ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN PHƯƠNG LINH
KIÓM SO¸T HµNH VI QU¶NG C¸O G¢Y NHÇM LÉN
THEO PH¸P LUËT C¹NH TRANH ë VIÖT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN PHƯƠNG LINH
KIÓM SO¸T HµNH VI QU¶NG C¸O G¢Y NHÇM LÉN
THEO PH¸P LUËT C¹NH TRANH ë VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. BÙI NGỌC CƯỜNG
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Phương Linh
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT KIỂM SOÁT
HÀNH VI QUẢNG CÁO GÂY NHẦM LẪN ................................ 5
1.1.
Khái quát về hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn .............................. 5
1.1.1. Khái niệm hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn ....................................... 5
1.1.2. Đặc điểm của hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn .................................. 7
1.1.3. Các hình thức quảng cáo gây nhầm lẫn .............................................. 8
1.2.
Pháp luật kiểm soát hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn ................. 12
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật kiểm soát hành vi quảng
cáo gây nhầm lẫn ............................................................................. 12
1.2.2. Nội dung cơ bản của pháp luật kiểm soát hành vi quảng cáo gây
nhầm lẫn .......................................................................................... 14
1.3.
Học tập kinh nghiệm của một số nước trên thế giới trong
việc kiểm soát hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói
chung và hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn nói riêng ................... 24
1.3.1. Nhật Bản.......................................................................................... 25
1.3.2. Cộng hoà Liên Bang Đức................................................................. 30
1.3.3. Đài Loan .......................................................................................... 34
Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ HÀNH VI QUẢNG CÁO GÂY
NHẦM LẪN Ở VIỆT NAM .......................................................... 40
2.1.
Thực trạng về hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn ở Việt Nam ...... 40
2.1.1. Bắt chước một sản phẩm khác ......................................................... 40
2.1.2. Đưa ra những thông tin gây nhầm lẫn cho khách hàng ..................... 42
2.1.3. Các hình thức khác gây nhầm lẫn cho khách hàng ........................... 47
2.2.
Thực trạng xử lý hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn ở Việt Nam ...... 48
Chương 3: ĐÁNH GIÁ CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT KIỂM SOÁT
HÀNH VI QUẢNG CÁO GÂY NHẦM LẪN VÀ MỘT SỐ
GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VẤN ĐỀ NÀY ...................... 51
3.1.
Một số đánh giá về các quy định của pháp luật kiểm soát
hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn................................................... 51
3.2.
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về kiểm soát
hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn ở Việt Nam ............................... 56
3.2.1. Định hướng chung ........................................................................... 56
3.2.2. Một số giải pháp về hoàn thiện pháp luật ......................................... 58
3.2.3. Giải pháp về thực thi pháp luật ........................................................ 62
KẾT LUẬN ................................................................................................. 65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 67
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động quảng cáo ở Việt Nam được hình thành cùng với sự chuyển
hướng của nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị
trường. Nhận thức được tầm quan trọng của quảng cáo, các doanh nghiệp đã
sử dụng quảng cáo như một công cụ thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh,
nhằm mục đích chiếm lĩnh thị trường và tạo lợi thế cạnh tranh cho mình.
Trước bối cảnh sức ép từ thị trường ngày càng gay gắt, các doanh nghiệp luôn
coi quảng cáo như một công cụ hữu hiệu trong việc thuyết phục người tiêu
dùng sử dụng sản phẩm của mình, từ đó dẫn tới tình trạng hoạt động quảng
cáo ngày càng nhiều biến tướng cả về nội dung lẫn hình thức, trong đó phải
kể tới hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn. Theo quy định của Luật Cạnh tranh
thì quảng cáo gây nhầm lẫn là một trong những hành vi cạnh tranh không lành
mạnh và bị cấm thực hiện. Để hạn chế các hành vi này, ngày 01/7/2005, Luật
Cạnh tranh có hiệu lực góp phần tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành
mạnh cho nền kinh tế thị trường ở nước ta. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn tồn
tại rất nhiều hình thức quảng cáo với thông tin dễ dàng khiến người tiêu dùng
nhầm lẫn và mua sản phẩm nhưng chất lượng, giá cả không đúng như quảng
cáo đưa ra. Điều này không chỉ gây thiệt hại cho người tiêu dùng mà còn ảnh
hưởng tới các nhà kinh doanh chân chính khác, làm cho thị trường trở nên bất
ổn. Trong khi đó, pháp luật cạnh tranh vẫn chưa phát huy được vai trò của
mình trong việc hạn chế các hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
mạnh nói chung cũng như hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn nói riêng.
Trước tình hình này, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh
hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, tạo
môi trường cạnh tranh lành mạnh là rất cần thiết. Pháp luật về quảng cáo và
1
pháp luật về cạnh tranh đều có những quy định về hành vi quảng cáo gây
nhầm lẫn, tuy nhiên hành vi này là một dạng thức của hành vi quảng cáo
nhằm cạnh tranh không lành mạnh nên nó chịu sự điều chỉnh chính của pháp
luật cạnh tranh. Vì vậy, học viên xin chọn đề tài luận văn thạc sĩ của mình là:
“Pháp luật kiểm soát hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn theo pháp luật Cạnh
tranh của Việt Nam” để nghiên cứu các quy định về hành vi này dưới góc độ
pháp luật cạnh tranh.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tính tới thời điểm hiện tại, đã có rất nhều công trình nghiên cứu có liên
quan đến pháp luật về quảng cáo và đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, hầu hết các công trình đều nghiên
cứu một cách tổng quát, chưa tập trung nghiên cứu các hoạt động quảng cáo
cũng như hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Học viên có
thể đưa ra một số công trình nghiên cứu như: Luận văn thạc sĩ Luật học của
tác giả Trần Dũng Hải về “Hoạt động quảng cáo thương mại ở Việt Nam.
Những vấn đề lý luận và thực tiễn”; Luận văn thạc sĩ Luật học về “Pháp luật
quảng cáo với vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng” của tác giả Đào Thị
Tuyết Vân; “Pháp luật điều chỉnh hành vi quảng cáo so sánh của Liên minh
Châu Âu và Việt Nam- Nghiên cứu dưới góc độ so sánh luật” của tác giả
Trương Hồng Quang…. Việc đi sâu nghiên cứu về hành vi quảng cáo gây
nhầm lẫn là một trong các biện pháp giúp bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
cũng như quyền lợi của những doanh nghiệp chân chính, đồng thời góp phần
hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu dưới hai khía cạnh, trước hết là đi sâu
phân tích những vấn đề lý luận về hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn, đồng thời
2
bình luận các hành vi thực tiễn có liên quan. Sau đó đưa ra những biện pháp
hoàn thiện pháp luật, giúp nhà nước ta kiểm soát được hành vi quảng cáo gây
nhầm lẫn, tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp,
đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu về hành vi quảng
cáo gây nhầm lẫn nhằm mục đích cạnh tranh không lành mạnh.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn sẽ nghiên cứu những vấn đề lý luận
chung liên quan đến hoạt động quảng cáo trong pháp luật nói chung và pháp
luật cạnh tranh nói riêng. Đồng thời tìm hiểu quá trình thực thi pháp luật về
vấn đề này, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm khắc phục tình trạng quảng
cáo gây nhầm lẫn nhằm cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành tốt đề tài, học viên sẽ sử dụng kết hợp các phương pháp
nghiên cứu như: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp; phương
pháp diễn dịch, phương pháp quy nạp, phương pháp thống kê, phương pháp
so sánh, phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp tiếp cận liên ngành….
Và nhiều phương pháp nghiên cứu của các ngành Khoa học xã hội nói chung
cũng như ngành Luật học nói riêng.
6. Ý nghĩa của đề tài
Về mặt lý luận, đề tài sẽ đưa ra những vấn đề pháp lý liên quan đến
hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn theo quy định của Pháp luật nói chung, đặc
biệt đi sâu phân tích dưới góc độ pháp luật cạnh tranh. Trên cơ sở đó, học
viên đưa ra các nhận xét và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật trong lĩnh vực này. Những giải pháp đó như một nguồn bổ sung cho các
3
kiến thức khoa học và thực tiễn cho pháp luật về hành vi quảng cáo gây nhầm
lẫn, góp phần bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp, lợi ích người tiêu dùng, xây
dựng được một môi trường cạnh tranh lành mạnh.
7. Kết cấu của luận văn
Nội dung của luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về Pháp luật kiểm soát hành vi quảng cáo
gây nhầm lẫn.
Chương 2: Thực trạng về hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn ở Việt Nam.
Chương 3. Đánh giá về các quy định của pháp luật kiểm soát hành vi
quảng cáo gây nhầm lẫn và một số giải pháp nhằm hoàn
thiện vấn đề này.
4
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT KIỂM SOÁT HÀNH VI QUẢNG
CÁO GÂY NHẦM LẪN
1.1. Khái quát về hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn
1.1.1. Khái niệm hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn
Để hiểu được thế nào là một hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn, trước hết
chúng ta phải đưa ra được khái niệm về quảng cáo. Tuy nhiên, Luật Cạnh tranh
không đưa ra quy phạm định nghĩa “quảng cáo” , do vậy chúng ta chỉ có thể
hiểu khái niệm này qua việc vận dụng các quy định trong một số văn bản pháp
luật khác. Hiện nay, có nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh hành vi quảng cáo,
trong đó Luật Thương mại 2005 đưa ra khái niệm: “Quảng cáo thương mại là
hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân để giới thiệu với khách hàng
về hoạt động kinh doanh hàng hóa, dịch vụ của mình” [27, Điều 102]. Còn
theo quy định tại Luật Quảng cáo 2012:
Quảng cáo là việc sử dụng các phương tiện nhằm giới thiệu
đến công chúng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có mục đích sinh lợi;
sản phẩm, dịch vụ không có mục đích sinh lợi; tổ chức, cá nhân
kinh doanh sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ được giới thiệu, trừ tin thời
sự; chính sách xã hội; thông tin cá nhân [30, Điều 2, Khoản 1].
Như vậy, hiện đang tồn tại hai khái niệm, quảng cáo và quảng cáo
thương mại, tuy nhiên chúng ta có thể hiểu quảng cáo nói chung là hoạt động
giới thiệu đến người tiêu dùng các thông tin về sản phẩm như công dụng, chất
lượng, giá cả, xuất xứ…. Để thuyết phục được người tiêu dùng sử dụng các
sản phẩm của mình, các doanh nghiệp sẽ đưa ra những ưu điểm nổi bật của
5
sản phẩm, dẫn tới tình trạng quảng cáo không đúng với thực tế, thổi phồng giá
trị của sản phẩm được quảng cáo. Điển hình là hành vi quảng cáo gian dối
hoặc gây nhầm lẫn bằng cách đưa ra những thông tin không đúng thực tế, các
thông tin mơ hồ, thiếu sót…. gây ra nhận thức sai lệch cho người tiếp nhận.
Những quảng cáo này được coi là những hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh, nó không chỉ gây ảnh hưởng tới người tiêu dùng và các
doanh nghiệp khác mà còn tác động xấu tới nền kinh tế.
Hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn là một dạng của hành vi quảng cáo
nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Mặc dù pháp luật không quy định cụ thể
về hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn nhưng chúng ta có thể hiểu về hành vi này
thông qua hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Luật Cạnh
Tranh 2004 có quy định như sau:
“Điều 45. Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Cấm doanh nghiệp thực hiện các hoạt động quảng cáo sau đây:
1. So sánh trực tiếp hàng hoá, dịch vụ của mình với hàng hoá,
dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác;
2. Bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn
cho khách hàng;
3. Đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng
về một trong các nội dung sau đây:
a) Giá, số lượng, chất lượng, công dụng, kiểu dáng, chủng loại,
bao bì, ngày sản xuất, thời hạn sử dụng, xuất xứ hàng hoá, người
sản xuất, nơi sản xuất, người gia công, nơi gia công;
b) Cách thức sử dụng, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành;
6
c) Các thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn khác.
4. Các hoạt động quảng cáo khác mà pháp luật có quy định
cấm [25, Điều 45].
Từ phân tích trên, chúng ta có thể định nghĩa như sau: Quảng cáo gây
nhầm lẫn là việc chủ thể thực hiện quảng cáo đưa ra các thông tin không đầy
đủ, không rõ ràng làm cho người tiếp nhận hiểu nhầm về hàng hoá, dịch vụ
hoặc hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Hành động gây nhầm lẫn có thể do cố ý hoặc vô ý, tuy nhiên nội dung
quảng cáo vẫn gây ảnh hưởng tiêu cực tới người tiêu dùng và cần được pháp
luật điều chỉnh. Rất nhiều doanh nghiệp khi thực hiện hoạt động quảng cáo
không nhận thức được đó là hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn. Điều này chứng
tỏ rằng một hành vi quảng cáo có được coi là gây nhầm lẫn hay không không
hề đơn giản, vì điều này còn phụ thuộc vào nhận thức của người tiêu dùng, có
những người cho rằng hành vi quảng cáo đó gây nhầm lẫn cho họ nhưng với
người khác thì không. Chính vì vậy, chúng ta cần phải đưa ra những quy định
cụ thể và rõ ràng hơn về vấn đề này.
1.1.2. Đặc điểm của hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn
Hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn là một dạng của hành vi quảng cáo
nhằm cạnh tranh không lành mạnh, vì thế nó cũng mang những đặc điểm của
hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Hành vi quảng cáo gây
nhầm lẫn có những đặc điểm chính sau:
- Thứ nhất, chủ thể thực hiện hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn là cá
nhân, doanh nghiệp, tổ chức quảng cáo sản phẩm, dịch vụ của mình (gọi
chung là người quảng cáo). Các chủ thể này sẽ trực tiếp quảng cáo với những
thông tin, hình ảnh không trung thực, gây nhầm lẫn nhằm nâng cao hiệu quả
kinh doanh.
7
- Thứ hai, hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn khó nhận biết bởi để khẳng
định một hành vi quảng cáo có gây nhầm lẫn cho người nhận hay không
không hề đơn giản. Nó không chỉ đơn thuần phụ thuộc vào những thông tin,
hình ảnh quảng cáo đưa ra mà nó còn phụ thuộc vào nhận thức của người tiếp
nhận. Có người khi xem không cảm thấy nhầm lẫn về sản phẩm được quảng
cáo, nhưng số khác lại bị nhầm lẫn. Do vậy, để kết luận một quảng cáo là gây
nhầm lẫn cho người xem cần phải có sự kiểm định chặt chẽ của cơ quan chức
năng chuyên môn có thẩm quyền.
- Thứ ba, hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn rất đa dạng. Có rất nhiều
hình thức quảng cáo gây nhầm lẫn như so sánh về giá, về chất lượng, các hình
thức khuyến mại, giảm giá….
- Thứ tư, hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn này ngày càng tinh vi và đa
dạng hơn. Hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn dần có sự tham gia của nhiều loại
hình quảng cáo đến từ mọi thành phần doanh nghiệp, với các hình thức và nội
dung truyền tải ngày một đa dạng, hấp dẫn, phong phú và cách thức gây nhầm
lẫn ngày một tinh vi hơn, khó nhận biết hơn.
- Thứ năm, dấu hiệu hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc khi cấu
thành hành vi vi phạm. Khi phát hành một sản phẩm quảng cáo thì chỉ cần
những thông tin đưa ra trong quảng cáo gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng
cũng đủ để cấu thành hành vi vi phạm. Dấu hiệu về hậu quả chỉ để xác định
mức độ thiệt hại với thị trường và người tiêu dùng, từ đó làm căn cứ trong
việc ra quyết định xử phạt đối với đối tượng vi phạm.
1.1.3. Các hình thức quảng cáo gây nhầm lẫn
Có rất nhiều hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn và càng ngày chúng càng
đa dạng, khó nhận biết. Chúng ta có thể phân loại ra thành các hình thức cơ
bản như sau:
8
- Hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn về giá: Hành vi quảng cáo gây
nhầm lẫn về giá rất phổ biến bởi giá cả là yếu tố được đặt lên hàng đầu khi
người tiêu dùng lựa chọn một sản phẩm. Khi theo dõi những quảng cáo này,
người tiêu dùng luôn tin rằng mức giá đưa ra là mức giá hết sức hợp lý, do họ
khó có thể đối chiếu được giá quảng cáo đưa ra và giá thực tế của sản phảm.
Các hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn về giá có một số hành vi cơ bản sau:
So sánh về giá: Các doanh nghiệp sẽ phóng đại mức giá của những
sản phẩm tương tự để tác động vào tâm lý của người mua. Người tiêu dùng
luôn nghĩ rằng mình được sử dụng sản phẩm, dịch vụ với giá tốt mà chất
lượng vẫn không đổi.
Giảm giá: Hình thức này được sử dụng với mọi sản phẩm, dịch vụ và
trên mọi phương tiện quảng cáo. Các doanh nghiệp đưa ra mức giảm giá hấp
dẫn có thể lên tới 50%; 70% hoặc thậm chí tới 90%. Tuy nhiên giá trước khi
giảm lại được đẩy cao hơn nhiều so với mức giá thực tế. Người tiêu dùng rất
chuộng hình thức mua hàng này và tin tưởng rằng mình tiết kiệm được một
khoản tiền lớn nhưng không hề biết rằng mình đã “mắc lừa” nhà cung cấp.
Bán hàng thanh lý: Đây cũng là một hình thức quảng cáo gây nhầm
lẫn về giá bởi người tiêu dùng luôn nghĩ rằng giá thanh lý thấp hơn giá ban
đầu rất nhiều. Các cửa hàng thường trưng biển “thanh lý toàn bộ”, “đóng cửa
hàng”… để đưa ra thông điệp về sự gấp rút hay giảm giá đột ngột nhằm lôi
kéo khách hàng. Tuy nhiên, giá của sản phẩm trước khi thanh lý cũng được
tăng lên gấp 2; 3 lần, do vậy người tiêu dùng chỉ được mua sản phẩm với giá
rẻ hơn một chút hoặc thậm chí không được ưu đãi nào về giá.
Giá khuyến mại: Nhiều doanh nghiệp đưa ra mức giá khuyến mãi rất
hấp dẫn để thu hút người tiêu dùng, tuy nhiên mức giá này thường không bao
gồm VAT hoặc các khoản phí, phụ phí. Điển hình đó là hình thức giá khuyến
9
mại của các hãng hàng không giá rẻ với mức giá vô cùng ưu đãi, tuy nhiên
mức giá này lại chưa bao gồm chi phí ăn uống, lệ phí sân bay, phí ký gửi
hàng…. Hoặc tại một số siêu thị có trưng biểu giá khuyến mãi của sản phẩm
với giá chưa VAT rất lớn, còn dòng chữ có ghi “Giá sản phẩm chưa bao gồm
VAT” hoặc “Giá bao gồm VAT là.. ” thì rất nhỏ, khách hàng không hề chú ý.
- Các hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn về chất lượng: Các doanh
nghiệp thường phóng đại về chất lượng hoặc công dụng của sản phẩm bởi đây
là yếu tố hàng đầu khi lựa chọn một sản phẩm. Hình thức quảng cáo này rất
khó kiểm định ngay về độ chính xác, bởi chất lượng của sản phẩm không thể
cân, đong, đo, đếm được. Quảng cáo gây nhầm lẫn về chất lượng được sử
dụng với nhiều loại sản phẩm, dịch vụ nhưng chủ yếu là những sản phẩm,
dịch vụ không xác định được ngay chất lượng như chăm sóc sức khỏe, sắc
đẹp, đồ ăn, thực phẩm… Trong một số quảng cáo về đồ ăn, các doanh nghiệp
đưa ra những hình ảnh minh họa và ngôn ngữ rất ấn tượng về sản phẩm. Ví dụ
quảng cáo mỳ tôm với hình ảnh một tô mỳ thơm ngon với rất nhiều tôm, gia
vị hấp dẫn nhưng thực tế thì khác xa nhiều. Và nhà quảng cáo cũng rất thông
minh khi tránh vi phạm các quy định của pháp luật bằng cách ghi chú: “Hình
ảnh mang tính chất minh họa” với phương thức mà người xem không dễ nhận
ra. Hoặc sử dụng những ngôn từ hoa mỹ như “Làn da trắng hồng chỉ sau 7
ngày”; “Trị tận gốc tàn nhang, nám má”; “Hết đau tức thì”…. Nhưng chất
lượng thực tế của sản phẩm thì chỉ có những người đã sử dụng lâu mới có thể
nhận xét chính xác được. Có doanh nghiệp thì gián tiếp nâng cao chất lượng
sản phẩm bằng cách quảng cáo như: “Được làm từ những nguyên liệu quý
giá”; “Chiết xuất từ những thực phẩm tươi ngon nhất”… song người tiêu
dùng không thể xác minh được đó có phải sự thật hay. Những đơn vị kinh
doanh dịch vụ giảm béo, chăm sóc da thường đưa ra hình ảnh trước và sau khi
dùng sản phẩm rất đối lập nhau, người tiêu dùng khi xem quảng cáo sẽ có tâm
10
lý muốn mua ngay sản phẩm vì thấy tác dụng tức thì của nó. Hay như hiện
nay các nhà quảng cáo đưa ra chiêu bài là lấy nhận xét, phản hồi tốt của
những khách hàng đã sử dụng sản phẩm, dịch vụ của họ từ trước để làm
quảng cáo, nhưng người xem đâu có xác minh được độ trung thực của những
nhận xét, phản hồi đó.
- Các hình thức khuyến mại: Khuyến mại là hình thức quảng cáo vô
cùng hiệu quả mà hiện nay được sử dụng rất phổ biến. Khuyến mại cũng có
rất nhiều hình thức như khuyến mại về giá, khuyến mại về số lượng, chất
lượng sản phẩm… . Điển hình là các hình thức sau:
Mua sản phẩm X tặng sản phẩm Y miễn phí: Bằng hình thức này,
người tiêu dùng luôn có xu hướng cố mua thật nhiều sản phẩm. Nhưng thực
chất của việc miễn phí là gì thì không phải ai cũng rõ. Có thể doanh nghiệp
tăng giá sản phẩm lên gấp hai, ba lần rồi mới khuyến mãi, do đó lợi nhuận
không thay đổi. Hoặc sản phẩm được khuyến mại có thể là hàng tồn kho,
hàng lỗi mà nhiều đơn vị nếu để nguyên sản phẩm thì khả năng tiêu thụ được
không cao. Có thể sản phẩm chính có chất lượng không tốt như ban đầu và
được bán với giá cũ, khi tặng thêm sản phẩm khác thì có thể coi như doanh
nghiệp bán được hai sản phẩm thay vì một sản phẩm.
Khuyến mãi dùng thử miễn phí hoặc giá rẻ: Những lời mời chào
này rất phổ biến với các gói dịch vụ như truyền hình cáp, truyền hình vệ
tinh, dịch vụ internet, các dịch vụ của mạng điện thoại di động, các phiên
bản, phần mềm… . Mục đích của chúng là làm cho người tiêu dùng quen
với việc sử dụng sản phẩm, và việc dùng thử hoặc miễn phí chỉ có hiệu lực
trong thời gian nhất định. Hết thời gian này giá hoặc các điều khoản của
hợp đồng bị thay đổi. Hoặc như một số doanh nghiệp cũng giành cho khách
hàng những sản phẩm dùng thử có chất lượng tốt, nhưng sản phẩm thực thì
11
chất lượng lại thua xa.
Khuyến mại với số lượng có hạn: Thực chất của hình thức này là
khuyến mại cho số lượng khách hàng nhất định, có thể là những khách hàng
đầu tiên mua hàng hoặc với số lượng sản phẩm nhất định… Khi người tiêu
dùng tới mua sản phẩm thì bản thân họ không được áp dụng khuyến mại do
không phải là những khách hàng đầu tiên mua hàng hay số lượng hàng
khuyến mại đã được mua hết, thậm chí nhiều đơn vị chỉ đưa ra quảng cáo mà
thực tế không có sản phẩm khuyến mại được bầy bán. Nhưng với tâm lý
không muốn về tay không, họ sẽ cố gắng mua thêm các sản phẩm khác.
Trên thực tế còn rất nhiều hình thức quảng cáo gây nhầm lẫn tại Việt
Nam với nhiều biến tướng khác nhau. Trong các trường hợp đó thì lợi ích cho
người tiêu dùng thì ít mà hậu quả lâu dài thì nhiều. Lòng tin của người tiêu
dùng bị giảm sút khiến quảng cáo dần dần không đem lại hiệu quả và sức
mạnh như ban đầu, người tiêu dùng luôn có tâm lý đề phòng khi mua sản
phẩm. Hiện nay, các quy định về quảng cáo gây nhầm lẫn trong Luật Cạnh
Tranh nói riêng hay pháp luật nói chung chưa cụ thể, trong khi đó những vi
phạm về quảng cáo ngày càng tăng. Do vậy cần có những quy định đầy đủ và
nghiêm khắc hơn đối với hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
mạnh để tạo môi trường kinh doanh bình đẳng cho doanh nghiệp, bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng cho người tiêu dùng.
1.2. Pháp luật kiểm soát hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật kiểm soát hành vi quảng
cáo gây nhầm lẫn
* Khái niệm
Hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn là một dạng của hành vi quảng cáo
nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Pháp luật về chống cạnh tranh không lành
12
mạnh là chế định bao gồm các quy phạm pháp luật xác định những hành vi bị
coi là cạnh tranh không lành mạnh; trách nhiệm của các chủ thể thực hiện
những hành vi này; trình tự, thủ tục khiến kiện và cách giải quyết; các biện
pháp chế tài được áp dụng… Pháp luật kiểm soát hành vi quảng cáo gây nhầm
lẫn có thể hiểu là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành
hoặc thừa nhận để điều chỉnh các hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn; trách
nhiệm pháp lý của những chủ thể thực hiện hành vi này; chế tài áp dụng và
trình tự thủ tục xử lý các vi phạm nhằm chống lại hành vi quảng cáo nhằm
cạnh tranh không lành mạnh, bảo vệ người tiêu dùng và tạo môi trường kinh
doanh lành mạnh.
- Đặc điểm của pháp luật về kiểm soát hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn
Pháp luật về kiểm soát hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn cũng có những
đặc điểm tương tự với pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh, bao gồm
những đặc điểm như sau:
- Thứ nhất, pháp luật kiểm soát hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn mang
tính tổng hợp, bởi không có văn bản cụ thể nào quy định về vấn đề này mà nó
được quy định trong những văn bản pháp luật khác nhau như: Luật Thương
mại, Luật Quảng cáo, Luật Cạnh Trạnh; Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng. Trong đó Luật Thương mại và Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
chỉ có những quy định chung, khái quát về vấn đề này. Luật Canh tranh, Luật
Quảng cáo và các văn bản thi hành như Nghị định 158/2013/NĐ-CP ngày
12/11/2013 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa,
thể thao, du lịch và quảng cáo; Nghị định 71/2014/NĐ-CP ngày 21/7/2014
quy định chi tiết Luật Cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
cạnh tranh có vai trò quan trọng trong việc kiểm soát hành vi quảng cáo gây
nhầm lẫn tại Việt Nam.
13
- Thứ hai, pháp luật xử lý các hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn được
tiến hành theo thủ tục tố tụng cạnh tranh. Sau khi có đủ căn cứ để khẳng định
một hành vi là quảng cáo gây nhầm lẫn, cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quản lý về cạnh tranh sẽ đưa ra chế tài xử lý đối tượng vi phạm. Chế tài áp
dụng đối với hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn theo quy định hiện hành là các
biện pháp xử phạt hành chính. Việc quy định và xử lý hành vi quảng cáo gây
nhầm lẫn theo pháp luật chống cạnh tranh có ý nghĩa rất quan trọng trong việc
bảo vệ các doanh nghiệp khác và người tiêu dùng. Trong đó phải kể đến việc
hạn chế hành vi sử dụng kiểu dáng, ngôn ngữ của sản phẩm có thể gây nhầm
lẫn với sản phẩm khác, hoặc sử dụng nhãn hiệu, slogan, chỉ dẫn thương mại
dễ gây nhầm lẫn.
1.2.2. Nội dung cơ bản của pháp luật kiểm soát hành vi quảng cáo
gây nhầm lẫn
i. Các quy định về hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn
Như đã trình bầy ở trên, pháp luật nước ta không có quy định cụ thể về
hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn mà chỉ có quy định về các hành vi quảng cáo
bị cấm tại Luật Quảng cáo 2012, trong đó có hành vi: Quảng cáo không đúng
hoặc gây nhầm lẫn về khả năng kinh doanh, khả năng cung cấp sản phẩm, hàng
hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân kinh doanh sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ; về
số lượng, chất lượng, giá, công dụng, kiểu dáng, bao bì, nhãn hiệu, xuất xứ,
chủng loại, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành của sản phẩm, hàng hoá,
dịch vụ đã đăng ký hoặc đã được công bố [30, Điều 8].
Luật Cạnh tranh 2004 cũng quy định về hành vi quảng cáo nhằm cạnh
tranh không lành mạnh bị cấm đó là:
Đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về
một trong các nội dung sau đây:
14
a) Giá, số lượng, chất lượng, công dụng, kiểu dáng, chủng loại,
bao bì, ngày sản xuất, thời hạn sử dụng, xuất xứ hàng hoá, người
sản xuất, nơi sản xuất, người gia công, nơi gia công;
b) Cách thức sử dụng, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành;
c) Các thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn khác [25, Điều 45, Khoản 3].
Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 cũng bảo vệ quyền được
cung cấp thông tin đầy đủ, minh bạch và chính xác của người tiêu dùng bằng
cách đưa ra quy định về các hành vi bị cấm, trong đó có hành vi gây nhầm lẫn
thông qua hoạt động quảng cáo:
1. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ lừa dối hoặc
gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng thông qua hoạt động quảng cáo
hoặc che giấu, cung cấp thông tin không đầy đủ, sai lệch, không
chính xác về một trong các nội dung sau đây:
a) Hàng hóa, dịch vụ mà tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ cung cấp;
b) Uy tín, khả năng kinh doanh, khả năng cung cấp hàng hóa,
dịch vụ của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ;
c) Nội dung, đặc điểm giao dịch giữa người tiêu dùng với tổ
chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ [29, Điều 10].
Như vậy, mặc dù không có định nghĩa cụ thể nào về hành vi quảng cáo
gây nhầm lẫn nhưng đã có sự phân biệt giữa hành vi quảng cáo gian dối,
quảng cáo không đúng với hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn. Tuy nhiên đây
chỉ là sự phân biệt ở tên gọi chứ chưa có quy định rõ ràng. Hơn nữa trên thực
tế rất khó có thể phân biệt một giữa quảng cáo gian dối, quảng cáo không
15
- Xem thêm -