Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở việt nam hiện nay...

Tài liệu Kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở việt nam hiện nay

.PDF
196
190
78

Mô tả:

1 Bé Gi¸o dôc vµ §µo t¹o bé t− ph¸p tr−êng ®¹i häc luËt hµ néi ®oµn thÞ tè uyªn KIỂM TRA VÀ XỬ LÝ VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY luËn ¸n tiÕn sÜ luËt häc Hµ néi - 2012 2 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là một chủ trương lớn đã được ghi nhận trong các nghị quyết của Đảng và được Nhà nước thể chế hóa trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001). Một trong những tiêu chí quan trọng để xây dựng Nhà nước pháp quyền là phải có hệ thống pháp luật hoàn thiện. Chính vì vậy, ngày 24-05-2005 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, trong đó đề ra mục tiêu: Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế… [30]. Mong muốn có một hệ thống pháp luật hoàn thiện, trong thời gian qua, Nhà nước đã không ngừng đề ra giải pháp để nâng cao chất lượng hoạt động xây dựng, ban hành và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Từ khâu phân tích chính sách phản ánh nhu cầu điều chỉnh đối với các quan hệ xã hội để đưa vào chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) cho đến soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, thông qua, ban hành văn bản. Nếu chỉ quan tâm nâng cao chất lượng từng bước trong quy trình xây dựng và ban hành trên đây, thì hệ thống pháp luật vẫn tiềm ẩn sự không hoàn thiện bởi các quan hệ xã hội là đối tượng điều chỉnh của pháp luật luôn vận động không ngừng. Vì vậy, quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật rất cần được thực hiện một cách đồng bộ cùng quá trình xây dựng, ban hành. Có rất nhiều hoạt 3 động của Nhà nước được triển khai thực hiện sau khi văn bản QPPL được ban hành có chung mục đích đảm bảo sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật như rà soát, hệ thống hóa, theo dõi, đánh giá thi hành và nhất là hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản QPPL. Thực tiễn thời gian qua cho thấy, hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản QPPL đã phát huy khá tốt vai trò, ý nghĩa của mình trong việc "làm sạch" hệ thống văn bản QPPL, tạo lập được lòng tin của người dân đối với Nhà nước. Thông qua hoạt động kiểm tra, xử lý rất nhiều văn bản QPPL có nội dung mâu thuẫn, chồng chéo, không phù hợp với nội dung văn bản QPPL của cấp trên; ban hành trái thẩm quyền, vi phạm về thủ tục xây dựng và ban hành văn bản, thiếu tính khả thi… đã được phát hiện và xử lý. Có thể khẳng định, kiểm tra và xử lý văn bản QPPL là hoạt động không thể thiếu trong quy trình hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước một cách có hiệu quả. Kiểm tra văn bản QPPL là nhiệm vụ mới được chuyển giao từ Viện kiểm sát nhân dân sang hệ thống cơ quan hành pháp theo quy định tại Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25-12-2001 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Theo đó, Viện kiểm sát nhân dân không còn thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc ban hành văn bản QPPL mà chuyển giao cho các cơ quan hành chính nhà nước (Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thực hiện nhiệm vụ này). Vì lẽ đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 135/2003/NĐ-CP của Chính phủ ngày 14/11/2003 về kiểm tra và xử lý văn bản QPPL. Năm 2008 với sự ra đời của Luật Ban hành văn bản QPPL thay thế cho Luật ban hành văn bản QPPL năm 1996 (sửa đổi, bổ sung năm 2002) đã có nhiều quy định thay đổi thẩm quyền ban hành văn bản QPPL của một số chủ thể. Sự thay đổi này có ảnh hưởng lớn đến thẩm quyền kiểm tra và xử lý văn bản QPPL của các cơ quan hành pháp. Vì lý do đó, ngày 12/4/2010 Chính phủ ban hành Nghị định 40/2010/NĐ-CP quy định về kiểm tra và xử lý văn bản QPPL. Hiện nay, Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2008, Nghị định số 40/2010/NĐ-CP là cơ sở pháp lý chủ yếu và trực tiếp để cơ quan chức năng thực hiện hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản QPPL nhằm phát hiện khiếm khuyết của văn bản để đình chỉ thi hành, hủy bỏ, bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung…đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, hợp lý và thống nhất của hệ thống pháp luật. Tuy đã được Luật Ban hành văn bản QPPL năm 4 2008 và Nghị định 40/2010/NĐ-CP quy định nhưng những vấn đề mang tính nền tảng cho hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản QPPL như khái niệm văn bản QPPL; thẩm quyền kiểm tra và xử lý văn bản QPPL; trách nhiệm của chủ thể ban hành văn bản bất hợp pháp, bất hợp lý; sự khác nhau giữa các biện pháp xử lý văn bản QPPL… vẫn là những vấn đề còn nhiều tranh cãi trong quá trình triển khai trên thực tế. Chính vì vậy, việc áp dụng quy định của pháp luật trong hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản QPPL trên thực tế còn gặp những khó khăn nhất định. Thực tế thời gian qua cho thấy, hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản QPPL có dấu hiệu bất hợp pháp, bất hợp lý vẫn chưa được các cấp, các ngành chú trọng đúng mức. Hoạt động được tiến hành nhưng chưa đem lại hiệu quả cao, nhất là ở cấp chính quyền địa phương; sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong hoạt động kiểm tra, xử lý chưa đồng bộ; việc xử lý văn bản QPPL có dấu hiệu bất hợp pháp, bất hợp lý chưa nghiêm, còn mang tính hình thức, thậm chí không xử lý; đội ngũ công chức thực hiện hoạt động kiểm tra còn thiếu về số lượng và yếu về chuyên môn nghiệp vụ; điều kiện vật chất cho công tác này còn chưa đảm bảo… Từ thực tế trên đây đòi hỏi cần nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc, đầy đủ về hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản QPPL nhằm nâng cao chất lượng văn bản QPPL đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật mà Đảng đã đề ra. Với những lý do đó tôi lựa chọn "Kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam hiện nay" làm đề tài luận án tiến sĩ. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án Đối tượng nghiên cứu của luận án là hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản QPPL ở Việt Nam hiện nay. Kiểm tra và xử lý văn bản QPPL là đề tài nghiên cứu có nội dung rất rộng, khá phức tạp nhưng trong giới hạn của luận án tiến sĩ, đề tài tập trung nghiên cứu với phạm vi sau đây: 5 - Nghiên cứu hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản QPPL trong phạm vi không gian ở Việt Nam, thời gian từ năm 2002 đến nay (khi chuyển giao kiểm tra từ Viện kiểm sát nhân dân sang Chính phủ đảm nhận chức năng kiểm tra văn bản QPPL. - Nghiên cứu hoạt động kiểm tra và xử lý của các cơ quan nhà nước đối với văn bản QPPL do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp ban hành. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án Mục đích của luận án: Thông qua việc phân tích cơ sở lý luận về kiểm tra và xử lý văn bản QPPL, đánh giá thực trạng pháp luật cũng như thực trạng hoạt động kiểm tra, xử lý hiện nay và đề xuất các giải pháp, luận án đã xây dựng luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản QPPL ở Việt Nam hiện nay đồng thời góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật. Để đạt được mục đích trên, luận án đặt ra những nhiệm vụ cơ bản sau: - Phân tích cơ sở lý luận của hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản QPPL bằng việc làm rõ khái niệm kiểm tra, xử lý văn bản QPPL, thẩm quyền tiến hành, quy trình, thủ tục thực hiện, nội dung của hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản QPPL đồng thời làm rõ khái niệm văn bản QPPL, xác lập các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng văn bản QPPL là đối tượng, tiêu chí cho hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản QPPL. Trong quá trình phân tích, hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản QPPL được xem xét dưới góc độ so sánh với quy định của một số nước trên thế giới làm phong phú hơn cũng như toàn diện và hệ thống hơn về hai hoạt động này. - Nghiên cứu quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản QPPL để có nhận thức đúng đắn về công tác kiểm tra, so sánh hoạt động kiểm tra trước (thẩm định, thẩm tra) với kiểm tra sau khi văn bản được ban hành; phân biệt kiểm tra với rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL từ đó rút ra vai trò, ý nghĩa của hoạt động này là tiền đề cho hoạt động xử lý; nghiên cứu về hoạt động xử lý văn bản QPPL để hiểu rõ về các dấu hiệu bất hợp pháp, bất hợp lý của văn bản 6 QPPL, thẩm quyền xử lý và phân biệt các biện pháp xử lý văn bản QPPL có dấu hiệu bất hợp pháp, bất hợp lý. - Phân tích, đánh giá thực tiễn hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản QPPL ở cấp trung ương đến địa phương, chỉ ra những ưu, nhược điểm cũng như nguyên nhân đem lại thành tựu và nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, bất cập trong công tác kiểm tra và xử lý văn bản QPPL làm nền tảng để đề ra giải pháp phù hợp. - Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản QPPL ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án Luận án được hình thành trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật. Cơ sở phương pháp luận của luận án là chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng những phương pháp như: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh để lý giải từ những vấn đề lý luận cơ bản cho đến thực trạng và giải pháp về hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản QPPL. Phương pháp duy vật biện chứng được sử dụng xuyên suốt trong luận án. Các vấn đề thuộc nội dung của luận án như văn bản QPPL, tiêu chuẩn đánh giá tính hợp pháp, hợp lý của văn bản QPPL, kiểm tra và xử lý văn bản QPPL được nghiên cứu với mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau trong một tổng thể và được đặt trong điều kiện kinh tế - xã hội, nhu cầu và mục đích của quản lý nhà nước. Phương pháp phân tích được sử dụng để xem xét, đánh giá cụ thể, sâu sắc hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản QPPL với các khía cạnh khác nhau. Đối với hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản QPPL, luận án đã xem xét dựa trên cơ sở khoa học và cơ sở pháp lý để từ đó phân tích về khái niệm, ý nghĩa, nội dung, thẩm quyền và thủ tục tiến hành hoạt động này trong việc góp phần nâng cao chất lượng văn bản QPPL và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Ngoài ra phương pháp phân tích còn được sử dụng để đánh giá thực trạng của hoạt động kiểm tra, xử lý và nhất là lý 7 giải cụ thể những nguyên nhân có được thành tựu, nguyên nhân dẫn đến hạn chế, bất cập làm cơ sở để đề ra giải pháp. Phương pháp tổng hợp được sử dụng để khái quát hóa, rút ra những nhận xét, kết luận về từng nội dung của luận án. Xem xét về chất lượng của văn bản QPPL trong quá trình kiểm tra và xử lý được nhìn nhận không xuất phát từ những biểu hiện đơn lẻ mà mang tính phổ biến, điển hình về những khía cạnh cả tính hợp pháp, tính hợp lý của văn bản QPPL. Đồng thời, khi nghiên cứu về hoạt động kiểm tra những nhận định rút ra luôn được đặt trong tổng thể với các hoạt động hoàn thiện pháp luật khác như rà soát, hệ thống hóa, theo dõi thi hành văn bản QPPL. Để đảm bảo tính khách quan, toàn diện và thuyết phục, luận án còn sử dụng phương pháp thống kê và điều tra xã hội học quá trình đánh giá về thực tiễn nhất là tìm hiểu sâu về nguyên nhân có được thành tựu, nguyên nhân dẫn đến hạn chế của hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản QPPL. Các phương pháp nghiên cứu trên đây luôn được sử dụng kết hợp với nhau với mục đích bảo đảm cho nội dung nghiên cứu của luận án vừa có tính khái quát, vừa có tính cụ thể cần thiết để xem xét, đánh giá một cách toàn diện về kiểm tra và xử lý văn bản QPPL ở Việt Nam hiện nay. 5. Điểm mới và ý nghĩa của luận án Điểm mới của luận án: Luận án là công trình nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về kiểm tra và xử lý văn bản QPPL ở Việt Nam hiện nay. Những điểm sau đây là đóng góp mới về luận cứ khoa học và thực tiễn của luận án: - Phân tích và làm sáng tỏ thêm khái niệm khoa học văn bản QPPL là cơ sở giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhận diện chính xác đối tượng của hoạt động kiểm tra và xử lý. - Xây dựng khái niệm khoa học về kiểm tra và xử lý văn bản QPPL và phân tích làm rõ thêm nội hàm một số khái niệm có liên quan khác như giám sát, kiểm sát, thẩm định, rà soát… 8 - Xây dựng các tiêu chuẩn đánh giá tính hợp pháp và tính hợp lý của văn bản QPPL làm cơ sở lý luận để kiểm tra và xử lý văn bản QPPL; chỉ ra sự khác biệt cơ bản giữa các biện pháp xử lý văn bản QPPL có dấu hiệu bất hợp pháp và bất hợp lý. - Đánh giá toàn diện về thực trạng hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản QPPL, từ đó chỉ ra những nguyên nhân có được thành tựu và nguyên nhân dẫn đến hạn chế của hoạt động này. - Đề ra các giải pháp nhằm đảm bảo cho hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản QPPL có hiệu quả nhất. Bên cạnh những giải pháp trước mắt, luận án gợi mở những giải pháp mang tính lâu dài nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản QPPL như: Trao thẩm quyền cho Tòa án Hành chính trong việc phán quyết về tính hợp pháp của văn bản QPPL; tăng cường trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể ban hành cũng như tham mưu soạn thảo, thẩm định văn bản QPPL có dấu hiệu bất hợp pháp, bất hợp lý; liên kết chặt chẽ, đồng bộ giữa hoạt động kiểm tra, xử lý với các hoạt động xây dựng, rà soát, hệ thống hóa và theo dõi thi hành văn bản QPPL… Ý nghĩa của luận án: Những kết quả nghiên cứu trong luận án có giá trị tham khảo cho việc nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản QPPL. Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình giảng dạy, học tập tại các trường, học viện chuyên ngành Luật học. Ngoài ra, luận án còn có ý nghĩa đối với cán bộ kiểm tra văn bản QPPL hiểu đầy đủ, sâu sắc về bản chất, nghiệp vụ của hoạt động kiểm tra, cách thức lựa chọn và hậu quả pháp lý của từng biện pháp xử lý để vận dụng đúng theo quy định pháp luật và phù hợp với mỗi dấu hiệu khiếm khuyết của văn bản QPPL cụ thể. Trong điều kiện hiện nay, khi Hiến pháp năm 1992 đang được nghiên cứu sửa đổi, đề tài này cũng đem lại ý nghĩa nhất định trong việc phân định thẩm quyền của các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương, trong đó có thẩm quyền ban hành, kiểm tra và xử lý văn bản QPPL. 6. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận án gồm 4 chương: Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu 9 Chương 2: Cơ sở lý luận về hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật. Chương 3: Thực trạng của hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam hiện nay. Chương 4: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam hiện nay. 10 Chương 1 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT Nghiên cứu về kiểm tra và xử lý văn bản QPPL, tôi đã có dịp tiếp xúc với một số công trình nghiên cứu quan trọng, có giá trị cao trong khoa học pháp lý. Với mục tiêu của hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản QPPL là hướng tới hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong quá trình triển khai đề tài, khá nhiều công trình nghiên cứu khoa học về hệ thống pháp luật cũng như hoàn thiện hệ thống pháp luật đã được các tác giả tiếp cận với nhiều góc độ khác nhau. Cuốn sách của GS.TS. Lê Minh Tâm Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2003 đã gợi mở cho tôi khá nhiều vấn đề quan trọng liên quan đến nội dung của luận án. Cuốn sách được tác giả phân tích sâu sắc về bản chất, giá trị và hình thức của pháp luật làm tiền đề để luận giải những vấn đề cơ bản của xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Theo tác giả, pháp luật là sự biểu hiện của văn minh và văn hóa; là cơ sở để đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội, bảo đảm, bảo vệ quyền, tự do dân chủ, lợi ích hợp pháp chính đáng của con người, bảo đảm công bằng, bình đẳng trong xã hội, là nhân tố quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững của xã hội. Đặc biệt, cuốn sách đã tiếp cận quan niệm về pháp luật theo nghĩa rộng không chỉ bao gồm pháp luật thực định (quy tắc xử sự chung) mà còn được hiểu cả mục đích, tư tưởng và nguyên tắc cũng là pháp luật. Bên cạnh đó, cuốn sách Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của PGS.TS. Nguyễn Minh Đoan đã phân tích rất nhiều vấn đề từ khái quát đến cụ thể về hệ thống pháp luật cũng như có liên quan đến hệ thống pháp luật trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền. Từ việc lý giải những đặc điểm, tiêu chí để xác định chất lượng của hệ thống pháp luật cho đến khái niệm văn bản QPPL, đánh giá tác động của văn bản QPPL cho đến trách nhiệm của người xây dựng pháp luật. Trong 11 cuốn sách, tác giả dành Chương IV để phân tích về văn bản QPPL từ góc nhìn lý luận cho đến quy định của pháp luật. Ngoài ra, cuốn sách đã đề cập đến trách nhiệm pháp lý của chủ thể ban hành cũng như tham gia vào quá trình xây dựng pháp luật. Đây là một trong những biện pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng văn bản QPPL và hệ thống pháp luật hiện hành. Cuốn sách Xây dựng và hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay do PGS.TS. Nguyễn Văn Động chủ biên cũng đã luận giải sâu sắc và biện chứng giữa sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật với mục tiêu đảm bảo phát triển bền vững. Nhóm tác giả đã nghiên cứu thông qua việc tiếp cận vai trò của pháp luật đối với phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay để phân tích cơ sở lý luận về xây dựng và hoàn thiện pháp luật bảo đảm phát triển bền vững, đánh giá thực trạng pháp luật và công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật ở nước ta, nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng và hoàn thiện pháp luật bảo đảm phát triển bền vững của một số nước trên thế giới và đề xuất các giải pháp xây dựng, hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong thời gian tới. Tuy cuốn sách không đề cập sâu về kiểm tra và xử lý văn bản QPPL với vai trò là công cụ để hoàn thiện pháp luật, nhưng nội dung của cuốn sách đã đem lại nhiều giá trị bổ ích để luận giải có tính hệ thống về kiểm tra và xử lý văn bản QPPL ở Việt Nam hiện nay. Năm 2011, Viện nghiên cứu lập pháp đã cho ra mắt cuốn sách Bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật Việt Nam do PGS.TS.Phan Trung Lý chủ biên. Các tác giả đã tiếp cận về tính thống nhất cũng như các điều kiện bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật Việt Nam từ yêu cầu và thực trạng bảo đảm tính thống nhất; các giải pháp nâng cao hiệu quả của việc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật và so sánh với việc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật một số nước. Cuốn sách đã luận giải về khái niệm hệ thống pháp luật, tính thống nhất của hệ thống pháp luật và phân biệt với tính hợp hiến, hợp pháp. Tác giả đã khẳng định trong mối quan hệ giữa tính thống nhất với tính hợp hiến, hợp pháp cho thấy tính thống nhất đặt ra đối với hệ thống pháp luật còn tính hợp hiến và hợp pháp chỉ đặt ra với các văn bản QPPL, các quy phạm pháp luật cụ thể. Tôi cho rằng quan niệm 12 này chưa thực sự thuyết phục bởi lẽ tính thống nhất không chỉ là tiêu chí để đánh giá sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật mà còn là tiêu chí để đánh giá chất lượng của văn bản QPPL. Nội dung của văn bản QPPL không chỉ đáp ứng về tính hợp hiến, hợp pháp mà còn đảm bảo tính thống nhất trong nội tại văn bản đó. Sự thống nhất này biểu hiện thống nhất giữa hình thức và nội dung, thống nhất giữa các quy phạm pháp luật với nhau. Vì vậy, tính thống nhất không chỉ bao trùm tính hợp hiến, hợp pháp như cuốn sách khẳng định mà chúng còn đan xen vào nhau tạo nên một chỉnh thể logic, chặt chẽ. Tuy còn có nhiều quan niệm về tính thống nhất, nhưng cuốn sách có giá trị sâu sắc trong việc tiếp cận tính thống nhất theo nghĩa rộng để từ đó luận giải khá đầy đủ thực trạng việc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay. Từ việc đánh giá thực trạng của hệ thống pháp luật, các tác giả đã đề xuất những giải pháp bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật trong đó có giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra văn bản QPPL trong thời gian tới. 1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT, KIỂM TRA VÀ XỬ LÝ VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT 1.2.1. Các giáo trình luật học Có thể nói, các giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật của Trường Đại học Luật Hà Nội và Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật của Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội chỉ đề cập đến khái niệm văn bản QPPL - hình thức pháp luật. Tuy nhiên, khái niệm văn bản QPPL trong giáo trình của hai cơ sở có một số điểm khác nhau. giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội có đưa ra những dấu hiệu đặc trưng của văn bản QPPL: là hình thức thể hiện cơ bản của các quyết định do cơ quan nhà nước có thẩm quyền (hoặc cá nhân, tổ chức được nhà nước trao quyền; ban hành theo trình tự và dưới hình thức nhất định; trong đó đề ra những quy tắc xử sự chung hoặc sửa đổi, đình chỉ hiệu lực, bãi bỏ những quy phạm hiện hành hoặc thay đổi phạm vi hiệu lực của chúng. Còn giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Trường Đại học Luật Hà Nội cho rằng văn bản QPPL là hình thức pháp luật thể hiện dưới dạng văn bản có chứa 13 đựng các quy tắc xử sự chung, do các chủ thể có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục và hình thức luật định, được nhà nước bảo đảm thực hiện và được sử dụng nhiều lần trong cuộc sống. Như vậy, các giáo trình đều có sự thống nhất khi khẳng định văn bản QPPL do các chủ thể có thẩm quyền ban hành, theo trình tự, thủ tục và hình thức pháp luật quy định và quan trọng nhất là nội dung của văn bản đó phải là quy tắc xử sự chung. Tôi cho ràng nội dung văn bản QPPL là quy tắc xử sự chung vẫn chưa bao quát được toàn bộ nội dung của văn bản QPPL. Vì ngoài quy tắc xử sự chung là tế bào của văn bản QPPL, nội dung của văn bản QPPL còn có những quy phạm khác như quy phạm nguyên tắc, quy phạm giải thích… Trực tiếp đề cập đến hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản QPPL có Giáo trình Xây dựng văn bản pháp luật của Trường đại học Luật Hà Nội. Giáo trình đã dành một chương riêng đề cập đến hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản. Tuy nhiên, Giáo trình này tiếp cận kiểm tra và xử lý rộng hơn so với nội dung luận án. Kiểm tra và xử lý được xem xét, phân tích với đối tượng là văn bản pháp luật bao gồm cả văn bản QPPL và văn bản áp dụng pháp luật. Những vấn đề cơ bản nhất về kiểm tra văn bản pháp luật như khái niệm, nguyên tắc, phương thức kiểm tra; thẩm quyền và nghiệp vụ kiểm tra văn bản pháp luật được đề cập khá cụ thể. Ngoài ra, giáo trình này còn phân tích và lý giải khá sâu sắc về hoạt động xử lý văn bản pháp luật như khái niệm, các dạng khiếm khuyết của văn bản pháp luật, thẩm quyền và biện pháp xử lý đối với văn bản pháp luật khiếm khuyết. Dù tiếp cận hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản pháp luật nói chung nhưng nội dung của giáo trình này đã đem lại ý nghĩa thiết thực để luận giải về kiểm tra và xử lý văn bản QPPL. 1.2.2. Các sách và đề tài nghiên cứu Cuốn sách Cải cách cơ chế kiểm tra tính hợp pháp của các văn bản hành chính ở Trung Quốc của tác giả Meng Sheng do Đinh Văn Minh và Nguyễn Văn Toàn biên dịch đã đề cập những kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc đánh giá tính hợp pháp, tính đúng đắn của một văn bản cũng như một việc làm của cơ quan hành chính. Cơ chế kiểm tra tính hợp pháp của văn bản hành chính được tác giả phân tích cụ thể, sâu sắc với xuất phát điểm từ mối quan hệ giữa nền hành chính 14 Trung Quốc với công chúng để luận giải về các cơ chế kiểm tra, giám sát từ bên ngoài và tự kiểm tra đối với văn bản hành chính; các hình thức pháp lý của kiểm tra văn bản hành chính; cải cách cơ chế kiểm tra văn bản hành chính từ cách tiếp cận mới về đối tượng của hoạt động kiểm tra, cải cách cơ chế kiểm tra không mang tính tố tụng với văn bản hành chính đến cải cách về tố tụng hành chính trong đó nhấn mạnh vai trò, phạm vi và đối tượng kiểm tra của Tòa án hành chính Trung Quốc. Khái niệm văn bản hành chính mà cuốn sách đề cập được hiểu bao gồm ba nhóm văn bản QPPL, văn bản cá biệt và hợp đồng hành chính. Tuy có quan niệm khác nhau về thuật ngữ văn bản hành chính giữa Việt Nam và Trung Quốc nhưng cuốn sách vẫn có giá trị tham khảo rất bổ ích và liên quan đến đề tài của luận án. Trong quá trình triển khai thực hiện luận án, tôi đã tham khảo cuốn sách Pháp luật hành chính của Cộng hòa Pháp của Martine Lombard, Giáo sư Trường Đại học Tổng hợp Panthéon-Assas và Gilles Dumont (Paris II), Giáo sư Trường Đại học Luật và Kinh tế Limoges, do Nxb Tư pháp phát hành năm 2007. Cuốn sách là tài liệu đầy đủ và chi tiết nhất về sự hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật hành chính của Cộng hòa Pháp. Cuốn sách đã lý giải về nguồn luật và trật tự thứ bậc giữa các nguồn của pháp luật hành chính đến cơ chế kiểm tra sự tuân thủ trật tự thứ bậc đó… Tại Chương I, cuốn sách đã luận giải rất chi tiết về nguồn luật gồm các quy phạm hiến định, quy phạm pháp luật quốc tế và pháp luật của Liên minh châu Âu, các quy phạm có tính chất án lệ, luật và văn bản dưới luật, pháp lệnh và thông tư có hiệu lực thi hành bắt buộc. Trong quá trình phân tích về từng loại nguồn luật, cuốn sách đã tiếp cận từ cách hiểu, bản chất, trật tự pháp lý và nhất là đưa ra những tiêu chí để kiểm tra, giám sát về tính hợp hiến; về sự phù hợp của quyết định hành chính với quy định của điều ước quốc tế; cơ chế kiểm tra, giám sát của Tham chính viện đối với pháp lệnh và điều kiện về tính hợp pháp của thông tư có hiệu lực thi hành bắt buộc. Có thể nói, đây là những nội dung thực sự có ý nghĩa khi nghiên cứu dưới góc độ so sánh về kiểm tra và xử lý văn bản QPPL, cụ thể là về tiêu chí để xem xét tính hợp pháp của văn bản QPPL. Trực tiếp nghiên cứu về xử lý văn bản khiếm khuyết còn có cuốn sách Xử lý văn bản quản lý hành chính nhà nước khiếm khuyết của TS. Nguyễn Thế Quyền. 15 Cuốn sách đã đề cập khá tổng thể về những khía cạnh liên quan đến hoạt động xử lý văn bản quản lý hành chính. Tác giả đã lý giải về khái niệm văn bản quản lý hành chính nhà nước, về các văn bản quản lý hành chính nhà nước thuộc diện xử lý, khái niệm xử lý và hình thức, ngôn ngữ của văn bản xử lý văn bản quản lý hành chính nhà nước khiếm khuyết. Tuy nhiên, cuốn sách đề cập việc xử lý văn bản quản lý hành chính nhà nước với nhiều loại văn bản bao gồm văn bản QPPL, văn bản áp dụng pháp luật và văn bản hành chính thông thường nhưng chưa làm nổi bật được sự khác biệt về xử lý đối với từng nhóm văn bản với nhau. Rất tiếc nhiều vấn đề liên quan trực tiếp đến hoạt động xử lý văn bản quản lý hành chính nhà nước khiếm khuyết nhưng chưa được tác giả đề cập sâu trong cuốn sách như thẩm quyền, thủ tục và biện pháp xử lý. Mặc dù vậy, nội dung cuốn sách vẫn có giá trị trong việc gợi mở một số vấn đề cần tiếp tục được nghiên cứu và làm sâu sắc thêm dưới góc độ khoa học pháp lý. Sau khi có Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2002, cuốn sách Bình luận Luật Ban hành văn bản QPPL với sự hỗ trợ của Văn phòng UNDP, dự án VIE 02/015 đã được Nxb Tư pháp phát hành. Cuốn sách đã bình luận khá cụ thể những quy định của Luật Ban hành văn bản QPPL với mục đích làm rõ ý tưởng, tinh thần của nhà soạn thảo nhằm triển khai thực thi đúng đắn và có hiệu quả quy định của Luật trong thực tiễn. Cuốn sách có nhiều nội dung liên quan chặt chẽ và trực tiếp đến đề tài của luận án như khái niệm văn bản QPPL; kiểm tra, giám sát và xử lý đối với văn bản QPPL sai trái. Về khái niệm và các dấu hiệu đặc trưng của văn bản QPPL, các tác giả của cuốn sách cho rằng dấu hiệu quan trọng nhất để nhận biết một văn bản QPPL đó là văn bản đó có chứa quy phạm pháp luật. Văn bản có chứa đựng quy phạm pháp luật thì mới tuân thủ thẩm quyền, trình tự, thủ tục và hình thức Luật định. Có thể nói, đây là quan điểm khá nhất quán giữa các nhà khoa học pháp lý và người soạn thảo. Ngoài ra, các tác giả của cuốn sách cũng bình luận thuyết phục về hoạt động giám sát, kiểm tra và xử lý văn bản QPPL. Các tác giả cho rằng giám sát, kiểm tra văn bản QPPL đều là sự xem xét, đánh giá hình thức và nội dung văn bản để kết luận về tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của văn bản QPPL trong hệ thống pháp luật. Tuy hoạt động kiểm tra mới chỉ 16 được xem xét, đánh giá về tính hợp pháp còn tính hợp lý chưa được đề cập đến trong cuốn sách nhưng những nội dung này thực sự có ý nghĩa khi triển khai nghiên cứu hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản QPPL ở Việt Nam hiện nay. Cuốn sách mang tính nghiệp vụ và có giá trị ứng dụng cao đó là cuốn Sổ tay kỹ thuật soạn thảo, thẩm định, đánh giá tác động của văn bản QPPL do nhóm chuyên gia (bao gồm một số chuyên gia độc lập và một số chuyên gia của Bộ Tư pháp) thực hiện soạn thảo và biên tập, NxbTư pháp phát hành năm 2011. Mặc dù cuốn sổ tay đề cập đến nhiều vấn đề tương đối trừu tượng, cập nhật nhiều kiến thức, kinh nghiệm quốc tế mới về xây dựng chính sách, xây dựng pháp luật mà không có nội dung về kiểm tra và xử lý văn bản QPPL sau khi được ban hành nhưng khá nhiều nội dung có giá trị là nền tảng để tác giả luận án bàn luận cũng như lý giải sâu sắc hơn, lôgic hơn về hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản QPPL, có thể kể đến như tiêu chí chung của một văn bản QPPL tốt; nội dung của thẩm định dự thảo văn bản QPPL… Kỷ yếu hội thảo quốc tế về bảo hiến là cuốn sách đã tập hợp đầy đủ các báo cáo tham luận của của các chuyên gia Việt Nam và quốc tế được trình bày tại hội thảo. Hội thảo quốc tế về bảo hiến do Dự án hỗ trợ cải cách pháp luật và tư pháp Việt Nam, Văn phòng hỗ trợ dự án chung phối hợp với Văn phòng Quốc hội tổ chức. Cuốn sách này là một trong những đóng góp của các nhà khoa học luật nhằm xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng thiết chế bảo hiến phù hợp ở Việt Nam. Tuy nội dung cuốn sách không nghiên cứu trực tiếp về kiểm tra và xử lý văn bản QPPL nhưng từ những cơ sở lý luận về thiết chế bảo hiến nhưng những nghiên cứu này đã gợi mở cho nghiên cứu sinh tiếp cận về cơ chế kiểm tra và xử lý văn bản QPPL ngoài hệ thống. Nếu như thiết chế bảo hiến bảo vệ tính tối cao của Hiến pháp thì thiết chế Tòa án hành chính lại bảo vệ tính hợp pháp của văn bản QPPL do cơ quan nhà nước cấp trên ban hành, bảo đảm hệ thống văn bản QPPL không chỉ hợp hiến mà còn hợp pháp, thống nhất và đồng bộ. Trong các báo cáo tham luận, bài viết Tính hợp hiến và hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật của TS. Bùi Thị Đào đã luận giải rất cụ thể và xác đáng về các biểu hiện của tính hợp pháp, tính hợp hiến là tiền đề và cơ sở quan trọng để Tòa hiến pháp ra phán quyết đối với văn bản QPPL. Đây cũng là nội dung mà luận án nghiên cứu bởi vì muốn kiểm tra và xử lý 17 đối với văn bản QPPL phải có tiêu chí để nhận biết văn bản QPPL hợp hiến, hợp pháp. Tất nhiên, nội dung của cuốn sách chỉ liên quan đến một vài khía cạnh của luận án. Tìm hiểu trực tiếp về hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản QPPL, chúng tôi có dịp tham khảo một số công trình nghiên cứu khoa học về đề tài này. Năm 2004, Viện khoa học pháp lý Bộ Tư pháp đã triển khai nghiên cứu đề tài "Cơ chế kiểm tra văn bản QPPL - thực trạng và giải pháp hoàn thiện" làm cơ sở khoa học cho hoạt động kiểm tra văn bản QPPL được tiến hành trên thực tế. Đề tài đã nghiên cứu khá sâu sắc về khái niệm kiểm tra văn bản QPPL, phân biệt kiểm tra văn bản QPPL với một số khái niệm tương tự để khẳng định kiểm tra văn bản QPPL có những dấu hiệu đặc thù; phân tích về cơ chế kiểm tra văn bản QPPL và mục đích, ý nghĩa của việc hoàn thiện cơ chế kiểm tra văn bản QPPL trong thời gian tới. Có thể nói, đây là đề tài nghiên cứu khoa học đầu tiên về cơ sở lý luận kiểm tra văn bản QPPL cũng như đánh giá thực trạng và đưa ra các giải pháp hữu hiệu để hoàn thiện cơ chế kiểm tra văn bản QPPL. Tuy nhiên, đề tài chỉ giới hạn trong phạm vi cơ chế kiểm tra văn bản QPPL mà không đề cập đến hoạt động xử lý văn bản QPPL. Năm 2010, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường Kiểm tra, rà soát, xử lý, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật với mã số LH-09-08/ĐHL-HN do TS. Bùi Thị Đào làm chủ nhiệm. Đề tài được nhóm tác giả nghiên cứu công phu với cách tiếp cận khái niệm kiểm tra rất rộng bao gồm cả kiểm tra trước (thẩm định, thẩm tra) và kiểm tra sau khi văn bản được ban hành. Đồng thời khái niệm kiểm tra mà đề tài tiếp cận còn được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực Nhà nước và hoạt động kiểm tra của cơ quan hành chính. Ngoài ra, đề tài còn nghiên cứu về hoạt động rà soát, xử lý và hệ thống hóa văn bản QPPL theo hướng các hoạt động này tuy có nét khác biệt song cùng chung mục đích hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành. 1.2.3. Luận án, luận văn và các bài báo TS. Bùi Thị Đào đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ với đề tài "Tính hợp pháp và tính hợp lý của quyết định hành chính". Luận án đã đi sâu phân tích các 18 tiêu chí về tính hợp pháp và hợp lý của quyết định hành chính để từ đó khẳng định tính hợp pháp và hợp lý luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau, làm tiền đề cho nhau. Tác giả đã tiếp cận khái niệm quyết định hành chính bao gồm hai loại quyết định hành chính quy phạm pháp luật và quyết định hành chính áp dụng pháp luật (cá biệt). Vì vậy khi đưa ra những tiêu chuẩn về tính hợp pháp và tính hợp lý của quyết định hành chính ngoài những điểm chung giống nhau, mỗi nhóm quyết định hành chính lại có tiêu chuẩn đặc thù về tính hợp pháp và tính hợp lý (với quyết định hành chính cá biệt phải được ban hành đúng thời hạn…). Nghiên cứu những vấn đề tổng quan về kiểm tra và xử lý văn bản QPPL còn có luận văn thạc sĩ của Trương Thị Phương Lan với tên gọi "Kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật do chính quyền địa phương ban hành ở nước ta hiện nay", Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2007. Luận văn lý giải khá cơ bản về lý luận, thực trạng và giải pháp cho hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản QPPL nhưng chỉ giới hạn với những văn bản QPPL do chính quyền địa phương ban hành. Cho đến nay, khái niệm văn bản QPPL vẫn chưa có quan điểm thống nhất và vẫn là đề tài được bàn luận trên nhiều diễn đàn. Khi lý giải về đối tượng của hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản QPPL, tôi có điều kiện tham khảo những bài viết của một số tác giả bàn về khái niệm văn bản QPPL. Điển hình như bài viết của TS. Nguyễn Cửu Việt Về khái niệm văn bản quy phạm pháp luật, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 11, và Trở lại khái niệm văn bản quy phạm pháp luật, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 4. Tác giả đã phê phán cách định nghĩa của pháp luật hiện hành "văn bản quy phạm pháp luật là văn bản" cho rằng đó là cách diễn nôm trong định nghĩa và đưa ra cách định nghĩa "văn bản quy phạm pháp luật là một hình thức ghi nhận kết quả sự thể hiện ý chí của các chủ thể có thẩm quyền…". Bài viết Văn bản quy phạm pháp luật và quy định của luật thực định Việt Nam về văn bản quy phạm pháp luật của TS. Nguyễn Minh Đoan đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 7 năm 2010 đã khẳng định hai dấu hiệu đặc trưng cơ bản nhất của văn bản QPPL là luôn gắn liền với Nhà nước (do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện) và có chứa quy phạm pháp luật (quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung). Theo tác giả những dấu hiệu khác của văn bản QPPL như thủ tục, 19 trình tự ban hành và hình thức của văn bản tuân theo quy định pháp luật là những dấu hiệu không phải là những dấu hiệu quan trọng và bắt buộc. Vì vậy, tác giả cho rằng Luật ban hành văn bản QPPL chỉ cần định nghĩa văn bản QPPL với hai dấu hiệu bắt buộc như gắn liền với Nhà nước và có chứa đựng quy tắc xử sự chung là đủ. Năm 2011, GS.TS. Phạm Hồng Thái đã thể hiện quan điểm của mình trong bài viết "Văn bản quy phạm pháp luật và pháp luật về văn bản quy phạm pháp luật", Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 7 (232). Trong đó bài viết đã chỉ ra những điểm bất cập của pháp luật hiện hành về văn bản QPPL, là một trong những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến chất lượng văn bản QPPL và chất lượng hệ thống pháp luật. Từ đó tác giả đã đề xuất những giải pháp có ý nghĩa nhằm nhận diện chính xác văn bản QPPL hiện nay. Đối với tiêu chí đánh giá tính hợp pháp và tính hợp lý của văn bản pháp luật nói chung và văn bản QPPL nói riêng đã được PGS.TS. Vũ Thư bàn luận trong bài viết Tính hợp pháp và hợp lý của văn bản pháp luật và các biện pháp xử lý khiếm khuyết của nó, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1, năm 2003. Tác giả đã phân tích rất sâu sắc và cụ thể về các biểu hiện tính hợp pháp và tính hợp lý của văn bản pháp luật để từ đó thấy được giữa tính hợp pháp và tính hợp lý luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong hợp pháp đã có hợp lý và ngược lại. Đồng thời bài viết còn bình luận khá lôgic, rõ ràng về từng biện pháp xử lý đối với văn bản pháp luật khiếm khuyết. Về các biện pháp xử lý, tôi được tiếp cận với khá nhiều bài viết có giá trị của tác giả Bùi Thị Đào như "Về bãi bỏ và hủy bỏ văn bản quy phạm pháp luật" tạp chí Luật học, số 5/2001, Văn bản quy phạm trái pháp luật và xử lí văn bản quy phạm trái pháp luật, Tạp chí Luật học, số 10/2007. Tác giả phân tích khái niệm văn bản quy phạm trái pháp luật, các trường hợp cụ thể, thẩm quyền và hình thức xử lí. Bài viết đi sâu phân tích một số khía cạnh của trường hợp văn bản quy phạm có nội dung trái pháp luật. TS. Nguyễn Quốc Hoàn còn có bài viết "Xử lý văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 10/2001. Bài viết đã phân tích cơ sở để xác định tính trái pháp luật của văn bản QPPL đó là phải xuất phát từ chính khái niệm văn bản QPPL để từ đó khẳng định tính trái pháp luật của văn bản 20 QPPL được xem xét ở ba góc độ: về thẩm quyền ban hành; nội dung trái với văn bản QPPL của cơ quan cấp trên; nội dung không phù hợp với hình thức của văn bản. Tác giả đã bước đầu khẳng định văn bản QPPL có tính trái pháp luật thì sẽ bị xử lý và chia thành hai trường hợp cụ thể để xử lý đó là khi văn bản QPPL đã được ban hành và công bố nhưng chưa có hiệu lực và khi văn bản QPPL đã phát sinh hiệu lực. Trong trường hợp văn bản QPPL chưa phát sinh hiệu lực cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ việc thi hành và yêu cầu cơ quan soạn thảo sửa đổi, bổ sung, nếu đã có hiệu lực thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định định hủy bỏ và khắc phục hậu quả pháp lý. Tuy nhiên, bài viết chưa đề cập đến thẩm quyền, thủ tục và các biện pháp xử lý như sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ… TS. Hoàng Thị Ngân với bài viết Trách nhiệm về ban hành văn bản quy phạm pháp luật sai trái, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5, năm 2003. Tác giả đã đề cập bàn luận về một vấn đề khá nhạy cảm và khó thực hiện trong bối cảnh của Việt Nam lúc đó cũng như hiện nay đó là trách nhiệm của người ban hành văn bản QPPL sai trái. Bài viết khẳng định, cơ quan ban hành cũng như cơ quan tham mưu soạn thảo, thẩm định, thẩm tra văn bản QPPL sai trái sẽ phải chịu trách nhiệm kỷ luật thậm chí trách nhiệm hình sự nếu gây hậu quả nghiêm trọng. Ngoài ra, còn có những bài viết khác liên quan đến nội dung luận án của các tạp chí Luật học, Nhà nước và pháp luật, Tạp chí Dân chủ và pháp luật... Ở những khía cạnh khác nhau, việc nghiên cứu về hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản QPPL đã được các tác giả trên đây đề cập đến nhưng mới chỉ dừng lại ở từng nội dung cụ thể mà không có điều kiện để giải quyết toàn diện và sâu sắc về mọi khía cạnh của kiểm tra và xử lý văn bản QPPL.Vì vậy, nghiên cứu một cách chuyên sâu hơn, đầy đủ, toàn diện và có hệ thống hơn về hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là thực sự cần thiết.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng