gia tăng tỷ lệ các bệnh nhiễm trùng [29]. Kết quả kiểm tra ngẫu nhiên của bệnh viện (BV) Chợ Rẫy tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2001 ở 77 nhân viên y tế, số vi trùng đếm được trung bình trên bàn tay hộ lý là 481.273 vi trùng, trên bàn tay bác sĩ 275.110 và nhóm điều dưỡng sạch nhất cũng là 126.875 vi trùng [12]. 1.2 Lợi ích của việc rửa tay phòng bệnh 1.2.1 Lợi ích của việc rửa tay thường quy Trong suốt thế kỷ thứ XIX, ở châu Âu và Mỹ, 25% bà mẹ sinh con tại bệnh viện đã tử vong do sốt hậu sản. Nguyên nhân mà sau này mãi sau này, nhờ tiến bộ của khoa học mới phát hiện ra là do vi khuẩn Streptococcus pyogenes. Năm 1843, bác sĩ Oliver Wendell Holmes (Mỹ) yêu cầu một bác sĩ của khoa sản (nơi ông làm việc) nghỉ việc một tháng sau 2 trường hợp bà mẹ tử vong mà ông cho rằng liên quan đến vệ sinh bàn tay của bác sĩ đó. Ý kiến của ông đã bị nhiều bác sĩ cùng thời phản đối [17]. 5 Vào những năm 1840 Semmelweis, một bác sĩ người Hungari gốc Áo làm việc tại BV (ở Áo) có hai khoa sản, ông đã quan sát sản phụ được nhập viện tại hai khoa sản mà không phụ thuộc vào tình trạng lâm sàng. Ở khoa thứ nhất, sản phụ được thăm khám bởi các sinh viên y đi từ phòng mổ xác đi sang phòng đỡ đẻ. Còn ở khoa thứ hai, sản phụ được khám bởi các nữ hộ sinh không có tiếp xúc với phòng mổ xác. Tỷ lệ tử vong cho mẹ ở khoa đầu tiên là 18%, với nguyên nhân chính là sốt sản khoa; trong khi ở khoa thứ hai chỉ là 2%. Semmelweis cũng quan sát thấy rằng một đồng nghiệp làm tại khoa sản bị chết, vì một bệnh giống với trường hợp sốt sản khoa, sau khi bị cắt phải tay khi đang mổ xác. Ông có kết luận rằng, các hạt gây nhiễm nhỏ gây ra sốt sản khoa có nguồn gốc từ tử thi và được lây truyền cho sản phụ ở khoa thứ nhất qua bàn tay thăm khám của sinh viên y. Vì vậy ông đã cho những người đi từ phòng mổ xác khử khuẩn tay bằng vôi chlorinate, sau đó thì tỷ lệ tử vong cho mẹ ở khoa thứ nhất đó giảm xuống bằng khoa thứ hai. Tuy nhiên, tại thời điểm đó, nhiều người cho rằng khuyến cáo rửa tay giữa những lần tiếp xúc với người bệnh của Semmelweis là quá nhiều và không bác sĩ nào chấp nhận đôi bàn tay họ chính là nguyên nhân gây tử vong hậu sản. Một số người khác thì cho rằng kết quả nghiên cứu của ông thiếu bằng chứng khoa học [27, 36]. Năm 1879, tại một hội thảo khoa học ở Paris, bác sĩ Louis Pasteur đã lên tiếng: “Nguyên nhân gây tử vong ở những bà mẹ bị nhiễm trùng hậu sản chính là các bác sĩ đã sử dụng bàn tay khám các bà mẹ bị bệnh rồi khám các bà mẹ mạnh khỏe”. Sau đó, ông đưa ra Lý thuyết về “Mầm bệnh” và phương pháp tiệt khuẩn Pasteur được sử dụng tới ngày nay [17]. Chưa đầy một thế kỷ sau, một nghiên cứu quan trọng khác đã được tiến hành. Theo dấu đại dịch tụ cầu những năm 1950, Rammelkamp và cộng sự đã chứng minh rằng sự tiếp xúc trực tiếp là nguyên nhân chính làm 6 lây truyền Staphylococcus aureus. Họ cũng chứng minh rằng: việc rửa tay giữa những lần tiếp xúc với bệnh nhân đã làm tỷ lệ nhiễm S.aureus giảm xuống mức thấp hơn so với lây truyền qua không khí. Trong nghiên cứu của họ, tỷ lệ mang tụ cầu ở nhóm RTTQ là 10% trong khi tỷ lệ mang tụ cầu ở nhóm chỉ rửa tay khi cảm thấy cần lên tới 43% [27]. Ngày càng nhiều các nghiên cứu trên thế giới chứng minh vai trò của RTTQ đối với việc làm giảm tỷ lệ nhiễm trùng liên quan tới chăm sóc y tế. Theo Conly (1989), tỷ lệ nhiễm khuẩn liên quan tới chăm sóc y tế đã giảm rõ rệt, từ 33% xuống còn 12% và từ 33% xuống còn 10%, ngay sau hai lần can thiệp đẩy mạnh việc RTTQ cách nhau 4 năm [29]. Một trong những nghiên cứu nổi tiếng cho thấy lợi ích của việc tuân thủ rửa tay được tiến hành từ năm 1995-1998 (có hồi cứu) là nghiên cứu của GS.TS Didier Pittet tại BV thực hành Genever, Thụy Sỹ. Ông và cộng sự đã tiến hành nhiều nghiên cứu về vệ sinh bàn tay. Trong nghiên cứu này Pittet đã đưa ra khái niệm là tất cả những lần rửa tay với nước và xà phòng, rửa tay với dung dịch sát khuẩn tại những thời điểm khuyến cáo rửa tay đều được tính là sự tuân thủ rửa tay. Đối tượng được giám sát là tất cả cán bộ y tế ở các khoa lâm sàng. Thời điểm giám sát là tất cả các ngày trong tuần, 20 phút đầu tiên của một ca làm việc. Thời gian giám sát được tính đến khi nào thỏa mãn cỡ mẫu cần thiết. Những điều dưỡng chuyên ngành kiểm soát nhiễm khuẩn thực hiện giám sát sự tuân thủ rửa tay. Để đánh giá hiệu quả của chương trình rửa tay, nhóm nghiên cứu đã đưa ra các chỉ số đánh giá: tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện, tỷ lệ MRSA (tỷ lệ vi khuẩn kháng thuốc) và mức độ tiêu thụ dung dịch rửa tay chứa cồn. 7 Bảng 1.1: Kết quả chương trình rửa tay qua nghiên cứu của Pittet và cộng sự TT 1 2 Nội dung 1993 1994 1997 48% 66% > 20.000 lượt rửa tay từ năm 1995 đến 1997 Sự tuân thủ rửa tay - Điều dưỡng và trợ lý điều dưỡng Tăng - Bác sĩ Không tăng 3 Tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện 17.9% 9.9% 4 Tỷ lệ MRSA 2.17% 0.93% 6 1998 Mức tiêu thụ dung dịch sát khuẩn 3.5 tay/1000 ngày điều trị bệnh nhân lít 15.4 lít Bảng trên cho thấy: từ năm 1995-1997, trên 20.000 thời điểm khuyến cáo rửa tay đã được quan sát, sự tuân thủ rửa tay tăng lên từ 48% đến 66%. Tuy nhiên tỷ lệ tuân thủ rửa tay được cải thiện rõ rệt ở điều dưỡng, hộ sinh nhưng tỷ lệ này không được cải thiện ở các bác sĩ. Tỷ lệ NKBV giảm từ 17,9 % (1994) xuống còn 9,9% (1997). Sự lan truyền vi khuẩn kháng Methicilin giảm từ 2,17 % (1994) xuống còn 0,93% (1997) nhưng lượng tiêu thụ dung dịch sát khuẩn tay chứa cồn lại tăng từ 3,5 lít (1993) lên 15,4 lít (1997). Năm 2002, trong một báo cáo, Pittet đã tuyên bố là từ năm 1999-2001, tỷ lệ NKBV duy trì ở mức 10% (giảm 6% so với trước khi có chương trình rửa tay), trong khi kinh phí đầu tư cho chương trình rửa tay chỉ là 290.000 USD, tính ra là đã tiết kiệm chi phí cho điều trị nhiễm khuẩn trong 3 năm là 12 triệu đô la Mỹ [31]. Tại Việt Nam, kết quả điều tra về vấn đề NKBV năm 2000 do Sở Y tế thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với các chuyên gia y tế Pháp tiến hành 8 cho thấy: Trong 9.900 bệnh nhân (BN) của 24 đơn vị bệnh viện trên toàn địa bàn thành phố phát hiện được 854 ca nhiễm khuẩn mắc phải tại bệnh viện (chiếm tỷ lệ 8,6%), trong đó cao nhất là viêm phổi nhiễm khuẩn (26,5%), nhiễm khuẩn do đặt thông tiểu là 18,8% [20]. NKBV là những nhiễm khuẩn mắc phải trong thời gian nằm viện mà lý do nhập viện không phải do nhiễm trùng ấy, thường xuất hiện sau 48 giờ nhập viện. Nhiễm khuẩn này không hiện diện cũng như không ở trong giai đoạn ủ bệnh tại thời điểm nhập viện [7]. Hậu quả của NKBV là kéo dài thời gian nằm viện, tăng chi phí điều trị, tăng tỷ lệ BN tỷ vong, tăng nguy cơ tạo các chủng VK kháng thuốc [17]. NKBV đang trở thành một gánh nặng thực sự của ngành y tế. Tăng cường sự tuân thủ RTTQ là điều quan trọng nhất trong các cơ sở y tế, các bệnh viện. Việc tăng cường thực hành RTTQ trong các bệnh viện ở Việt Nam đã ghi nhận nhiều thành công. Tại bệnh viện Bình Dân, sau khi phát động chương trình VSBT, tỷ lệ NKBV đã giảm từ 17,1% xuống còn 2,1%, thời gian nằm viện và chi phí sử dụng kháng sinh cũng đã giảm [34]. Bệnh viện Bạch Mai trong những năm gần đây đã chú trọng công tác chống NKBV, đồng thời tiến hành tuyên truyền, tập huấn về công tác VSBT khi thăm khám bệnh nhân. Nhờ vậy, tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện từ 1,5% (1995) giảm xuống còn 0,8% (2006) [4]. Năm 2009, TCYTTG đã phát động Cuộc vận động toàn cầu tham gia chiến dịch “Bảo vệ sự sống: hãy rửa tay”. Nhận thức được tầm quan trọng của vệ sinh bàn tay trong khám, chữa bệnh, ngày 20/4/2009, TS. Nguyễn Thị Xuyên, Thứ trưởng Bộ Y tế đã đại diện cho Lãnh đạo Bộ Y tế ký văn bản ủng hộ phong trào vệ sinh bàn tay và kiểm soát nhiễm khuẩn do TCYTTG phát động, Việt Nam đã trở thành nước thứ 118 tuyên bố triển khai Cuộc vận động toàn cầu này. Cũng trong năm 2009, Bộ Y tế đã ban 9 hành Thông tư số 18/2009/TT-BYT về việc hướng dẫn tổ chức thực hiện công tác kiểm soát nhiễm khuẩn trong các cơ sở khám, chữa bệnh. Đặc biệt là ngay điều đầu tiên của Thông tư đã quy định về rửa tay [23]. 1.2.2 Lợi ích của việc rửa tay xà phòng 90% bệnh lây lan qua đường tiếp xúc mà bàn tay là cầu nối chủ yếu. Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo, chỉ một động tác RT sạch với nước và xà phòng đã làm giảm tới 35% khả năng lây truyền vi khuẩn Shigella, giảm rủi ro nhiễm khuẩn tiêu chảy tới 47%, nhiễm khuẩn đường hô hấp tới 1945% [37]. Quan trọng là tạo được thói quen RTXP thường xuyên, đúng cách, nhất là tại các thời điểm trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh. Sau khi đi vệ sinh, khi lau chùi phân/nước tiểu – nơi chứa nhiều vi khuẩn dễ dính vào bàn tay và từ đó xâm nhập vào cơ thể hoặc lây lan sang người khác thông qua tiếp xúc với bàn tay bẩn (sơ đồ 1.1). Sơ đồ 1.1 Sơ đồ lây truyền bệnh đường phân-miệng 10 Kết quả xét nghiệm bàn tay người tại 11 tỉnh của Việt Nam cũng cho thấy, tỷ lệ đối tượng có bàn tay nhiễm E.coli từ phân rất cao [10]. Do đó sau khi đi vệ sinh, cần phải rửa tay ngay với xà phòng. Điều này không những giúp giữ gìn thân thể sạch sẽ mà còn phòng chống lây nhiễm bệnh tật và còn tạo được thói quen vệ sinh. Và cũng cần phải RTXP trước khi chuẩn bị thức ăn và trước khi ăn để loại trừ các VK bám trên tay có thể lây lan vào thức ăn và vào miệng. Nhiều nghiên cứu trên thế giới cũng chỉ ra rất rõ lợi ích của RTXP. Theo Luby và cộng sự, việc khuyến khích RTXP và tăng cường giáo dục cho trẻ em nghèo tại Karachi, Pakistan đã làm giảm 40% tỷ lệ chốc, giảm 53% tỷ lệ tiêu chảy, và giảm 50% tỷ lệ viêm phổi. Tỷ lệ trẻ em tới bác sĩ vì tiêu chảy giảm 56% và giảm 26% số trẻ cần được nhập viện [33]. Theo nghiên cứu phân tích của Aiello và nhóm nghiên cứu (2002), việc tăng cường RTXP giúp làm giảm 31% bệnh đường tiêu hóa và giảm 21% bệnh hô hấp. RTXP là một phương pháp có tính khả thi và hiệu quả về chi phí, giúp ngăn ngừa nhiễm khuẩn ở các nước đang phát triển [25]. Tại hội thảo Vệ sinh cá nhân vì sức khỏe cộng đồng, ông Trần Đắc Phu, Cục trưởng Cục Y tế dự phòng Bộ Y tế cho biết: “Rửa tay xà phòng, chúng ta nghĩ là đơn giản nhưng thực ra rất quan trọng, làm giảm nguy cơ mắc các bệnh truyền nhiễm” [12]. Ngành y tế đã và đang đẩy mạnh tuyên truyền lợi ích RTXP, vận động thực hành thường xuyên RTXP trong cộng đồng [2, 23, 38, 39], đặc biệt đây cũng là một cách hữu hiệu trong phòng chống đại dịch Cúm A (H1N1) đang bùng phát hiện nay [16]. Vi rút Cúm A (H1N1) là một loại vi rút có khả năng lây từ người sang người. Đường lây truyền chủ yếu của Cúm là qua các giọt bắn khi chúng ta nói chuyện, hắt hơi hoặc ho. Các giọt bắn này mang mầm bệnh, chúng có thể lây trực tiếp qua đường hô hấp hay qua đường tiếp xúc với dụng cụ, bề mặt và bàn tay 11 có nhiễm dịch từ đường hô hấp của người Cúm. Việc tăng cường RTXP hoặc sát trùng tay với dung dịch có chứa cồn mọi lúc, mọi nơi khi có tiếp xúc với bề mặt nguy cơ và khi chăm sóc người bệnh tại gia đình, sau khi đi vệ sinh, sau khi ho, hắt hơi, chùi mũi….sẽ làm hạn chế tối đa việc mắc cúm và giảm thiểu sự lây lan, bùng phát dịch cúm [16]. Rất nhiều quốc gia trên thế giới sau khi phát động chiến dịch tăng cường RT ngoài cộng đồng, trường học, đã làm giảm trên 40% tần suất BN bị nhiễm trùng đường hô hấp (bao gồm cả cúm mùa), bị viêm phổi ở cộng đồng và trẻ dưới 5 tuổi [16]. Hiệu quả RTXP rất rõ, quan trọng để việc RTXP trở thành một thói quen của mỗi người dân là một thách thức lớn. Ngày 15/10/2008 cùng với 20 quốc gia trên khắp thế giới, “Ngày thế giới rửa tay với xà phòng” lần đầu tiên được tổ chức tại Việt Nam, gần 500 trường học thuộc hơn 20 tỉnh thành phố trên cả nước hưởng ứng với sự tham gia của hàng chục nghìn em học sinh và người dân. Mục đích của hoạt động này là đẩy mạnh việc tuyên truyền nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi của toàn xã hội, của mỗi người dân, đặc biệt là trẻ em trong việc thực hiện thường xuyên RTXP để phòng chống dịch bệnh [3]. 1.3 Các nghiên cứu về kiến thức, thái độ và thực hành rửa tay phòng bệnh 1.3.1 Các nghiên cứu trên thế giới Nghiên cứu nổi tiếng của Pitte và cộng sự [17, 31], tại Thụy Sĩ thì 48% điều dưỡng tuân thủ RTTQ và sau 3 năm có chương trình can thiệp thì tỷ lệ tuân thủ RTTQ đã tăng lên tới 66%. Còn tại Thổ Nhĩ Kỳ, khi được hỏi về RTTQ đa số các y tá lâm sàng không đạt kiến thức liên quan tới việc VSBT. Phần lớn các y tá đều báo cáo rằng họ luôn luôn RT sau khi tiếp xúc với BN hay các chất thải, máu/dịch cơ thể. Các y tá đều tán thành việc phải 12 RTTQ một cách thường xuyên nhưng thực tế họ không thể làm được điều này vì thiếu các cơ sở vật chất [26]. Một nghiên cứu khác nhằm thu thập các thông tin về thực hành RTTQ để từ đó đưa ra các biện pháp kiểm soát lây nhiễm. Trong số các sinh viên điều dưỡng (Thổ Nhĩ Kỳ) được hỏi theo bộ câu hỏi có 80,2% sinh viên (SV) trả lời có RTTQ trước và sau mỗi lần làm thủ thuật cho BN. Thời gian trung bình 1 lần RTTQ từ 1 phút trở lên chiếm 71,9%. Kết luận từ nghiên cứu cho thấy tất cả các sinh viên đều được học về rửa tay nhưng họ vẫn chưa thực sự quan tâm tới RT và chưa thực hành được những kiến thức đã học [28]. Một chương trình nghiên cứu lớn tại 11 quốc gia đang phát triển được tiến hành năm 2007 với mục đích nhằm cung cấp những hiểu biết cần thiết để phát triển các chiến lược cho việc thay đổi hành vi rửa tay. Nghiên cứu tập trung chủ yếu vào đối tượng các bà mẹ hay những người đang chăm sóc trẻ nhỏ, sử dụng phương pháp phỏng vấn và quan sát để đánh giá về các hành vi rửa tay. Bảng 1.2: Tỷ lệ RTXP của các bà mẹ, người chăm sóc trẻ tại những thời điểm quan trọng ở 11 nước đang phát triển. Địa điểm nghiên cứu Ghana Kerola, India Madagascar Kyrgyzta Senegal Peru RTXP n sau đi VS (%) 500 350 40 65 450 500 3.0 42.0 4.0 18.0 23.0 18.0 RTXP RTXP RTXP Chỉ RT sau VS trước cho trước với cho trẻ trẻ ăn nấu ăn nước (%) 25.0 - (%) 1.0 12.0 6.0 (%) 18.0 - (%) 39.0 10.0 49.0 - 13 Sichuan, China 78 17.0 17.0 6.0 87.0 Shaanxi, China 64 12.0 17.0 18.0 Tanzania 30 17.0 17.0 4.0 33.0 Ugardu 500 18.0 11.0 6.0 8.0 44.0 Việt Nam 720 23.0 5.0 51.0 Kenya 802 29.0 38.0 17.0 15.0 57.0 Trung bình 18.0 19.0 5.0 17.0 45.0 Rửa tay xà phòng có thể là một trong những biện pháp ngăn ngừa về nhiễm trùng có hiệu quả về chi phí nhất ở những nước đang phát triển. Tuy nhiên tỷ lệ thực hành RTXP lại rất thấp. Kết luận của nghiên cứu cho thấy chỉ có 18% RTXP và 45% chỉ RT với nước sau khi đi vệ sinh. Tỷ lệ chỉ rửa tay với nước cao gấp 3 lần so với RTXP. Tỷ lệ RTXP tại các thời điểm trước khi cho trẻ ăn và trước khi nấu ăn rất thấp [37]. Nghiên cứu của Yalcin SS, Yalsin S, Altin S (2004) về " Rửa tay của thanh thiếu niên" được tiến hành tại 7 trường học tại Konya, Thổ Nhĩ Kỳ. Hơn 1000 học sinh tham gia trả lời các câu hỏi như “bạn RT khi nào”, “trong bao lâu”, “RT như thế nào” và “tại sao”. Kết quả cho thấy phần lớn thanh thiếu niên vẫn có kiến thức hạn chế về RTXP, có 42,4% số thanh niên có RT đúng nguyên tắc. Các cách vệ sinh tay của học sinh gồm rửa tay với nước và xà phòng (99,2%), vệ sinh tay bằng dung dịch có chứa cồn (0,2%), sử dụng khăn giấy để lau tay (0,6%). Thời gian trung bình 1 lần RTXP là 41,8 – 39,1 giây [40]. Tại Hàn Quốc một khảo sát về hành vi rửa tay và nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của rửa tay, số liệu được thu thập bằng cách quan sát 2.800 lượt người RT sau khi sử dụng nhà vệ sinh công cộng (NVSCC) tại 7 thành phố trong cả nước và phỏng vấn 1.000 người trên 14 tuổi qua điện thoại. Kết quả cho thấy: 94% số người trả lời phỏng vấn tuyên bố thường xuyên RT sau khi sử dụng NVSCC nhưng con số thực tế khi quan sát tại 14 NVSCC là 63,4% số người quan sát đã RT. Đặc biệt nữ giới RT nhiều hơn nam giới. Trong những người phỏng vấn có 73% RTXP trước khi nấu ăn và 67% RT khi từ ngoài trở về nhà. Và mặc dù phần đông mọi người trả lời phỏng vấn (chiếm 77,6%) biết rằng RT là hữu ích trong việc ngăn chặn truyền bệnh; nhưng 39,6% số người trả lời phỏng vấn đã không làm như vậy vì họ không có thói quen RT và 30,2% nghĩ rằng việc RT bất tiện [30]. Tại Colombia theo điều tra tại 25 trường học ở Bogota qua bảng câu hỏi thấy có 33,6% tổng số học sinh là thường xuyên RTXP trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh. Khoảng 7% học sinh có ý thức cập nhật thông tin thường xuyên về các vấn đề liên quan tới nhiễm trùng và rửa tay [32]. 1.3.2 Các nghiên cứu tại Việt Nam Theo một điều tra về tình hình thực hiện các biện pháp dự phòng cơ bản tại BV Bạch Mai và một số BV khu vực phía Bắc được công bố ngày 17/3/2007. Tại BV Bạch Mai: chỉ 2,6% nhân viên y tế RTTQ trước khi thăm khám bệnh nhân và 4,2% RTTQ trước khi chuyển từ thao tác bẩn sang thao tác sạch trên cùng một bệnh nhân. Tỷ lệ RTTQ trong ngày của các NVYT còn quá thấp, chỉ từ 3 – 5 lần/ngày [15]. Thạc sỹ Trần Đức Mục_Phó Vụ trưởng Vụ Điều trị (Bộ y tế) cho biết chỉ có 17% NVYT ở Việt Nam RTTQ thường xuyên và đúng cách [12]. Nghiên cứu về việc tuân thủ RTTQ tại BV Saint Paul và Thanh Nhàn năm 2007 cho thấy, tỷ lệ bác sĩ và điều dưỡng không RT lần nào chiếm tỷ lệ 58,3%. Tỷ lệ NVYT RT khi có cơ hội chỉ là 12,2% [1]. Kết quả khảo sát trong năm 2009 tại 29 khoa lâm sàng thuộc khối ngoại, sản, cấp cứu của 9 BV tuyến Trung ương và tỉnh của khu vực phía Bắc cho thấy: hơn 58% NVYT không trả lời đúng các câu hỏi về VSBT [15]. Còn trong lễ phát động “Bàn tay sạch” được tổ chức tại BV Nhi 15 Trung ương, 300 NVYT có mặt đều không nắm được quy trình RTTQ do bộ Y tế quy định. Những NVYT thao tác sai quy trình đều không cảm thấy gò bó khi được yêu cầu thực hiện lại [4]. Tại cộng đồng, Cục Y tế dự phòng Việt Nam, Bộ Y tế công bố sau một loạt nghiên cứu đánh giá "Hiện trạng về RT bằng xà phòng tại cộng đồng dân cư của 10 xã khu vực phía Bắc". Cuộc điều tra được tiến hành hết sức công phu với việc các cán bộ tham gia điều tra đã ở tại các hộ gia đình từ 5h sáng đến 20h tối và tiến hành quan sát về thực hành vệ sinh cá nhân của 1.180 người dân. Kết quả điều tra cho thấy, tỷ lệ người dân trong cộng đồng RTXP rất thấp. Chỉ có 6,1% số đối tượng được quan sát có RTXP trước khi ăn; 0,8% số người RTXP sau tiểu tiện; 18,6% có thực hiện hành vi RTXP sau khi đại tiện. Tỷ lệ các bà mẹ đang nuôi con dưới 5 tuổi có 2,6% RTXP trước khi cho trẻ ăn, 10,5% sau khi cho trẻ đi tiểu/đại tiện và 17,1% có RTXP sau dọn phân cho trẻ [21]. Trong nghiên cứu “Vệ sinh môi trường nông thôn Việt Nam” (2006) được tiến hành 8 vùng trên toàn quốc, phỏng vấn và quan sát 37.000 hộ gia đình cho thấy: tỷ lệ RTXP rất thấp ở cả 3 thời điểm 12% trước khi ăn, 12,2% sau tiểu tiện và 15,6% sau đại tiện. Trong số những người được phỏng vấn 2,3% số người nêu ra được RTXP là một trong những biện pháp phòng tránh bệnh tiêu chảy và bệnh giun. Nhóm đối tượng có học vấn thấp, nam giới, người dân tộc thiểu số, người sống tại vùng núi phía Bắc, Tây Nguyên, Trung Bộ có tỷ lệ RTXP thấp hơn các nhóm tương ứng khác [9]. Nghiên cứu về hành vi vệ sinh của học sinh tại 966 điểm trường học trong 224 xã vùng nông thôn Việt Nam năm 2006 tiến hành quan sát tại những điểm trường có khu rửa tay và có học sinh đi vệ sinh tại thời điểm quan sát thu được kết quả: 4,6% số học sinh RTXP sau khi đi tiểu tiện và 16 11,5% RTXP sau khi đi đại tiện [10]. Tình trạng thiếu nước và xà phòng làm giảm tỷ lệ học sinh RTXP [9,36]. Tại các điểm trường có xà phòng thì tỷ lệ học sinh RTXP khá cao 30,7% và 64,5% tại 2 thời điểm tương tự. 17 CHƯƠNG 2 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu mô tả cắt ngang. 2.2 Đối tượng nghiên cứu Sinh viên năm thứ 6 (Y6) hệ Bác sĩ đa khoa trường đại học Y Hà Nội năm học 2009 - 2010. - Tiêu chuẩn lựa chọn:  Những sinh viên hiện đang theo học năm thứ 6 hệ Bác sĩ đa khoa trường đại học Y Hà Nội tại thời điểm nghiên cứu ( năm 2010).  Sinh viên tự nguyện và đồng ý tham gia nghiên cứu. - Tiêu chuẩn loại trừ:  Những sinh viên hiện đang theo học tại trường đại học Y Hà Nội tại thời điểm nghiên cứu nhưng khác chuyên ngành và/hoặc khác năm học.  Những sinh viên không tự nguyện và từ chối tham gia nghiên cứu.  Sinh viên không tuân thủ qui trình thu thập số liệu (không hoàn chỉnh bộ câu hỏi, sao chép bài của sinh viên khác…). 2.3 Thời gian và địa điểm nghiên cứu Nghiên cứu đã được tiến hành từ tháng 1 đến tháng 4 năm 2010, thời gian thu thập số liệu tháng 4 năm 2010 tại trường đại học Y Hà Nội. 18 2.4 Mẫu và cách chọn mẫu Cách chọn mẫu: mời tất cả sinh viên khối Y6 hệ Bác sĩ đa khoa đang học tại trường đại học Y Hà Nội tham gia nghiên cứu. Nhóm nghiên cứu tới tất cả 12 tổ sinh viên giải thích về nghiên cứu, phát bộ câu hỏi và mời các bạn tham gia tự điền bộ câu hỏi với sự hướng dẫn và giám sát của nghiên cứu viên. Khối sinh viên Y6 đa khoa có tất cả 12 tổ, tổng số 295 sinh viên, chúng tôi đã phát ra 295 phiếu câu hỏi nhưng chỉ thu lại được 160 phiếu, trong đó có 40 phiếu điền chưa đủ hết các thông tin. Mẫu số thực tế để phân tích cho nghiên cứu là 120 sinh viên Y6 đa khoa. 2.5 Biến số, chỉ số nghiên cứu 2.5.1 Một số đặc trưng cá nhân của sinh viên - Tuổi - Giới - Dân tộc : Kinh hay dân tộc khác - Nơi ở hiện tại: kí túc xá, ở trọ, ở cùng gia đình - Điều kiện nơi rửa tay của SV: có nước sạch và XP rửa tay 2.5.2 Nhóm biến số về rửa tay thường quy - Định nghĩa rửa tay thường quy: là rửa tay bằng xà phòng và nước nhằm loại bỏ chất bẩn và vi sinh vật vãng lai trên tay [36]. - Quy trình RTTQ: Bộ y tế đã có công văn số 7518/BTY-ĐT ngày 12/10/2007 về việc hướng dẫn thực hiện quy trình RTTQ và sát khuẩn tay nhanh bằng dung dịch chứa cồn [6]. 19 Các bước tiến hành:  Bước 1: Lấy 3 ml dung dịch chứa cồn. Chà hai lòng bàn tay vào nhau.  Bước 2: Chà lòng bàn tay này lên mu và kẽ ngoài các ngón tay của bàn tay kia và ngược lại.  Bước 3: Chà hai lòng bàn tay vào nhau, miết mạnh các kẽ ngón tay.  Bước 4: Chà mặt ngoài các ngón tay của bàn tay này vào lòng bàn tay kia.  Bước 5: Dùng lòng bàn tay này xoay ngón cái của bàn tay kia và ngược lại.  Bước 6: Xoay đầu ngón tay này vào lòng bàn tay kia và ngược lại. Chà xát tay đến khi khô tay. 20 Ghi chú: - Mỗi bước chà 5 lần. - Thời gian rửa tay tối thiểu 30 giây, hoặc chà xát tay cho đến khi tay khô. Khi thực hiện RTTQ cần chú ý:  Nhất thiết phải RT bằng nước và XP khi tay dây bẩn, dính máu/dịch cơ thể.  Có thể khử khuẩn tay bằng dung dịch cồn khi tay không trông rõ vết cáu bẩn.  Nếu RT bằng XP và nước: Sau RT cần lau khô toàn bộ bàn tay bằng khăn sạch và khóa vòi nước bằng khăn vừa sử dụng tránh làm ô nhiễm lại bàn tay.  Không rửa lại tay bằng nước sau khi đã chà tay bằng cồn. 5 thời điểm cần tuân thủ RTTQ theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới:  Trước khi đụng chạm vào người bệnh.  Trước khi tiến hành một thủ thuật vô khuẩn.  Sau khi tiếp xúc, phơi nhiễm với dung dịch cơ thể.  Sau khi tiếp xúc, đụng chạm vào người bệnh.  Sau khi tiếp xúc, đụng chạm vào các vật dụng xung quanh người bệnh. - Nhóm biến số về kiến thức RTTQ  Thời điểm cần RTTQ: sinh viên sẽ chọn xem trong những thời điểm đưa ra, thời điểm nào cần RTTQ. Tại mỗi thời điểm chọn đúng đáp án, chúng tôi sẽ tính 1 điểm, chọn sai đáp án không trừ và cũng không tính điểm. Tổng nếu SV được từ 4/5 điểm trở lên -> tính là sinh viên nắm được kiến thức về thời điểm RTTQ.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan