Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Kịch nguyễn huy thiệp từ góc nhìn thi pháp thể loại ...

Tài liệu Kịch nguyễn huy thiệp từ góc nhìn thi pháp thể loại

.PDF
97
1572
141

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 TRẦN THỊ HÀ KỊCH NGUYỄN HUY THIỆP TỪ GÓC NHÌN THI PHÁP THỂ LOẠI LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM HÀ NỘI, 2015 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 TRẦN THỊ HÀ KỊCH NGUYỄN HUY THIỆP TỪ GÓC NHÌN THI PHÁP THỂ LOẠI Chuyên ngành: Lý luận văn học Mã số: 60 22 01 20 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM HÀ NỘI, 2015 LỜI CẢM ƠN Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn, tôi đã nhận được sự động viên, giúp đỡ của Ban Giám hiệu trường Đại học Sư Phạm Hà Nội 2, nơi tôi đã học tập, nghiên cứu và hoàn thành cuốn luận văn này. Tôi xin chân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo, bạn bè và những người yêu quý đã giúp tôi có được kết quả như ngày hôm nay. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Phạm Thành Hưng. Với học vấn uyên thâm, niềm đam mê nghiên cứu khoa học, thầy đã hướng dẫn tôi tìm hiểu đề tài, nghiên cứu các thành tựu sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, định hướng xây dựng những luận điểm khoa học khách quan, chính xác và nhiệt tình, trách nhiệm trong quá trình hoàn thiện luận văn của tôi. Tuy thời gian học tập và nghiên cứu khoa học tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 không nhiều, nhưng tôi đã học tập và trưởng thành rất nhiều trong nhận thức, nghiên cứu khoa học của mình. Kết quả của quá trình đào tạo Thạc sĩ sẽ giúp tôi vững vàng hơn trong nghề nghiệp mà tôi đã gắn bó và cống hiến trọn đời mình. Tôi xin trân trọng cảm ơn! HàNội, ngày 05 tháng 07 năm 2015 Người viết Trần Thị Hà LỜI CAM ĐOAN Trong quá trình hoàn thành luận văn này, tất cả các ý tưởng, đề tài và nội dung chính của luận văn đều do sự nghiên cứu trung thực, nghiêm túc của tôi. Khi thực hiện đề tài, tôi có sử dụng các tư liệu tham khảo liên quan tới vấn đề nghiên cứu, nhưng tất cả chỉ là những gợi ý khoa học cần thiết để tôi phát triển ý tưởng của mình. Tất cả tư liệu được dụng, tôi đều có trích dẫn nguồn gốc một cách rõ ràng. Công trình nghiên cứu này của tôi cũng chưa được công bố trên bất cứ phương tiện thông tin đại chúng nào. Tôi xin cam đoan những điều trên là sự thật. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình. Người viết Trần Thị Hà MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 3 3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................ 6 4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 7 5. Cấu trúc luận văn .......................................................................................... 7 6. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 7 NỘI DUNG................................................................................................9 CHƢƠNG 1: NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA KỊCH NGUYỄN HUY THIỆP CHO SÂN KHẤU KỊCH VIỆT NAM........................................................... 9 1.1. Vài nét khái quát về lịch sử phát triển nền kịch Việt Nam ....................... 9 1.2. Đóng góp của kịch Nguyễn Huy Thiệp cho nền kịch Việt Nam ............. 21 1.2.1. Nguyễn Huy Thiệp – Tài năng lao động nghệ thuật................... 21 1.2.2. Đóng góp của kịch Nguyễn Huy Thiệp ....................................... 23 CHƢƠNG 2: NHÂN VẬT KỊCH ................................................................. 24 2.1. Vài nét về nhân vật kịch ............................................................................ 24 2.2. Nhân vật trong kịch Nguyễn Huy Thiệp ................................................... 26 2.2.1. Nhân vật của cuộc sống đời thường............................................. 27 2.2.2. Nhân vật lưỡng diện ..................................................................... 32 2.2.3. Nhân vật huyền thoại lịch sử ....................................................... 36 CHƢƠNG 3: KẾT CẤU VÀ XUNG ĐỘT.................................................. 41 3.1. Thời gian và không gian trong tổ chức kết cấu vở kịch........................... 41 3.1.1. Các lớp thời gian .......................................................................... 42 3.1.2. Các không gian, địa điểm xảy ra xung đột ................................. 46 3.2. Các kiểu xung đột...................................................................................... 51 3.2.1. Xung đột trên bình diện đạo đức.................................................. 54 3.2.2. Xung đột trên bình diện nhận thức .............................................. 59 3.3.Yếu tố kì ảo như một thủ pháp kết cấu nhằm tăng cường kịch tính và giải quyết các xung đột kịch ……………………………………………………...64 CHƢƠNG 4: NGÔN NGỮ KỊCH ................................................................ 67 4.1. Vài nét khái quát về ngôn ngữ kịch .......................................................... 67 4.2. Ngôn ngữ dẫn truyện của tác giả kịch bản ............................................... 69 4.3. Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật .............................................................. 73 4.4. Ngôn ngữ độc thoại của nhân vật.............................................................. 78 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 82 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 85 PHỤ LỤC ........................................................................................................ 90 1 MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trên hành trình cách tân mạnh mẽ của văn học dân tộc nửa sau thập kỉ 80 của thế kỉ XX, văn đàn Việt Nam chứng kiến sự xuất hiện của một hiện tượng văn học lạ, độc đáo, gây nhiều tranh cãi: “Hiện tượng của Nguyễn Huy Thiệp”. Các sáng tác của ông ngay sau khi ra đời đã nhanh chóng trở thành tâm điểm đáng chú ý của giới nghiên cứu phê bình và những người yêu văn chương. Đọc những sáng tác của ông có thể nhìn thấy “một cõi người ta” xù xì, gân guốc, góc cạnh, lẫn lộn giữa tốt và xấu, thật và giả, đen và trắng, cao thượng và thấp hèn với những con người có suy nghĩ, hành động và đời sống nội tâm. Cái thế giới ấy thể hiện một cách nhìn rất thật và sâu sắc của nhà văn về con người. Ngay từ những sáng tác đầu tay như: Tướng về hưu, Không có vua, Kiếm sắc, Những ngọn gió Hua Tát, Chút thoáng Xuân Hương… nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã khiến giới dư luận trong và ngoài nước tốn không biết bao nhiêu giấy mực, người khen, kẻ chê, người say đắm, kẻ hững hờ… Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên còn chủ sự cả một tập “Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp” trong đó có rất nhiều ý kiến phê bình của nhiều tên tuổi có uy tín như Hoàng Ngọc Hiến, Đỗ Đức Hiểu, Greg Lockhart, Lại Nguyên Ân… Trong cuốn sách này tác giả Phạm Xuân Nguyên từng khẳng định: “Xưa nay tôi chưa thấy có một nhà văn nào vừa xuất hiện đã gây được dư luận, càng viết dư luận càng mạnh, truyện chưa ra thì người ta đã kháo nhau, truyện đăng rồi thì gặp nhau bình phẩm, bàn tán, chốn văn phòng cũng như chốn vỉa hè, đâu đâu cũng kháo chuyện. Văn đàn thời kì đổi mới đã thêm phần khởi sắc, náo động càng thêm náo động bởi những cuộc tranh luận, cả tranh cãi xung quanh sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp” [36, tr.7]. Hay tác giả Nguyễn Hữu Hồng Minh trong bài viết của mình cũng khẳng định Nguyễn Huy Thiệp là “người trời”: “... Tôi cũng mong muỗn Nguyễn Huy Thiệp cần phải chết đi! Bởi lẽ từ khi ông xuất hiện, văn đàn không có nhân 2 vật nào đáng kể nữa! Tôi cho rằng Thiệp là người trời. Sự có mặt của ông trong làng văn chương hiện nay là một biến thiên của trời đất, vũ trụ, nó là duyên nghiệp không phải muốn là được. Bởi ông viết cái gì cũng hay, cũng quyến rũ. Cái hay của một bậc thức giả thâm thúy, thâm nho và thay mặt thượng đế để đánh thức một phía tối nào đó trong tâm hồn chúng ta. Ông đã rắc sáng vào vết thương, vào sự tối tăm của mê lộ, một hành trình của kiếp người u u minh minh, giữa trần gian và địa ngục. Ông lặn sâu vào những vỉa kinh hoàng nhất của đời sống để tạc vào câu chữ”. Bàn về sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp có thể thấy mặc dù gia tài văn học của ông chưa thật đồ sộ nhưng những trang văn của ông lại có giá trị lớn lao. Huân chương Văn học nghệ thuật của Pháp trao tặng năm 2007 là một phần thưởng vinh dự cho nhà văn, đồng thời đã khẳng định giá trị của những văn phẩm mà ông đã trình làng. Đọc truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, đa số các nhà văn, nhà phê bình đồng quan điểm về “ma lực” trong ngòi bút này. Mai Ngữ đã từng nhận xét: “Tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp đã gây bất ngờ, sửng sốt cho người đọc, khiến mọi người phải suy nghĩ nghiêm túc về thực trạng xã hội hiện nay, về sức mạnh và khả năng của văn học”. Hay Bùi Việt Thắng khẳng định: “Mỗi truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp đều như một “khối thuốc nổ” làm tan vỡ nếp nghĩ bình thường của độc giả”. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh thì cho rằng: “Những truyện của Nguyễn Huy Thiệp có một sức hấp dẫn khó cưỡng lại được. Anh có nhiều nghề lôi cuốn người đọc “ bợm” lắm” [36, tr.458]. Cho đến thời điểm hiện tại, đề tài về Nguyễn Huy Thiệp và những sáng tác của nhà văn có phần tạm lắng. Tuy nhiên không thể phủ nhận giá trị to lớn mà các tác phẩm của ông đóng góp cho nền văn học Việt Nam nói chung và nền văn học thời kì đổi mới nói riêng. Có thể nói khi nhắc đến những hiện tượng văn học tiêu biểu sau chiến tranh, bất cứ một tác giả nào cũng phải đề cập ít nhiều đến Nguyễn Huy Thiệp cũng như một biểu hiện xuất sắc và độc đáo của 3 dòng văn học đương đại. Trong bài: “Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp” trên Website: vietvan.vn, Đỗ Đức Hiểu đã từng khẳng định: Trong hành trình “Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp” tôi thấy một giọt vàng rơi vào lòng mình, giọt vàng ròng ngời sáng. Anh tái tạo truyện ngắn ở Việt Nam vào những năm cuối thế kỉ XX này và nâng nó lên một tầm cao mới. Tiến sĩ Greg Lockhart, trường Đại Học Sydney cuả Autralia đã viết về Nguyễn Huy Thiệp trục tiếp bằng tiếng Việt: “Theo tôi, đây là một tác giả có tài năng ngang tầm với những nhà văn xuất sắc quốc tế. Vì thế tôi nghĩ rằng tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp là một đóng góp cho văn học thế giới hiện đại. Đây là những lí do để dịch Nguyễn Huy Thiệp ra tiếng Anh” [36, tr.115]. Không chỉ hướng ngòi bút của mình vào thể loại truyện ngắn mà Nguyễn Huy Thiệp còn thử nghiệm ngòi bút của mình ở cả thể loại tiểu thuyết, phê bình văn học, kịch bản văn học. Nếu truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp đã đem đến một đời sống thực sự sôi động, hấp dẫn cho văn học vào những năm 80 của thế kỉ trước thì kịch bản văn học của ông lại không được độc giả chú ý đến nhiều. Phải chăng thể loại truyện ngắn đã hút hết tinh hoa, tâm lực của ông trước đó hay sự nổi danh của các tác phẩm của các tác giả kịch gia khác đã làm lu mờ đi giá trị tác phẩm của ông? Câu hỏi đó đặt ra nhưng không phải dễ để tìm thấy câu trả lời. Xuất phát từ thực tiễn trên tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu: “Kịch Nguyễn Huy Thiệp từ góc nhìn thi pháp thể loại”. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Mỗi người cầm bút khi khẳng định mình thường không chỉ thể hiện tài năng ở một lĩnh vực mà luôn muốn trải nghiệm, làm mới mình ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Và trong chặng đường sáng tác của mình khi đã đạt đến đỉnh cao ở một thể loại họ lại tìm những mảnh đất mới ở những thể loại khác để thử sức và khẳng định năng lực sáng tạo của mình. Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn cũng không nằm ngoài quy luật đó. 4 Có thể nói, trong văn học thời kì đổi mới Nguyễn Huy Thiệp là một trong những cây bút tiêu biểu nhất và có những đóng góp to lớn cho văn đàn văn học Việt Nam.Với nhiều cách tân táo bạo và một lập trường dân chủ hóa gần như triệt để, Nguyễn Huy Thiệp đã gây xôn xao dư luận trong một thời gian dài. Truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp trở thành mảnh đất màu mỡ hứa hẹn nhiều khám phá, phát hiện độc đáo cho các nhà nghiên cứu văn học và độc giả yêu văn chương. Không chỉ vậy, Nguyễn Huy Thiệp còn hướng ngòi bút của mình sang nhiều lĩnh vực khác như: thơ, tiểu thuyết, tiểu luận phê bình, đặc biệt ông cũng dành nhiều tâm huyết của mình cho thể loại kịch… Cho tới nay đã có nhiều bài viết nghiên cứu về sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, nhưng nhìn chung các công trình nghiên cứu riêng biệt về kịch của ông thì chưa nhiều. Tuy không được nổi danh như truyện ngắn nhưng kịch cũng là một đề tài chiếm nhiều tâm huyết của ông. Sau khi thành công với thể loại truyện ngắn, năm 1994 Nguyễn Huy Thiệp cho ra đời tập kịch Xuân Hồng đánh dấu sự chuyển hướng của ngòi bút Nguyễn Huy Thiệp ở thể loại kịch. Thành công của tập kịch đầu tay đã tiếp sức cho cây bút của ông nhiều năng lượng sáng tạo. Năm 2003 Tuyển tập kịch Nguyễn Huy Thiệp ra đời đã khẳng định tài năng của Nguyễn Huy Thiệp trên thể loại kịch bản văn học. Năm 2008 Nguyễn Huy Thiệp viết Nhà Ôsin đến năm 2010 tên vở kịch được chọn làm tên cho chủ đề tập kịch bản văn học của Nguyễn Huy Thiệp. Ngày 23 tháng 2 năm 2012 kịch bản chèo Vong Bướm chính thức ra mắt và lần đầu tiên Nguyễn Huy Thiệp chịu xuất hiện trong các cuộc giới thiệu sách của mình. Trong lời giới thiệu kịch Xuân Hồng năm 1994, tác giả Thụy Khuê có nói: “Văn phong Nguyễn Huy Thiệp hình thức ngắn gọn, sâu sắc, phức âm, nội dung thâm trầm, độc địa, xoáy đến tận cùng những mâu thuẫn, phân cực của con người trầm luôn trong môi trường tạo tác. Truyện Nguyễn Huy Thiệp gần 5 với kịch, với tinh thần thoại kịch ( kịch Brechht , Sartre). Trong nghĩa sử dụng ngôn ngữ như chất liệu sáng tác, do đó từ truyện sang kịch chỉ là sự chuyển thể tất nhiên trong hành trình của Nguyễn Huy Thiệp. Kịch bản văn học của Nguyễn Huy Thiệp đào sâu ý thức về kịch muôn thủơ thoái bộ để nhận diện mình một cách khách quan hơn, đồng thời mở đường cho phong cách kịch hiện đại chưa thực sự xuất hiện trong truyền thống văn học và nghệ thuật của chúng ta: Đặt vấn đề với con người về con người qua ngôn ngữ đối thoại, trong cái xung đột sâu xa cực độ và cực điểm của chính mình, phát sinh từ môi trường tạo tác. Đó là bi kịch thảm thương và khốc liệt nhất trong mỗi chúng ta và chỉ có nghệ thuật kịch trường mới và có thể phô diễn trước công chúng một cách khách quan, minh mẫn và tàn nhẫn” [71, Internet]. Hay PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp – Viện trưởng Viện Văn học “xem “Vong Bướm” là trò chơi nghệ thuật đầy ngẫu hứng nhưng công phu của Nguyễn Huy Thiệp”. Lý giải việc chuyển sang viết cả thể loại kịch bản văn học, Nguyễn Huy Thiệp từng chia sẻ với BBC Việt Ngữ trong “Chuyến đi thăm Pháp” trên trang Website: www:dactrung.com”: “Tôi coi nghề viết văn còn là một việc gian khổ, phải bắt đầu như một học trò thành công trong một số truyện ngắn của mình. Và trong bài viết gần đây, tôi cũng đã nói rằng tôi vẫn viết truyện ngắn như một tác phẩm cổ điển không mang tính thời sự trước mắt mà người ta có thể đọc đi, đọc lại. Một mặt khác tôi coi nó như một bài tập trongvăn chương mà thôi, rồi chuyển sang các thể loại khác. Tôi viết kịch, tiểu luận và cả tiểu thuyết, một phần nó tùy thuộc vào nội tâm của tôi và những vấn đề mà tôi đặt ra nữa. Theo tôi ở xã hội Việt Nam để có thể phát triển một nền văn học toàn diện thì đòi hỏi tất cả các nhà văn đều phải cố gắng, không chỉ trong một thể loại mà ở tất cả các thể loại” [71, Internet]. Như vậy nói về kịch Nguyễn Huy Thiệp có thể thấy tuy hiệu quả và sự thành công ở thể loại này vẫn chưa được như sự mong đợi nhưng sự ra đời Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi 6 của tuyển tập kịch gồm 5 vở: Hoa sen nở ngày29/4, Nhà Ôsin, Còn lại tình yêu, Cái chết được che đậy, Đến bờ bên kia của Nguyễn Huy Thiệp là một thể nghiệm mới mẻ trong sự nghiệp sáng tác của ông. Trong phạm vi hiểu biết và tìm kiếm của bản thân, tôi chưa thấy có một công trình khoa học nào viết về kịch của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp dưới góc nhìn thể loại, có chăng chỉ là những bài điểm sách, những bài phỏng vấn về tác giả. Chính vì vậy chúng tôi hy vọng rằng luận văn “Kịch Nguyễn Huy Thiệp từ góc nhìn thi pháp thể loại” có thể là một thể nghiệm nghiên cứu đầu tiên có tính tập trung chuyên sâu, góp phần lý giải một cách khoa học những thành công, hạn chế và vị thế của kịch bản văn học Nguyễn Huy Thiệp trong sáng tác của riêng ông và trong đời sống sân khấu Việt Nam hiện đại nói chung. 3. Mục đích và đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu “Kịch Nguyễn Huy Thiệp từ góc nhìn thi pháp thể loại” tôi mong muốn khảo sát một cách đầy đủ và toàn diện về các sáng tác kịch bản văn học của Nguyễn Huy Thiệp trên phương diện thi pháp thể loại, nhìn nhận và đánh giá một cách khách quan về những đặc điểm về kịch Nguyễn Huy Thiệp. Trên cơ sở đó rút ra những nhận xét về sự thành công cũng như những thất bại của nhà văn trong thể loại văn học này . 3.2.Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các đặc điểm trong các tác phẩm kịch của Nguyễn Huy Thiệp trên phương diện thi pháp và thể loại. Phạm vi nghiên cứu là các kịch bản kịch nói Gia đình (Quỷ ở với người), Xuân hồng và kịch bản chèo như Vong bướm, Truyền thuyết tìm vua,…nhưng chủ yếu luận văn tập trung khảo sát các vở trong Tuyển tập kịch Nguyễn Huy Thiệp (Nhà xuất bản Trẻ 2012), gồm kịch bản các vở: Hoa sen nở ngày 29 tháng 4 Còn lại tình yêu 7 Cái chết đƣợc che đậy Nhà Ôsin Đến bờ bên kia 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Để đi sâu vào tìm hiểu về kịch của Nguyễn Huy Thiệp từ góc độ thi pháp thể loại, tôi chủ yếu sử dụng phương pháp khảo sát, phương pháp thống kê, phương pháp luận phân tích tác phẩm, phương pháp tiểu sử, phương pháp xã hội học và các phương pháp liên ngành khác. 5. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mục lục và tài liệu thảm khảo,luận văn của tôi gồm ba phần: mở đầu, nội dung, kết luận. Trong phần nội dung tôi tập trung vào 4 chương chính: Chương 1: Vị trí của kịch trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp Chương 2: Nhân vật kịch. Chương 3: Kết cấu và xung đột kịch. Chương 4: Ngôn ngữ kịch. 6. Đóng góp của luận văn Việc nghiên cứu đề tài nhằm mục đích bước đầu giúp độc giả thấy được những đóng góp của kịch Nguyễn Huy Thiệp với sân khấu kịch Việt Nam, đồng thời thấy được đặc điểm kịch của Nguyễn Huy Thiệp dưới góc nhìn thi pháp thể loại. Thực hiện luận văn này, tôi muốn đóng góp một chút công sức cho công tác nghiên cứu, phê bình văn học Việt Nam đương đại về cây bút Nguyễn Huy Thiệp. Hơn nữa từ trước tới nayviệc khảo sát kịch Nguyễn Huy Thiệp chưa nhiều và chưa có hệ thống. Tính đến thời điểm luận văn này được tiến hành thì chưa có công trình nghiên cứu hoàn chỉnh nào về đề tài này ra đời. Do đó, Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi 8 chúng tôi đã dụng công nghiên cứu để có thể bổ sung thêm một số nhận định xác đáng và có giá trị bên cạnh những ý kiến đã có trước đây về vấn đề này. 9 NỘI DUNG CHƢƠNG 1: VỊ TRÍ CỦA KỊCH TRONG SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN HUY THIỆP 1.1 Vài nét khái quát về lịch sử phát triển của nền kịch Việt Nam Sự ra đời của nền văn hóa và nghệ thuật Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XX do những điều kiện lịch sử và xã hội cụ thể của một đất nước thuộc địa nửa phong kiến quyết định. Thực dân Pháp thúc đẩy quá trình thâm nhập và phổ biến rộng rãi những kiến thức mới, những tư tưởng chính trị, triết học và nghệ thuật mới cũng như những thành tựu khoa học - kỹ thuật ở Việt Nam. Xu hướng chính trị trong sự phát triển của xã hội Việt Nam là sự khát khao thoát khỏi tình trạng biệt lập kéo dài (kể cả trong lĩnh vực văn hóa) và trở thành bộ phận của một cộng đồng thống nhất của thế giới.Quá trình này bắt đầu vào cuối thế kỷ XIX và mạnh lên vào đầu thế kỷ XX, được đánh dấu bởi cao trào yêu nước, và mặt khác là phong trào vì văn hóa mới mà sau này biến thành công cuộc hiện đại hóa văn hóa. Nền văn hóa và nghệ thuật mới trong nước Việt Nam thuộc địa đã nảy sinh và phát triển tích cực nhờ có nhu cầu của giai cấp tư sản, giới trí thức thanh niên, học sinh và sinh viên, những thợ thủ công tức là những tầng lớp xã hội và giai cấp hình thành trong những thành phố vào thời ấy. Trước thế kỉ XX, nghệ thuật sân khấu Việt Nam tồn tại được với hai thể loại sân khấu âm nhạc truyền thống là tuồng và chèo. Tuy nhiên vào thời kì đó đã bắt đầu quá trình cải cách để thích ứng với điều kiện xã hội nửa phong kiến và thuộc địa. Chính thời kì này ở Việt Nam đã xuất hiện những thể loại sân khấu mới là cải lương và kịch nói. Sự ra đời của sân khấu kịch nói xuất phát từ mong muốn giới thiệu sân khấu phương Tây với khán giả Việt Nam của các nghệ sĩ.Trong bối cảnh nền văn hóa cũ không còn được chấp nhận, tính chất biệt lập lịch sử của truyền thống Việt Nam bị phá vỡ thì sự hội nhập với nền văn hóa thế giới đã tạo ra cơ sở để thay thế những thể loại văn học, để xây Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi 10 dựng một nền văn hóa phục hưng, độc lập mà bộ phận quan trọng của nó là kịch nói. Kịch nói là loại hình sân khấu trình bày bằng hành động và đối thoại của các nhân vật để phản ánh những xung đột trong đời sống xã hội.Kịch nói ra đời đạt đến trình độ nghệ thuật cao từ thời cổ đại phương Tây. Đến thế kỉ XX kịch nói bắt đầu xâm nhập vào Việt Nam. Đó là kết quả của quá trình giao lưu văn hóa,sự ảnh hưởng có lúc cưỡng bức, có lúc tự giác của văn hóa phương Tây, trực tiếp là văn hóa Pháp đối với văn hóa Việt Nam. Với kịch nói, văn học nghệ thuật nước ta có thêm một thể loại mới làm cho nó phong phú hơn, hội nhập một cách tích cực hơn vào tiến hình hiện đại hóa của thế giới. Có thể nói, sự ra đời của kịch nói cùng với một số thể loại văn học mới ở thành thị vào những thập niên đầu thế kỉ nàytrước hết là kết quả của sự tác động lịch sử và văn hóa từ bên ngoài vào, sau đó là kết quả của một quá trình phát triển nội tại, nảy sinh trong những điều kiện lịch sử, kinh tế và văn hóa nội tại. Đặc điểm này được thể hiện ở những phương diện khác nhau của quá trình hình thành và phát triển của kịch. Như trên đã nói, dưới tác động của những nhân tố lịch sử mới, xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX đã hình thành rõ nét sự khác biệt giữa nông thôn và thành thị. Ứng với hai khu vực đó là hai lớp người có những nhu cầu tinh thần hoàn toàn khác nhau. Kịch nói sinh ra ở thành thị, do các trí thức Tây học và tiểu tư sản tiến hành để đáp ứng nhu cầu tình thần, tâm lý, thị hiếu của tầng lớp tiểu tư sản thị dân. Còn ở nông thôn, vào thời điểm này, người dân vẫn chỉ biết có tuồng,chèo. Kịch nói đối với họ vẫn là một sinh hoạt xa lạ.Với nông thôn Việt Nam, lũy tre làng không chỉ là địa giới của một đơn vị hành chính có kết cấu bền vững mà còn là bức tường thành văn hóa lưu giữ trong đó những nề nếp, tập tục, những sinh hoạt dân gian đặc sắc được lưu truyền từ thế hệ nọ sang thế hệ kia. Người nông dân cũng ít có dịp thực hiện các cuộc giao lưu ra khỏi lũy tre làng, ra khỏi địa hạt quen thuộc của mình. 11 Họ không biết đến kịch nói, không tiếp nhận kịch nói và cũng không đủ các điều kiện để tiếp nhận nó. Ngược lại, kịch nói cũng không thỏa mãn nhu cầu tình cảm, không thể hiện được những vẫn đề về tâm lý, đạo đức và thói quen thưởng thức của người nông dân vùng nông thôn. Khi chưa có kịch nói,người nông dân ở vùng nông thôn cũng như các trí thức, quan lại phong kiến ở cung đình và các tầng lớp kẻ chợ chỉ biết có tuồng, chèo, cùng xem một loại hình nghệ thuật như nhau. Đến thời kì này, xã hội đã tạo ra thế đối lập giữa văn minh đô thị và văn mình vùng nông thôn. Kịch nói trở thành nhu cầu riêng, món ăn riêng, thỏa mãn “gu” thưởng thức riêng của người thành thị. Một lớp công chúng mới, nam mặc comple, nữ mặc áo tân thời đến nhà hát xem kịch bên cạnh những bà đầm, những me Tây, những sân khấu tráng lệ, ánh đèn rực rỡ. Trong khi đó vùng nông thôn vào những tháng ngày nông nhàn, những buổi tiệc tùng đình đám, nỗi đam mê vẫn là những pho Tuồng đồ như : Sơn hậu, Tam nữ đồ vương, Phụng Nghi Đình…, những vở Tuồng đồ như Nghêu, Sò, Ốc, Hến; Trương Đồ Nhục…, những tích chèo thâu đêm suốt sáng như Quan âm Thị Kính, Trương Viên, Lưu Bình Dương Lễ… Khán giả trung thành vẫn là những người răng đen hạt huyền, áo nâu chân đất, những trai tráng lực điền, những nàng “môi cắn chỉ” và cả những người “ăn no rồi lại nằm khoèo, nghe tiếng trống chèo bế bụng đi xem”.Trong khi đó, kịch nói đã từng bước từ thú chơi tài tử của những trí thức tân học dần trở thành một bộ môn kịch nghệ thuật thu hút cả những nghệ sĩ, những nhà văn có tên tuổi, chiếm lĩnh số đông khán giả thành thị, tạo thiết cả một phong trào làm thay đổi hẳn tập quán thưởng thức, mang đến cho đời sống đô thị sinh hoạt văn hóa nghệ thuật mới. Trong tương quan này, kịch nói nhân danh cái mới, đại diện cho những lực lượng mới. Sự ra đời của nó là một bước đi của đô thị so với vùng nông thôn trong tiến trình Âu hóa cũng như trong tiến trình hiện đại hóa. Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi 12 Từ đầu thế kỉ XX trở về trước, vua chúa, quý tộc chủ yếu xem tuồng (tuồng thầy), còn các tầng lớp bình dân chủ yếu xem chèo và xem tuồng đồ. Tính chất căn bản của các loại hình nghệ thuật là tính khuyên giáovề đạo đức. Mỗi vở chèo, vở tuồng là một bài học trung hiếu, tiết hạnh, một tấm gương hỉ xả theo các chuẩn mực đạo đức phong kiến.Từ những năm đầu thế kỉ XX trở đi, cơ cấu xã hội đã có những đảo lộn căn bản. Đời sống đô thị và kinh thế hàng hóa đã kéo theo sự hình thành tâm lý xã hội tiêu thụ hiện đại. Những hệ giá trị mới, chuẩn mực đạo đưc thẩm mỹ mới được xác lập. Việc răn dạy đạo đức phong kiến, việc nêu gương tiết hạnh theo lý tưởng nhà Nho không còn đáp ứng được nhu cầu tinh thần và lớp công chúng mới, nhất là công chúng đô thị. Mặt khác, tính quy phạm, điển hình, điển phạm, tính ước lệ, bài bản của tuồng, chèo đã trở nên xơ cứng trước nhịp độ phát triển linh hoạt của đời sống và nhu cầu tinh thần đa dạng của con người. Trước thử thách mới, tuồng, chèo không thể giữ nguyên hình hài, diện mạo cũ. Để tồn tại và thích ứng với xã hội đang trên đà Âu hóa, một nghệ thuật trang trọng, mực thước, mang đậm tính cung đình như tuồng cũng phải nỗ lực để tự nó thay đổi. Vào những thập niên đầu thế kỉ, ở các đô thị lớn như Sài Gòn, Hà Nội đã xuất hiện loại “Tuồng tân thời”,“Tuồng xuân nữ” lấy đề tài hiện đại, khai thác những tình huống éo le của cuộc sống với mục đích thỏa mãn thị hiếu của người thành thị. Nhưng trong cuộc cạnh tranh với các loại hình khác và cạnh tranh với chính tuồng cổ, “Tuồng tân thời” và “Tuồng xuân nữ” đã không tìm được chỗ đứng cho mình. Các tác giả tuồng lại một lần nữa chuyển hướng cách tân tuồng cổ, đổi mới trang phục, đạo cụ, hình thức sân khấu, hướng đề tài vào tình yêu, hiệp khách, đưa cả những chuyện võ hiệp kì tình lên sân khấu. Năng động hơn, từ nhưng năm hai mươi trở đi, người ta lại phóng tác, mô phỏng các vở bi kịch cổ điển Pháp để đưa lên sân khấu tuồng. Thời kì này người ta thường hay nhắc đến các vở tuồng như: Tây Nam đắc bằng(1916), và Tượng kì khí xa của Hoàng Cao Khải; Đông A Song phụng(1916) của Hoàng Tăng 13 Bí. Đó là những vở tuồng viết theo lối tuồng cổ nhưng khác ở chỗ đã có sự phân chia thành từng cảnh và sân khấu được bài trí theo kiểu sân khấu Pháp. Song, ngay cả điều đó vẫn không mở cho tuồng một triển vọng khả quan trước những thay đổi xô bồ của hiện thực. Trên lĩnh vực chèo cũng diễn ra tình trạng tương tự. Suốt nhiều năm trong lịch sử, âm nhạc, và các làn điệu, trình thức, điệu thức của chèo từng hấp dẫn bao nhiêu thế hệ công chúng. Vậy mà vào thời kì này, chèo dường như cũng trễ nải, phờ phạc trước làn sóng Âu hóa và trước sức tấn công vô cùng mạnh mẽ của các loại hình nghệ thuật khác.Từ năm 1907 trở đi “Chèo văn minh” được khởi xướng bằng một số cải cách về lớp lang, phông cảnh và phục trang sân khấu. Năm 1914, Hội Sán Nhiên thành lập Sán Nhiên đài. Lần đầu tiên, từ sàn diễn sân đình, chèo được đưa lên sân khấu. Cấu trúc vở diễn được chỉnh lý, sắp xếp lại. Yếu tố thời gian và không gian vốn ước lệ trong chèo cổ đã được xác định rõ hơn. Nhưng rút cục, những thay đổi theo hướng “văn minh” đó vẫn chưa giành được sự mến mộ của công chúng thị dân, của các bà, các cô, các cậu đang háo hức quay cuồng trong nhịp sống, nhịp yêu đương mới. Nhất là từ những năm hai mươi trở đi, khi nghệ thuật cải lương ở các tỉnh miền Nam du nhập ra Bắc thì “Chèo văn minh” lại càng thưa thớt, vắng khách.Trước nguy cơ đó, nghệ sĩ Nguyễn Đình Nghị (1883-1954) lại cải tiến chèo và lấy tên là “Chèo cải lương. Với loại chèo này, ông và các đồng sự chủ trương chỉ giữ lại những đặc trưng cơ bản nhất của chèo cổ, tước bỏ những yếu tố lai tạp từ tuồng, bổ sung, dung nạp những hình thức diễn xướng và các làn điệu dân ca chủ yếu trong vùng đồng bằng Bắc Bộ, khai thác triệt để yếu tố hài trong chèo cổ, phát triển lên thành những màn diễn độc lập. Những động tác cách điệu, ước lệ trong vũ đạo chèo truyền thống cũng như trang phục, đạo cụ… đã được thay thế bằng những động tác chân thực, những lối ăn mặc theo kiểu tân thời. Dàn nhạc “Chèo cải lương” cũng được tăng cường một số nhạc cụ mới. Vở diễn bắt đầu có màn, có cảnh, nội dung hướng Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi 14 vào những vấn đề của cuộc sống đương đại. So với “Chèo vănminh” và “Chèo cổ”,“Chèo cải lương” đã tạo cho môn nghệ thuật truyền thống này một sắc diện mới.Tuy nhiên, với “Chèo cải lương”, cụ Nguyễn Đình Nghị một phần chưa tận dụng và phát huy hết cái hay, cái đẹp của chèo cổ, một phần chưa thỏa mãn được những đòi hỏi mới của thực tế xã hội cũng như của lớp công chúng thị dân, trí thức tiểu tư sản, thanh niên học sinh đô thị. Vì thế nó không tránh khỏi bị làn sóng Âu hóa cho điêu đứng. Trong lúc hai loại hình nghệ thuật truyền thống đang phải chật vật để thích ứng dần với thế hệ công chúng mới thì ở phía Nam ra đời nghệ thuật cải lương. Cái nôi của nó là các địa phương vùng lục tỉnh. Có thể nói đây là loại hình nghệ thuật tổng hợp nảy sinh vào buổi giao thời, trong đó có sự lai tạp giữa lối nói hát dân gian vùng miền Đông Nam Bộ với lối diễn tuồng tích truyền thống, kịch phương Tây và Hý khúc Trung Hoa. Dần dà cải lương theo chân các tài tử vào các thành phố rồi lan ra cả nước, được những người buôn bán nhỏ đặc biệt yêu thích. Ở phía Bắc, kịch nói ra đời, cùng với tiểu thuyết và thơ Mới, kịch đã góp phần tạo nên một diện mạo mới cho nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại. Hơn hẳn các loại hình nghệ thuật truyền thống, kịch có khả năng đáp ứng nhu cầu mỹ cảm không chỉ của tầng lớp trí thức Tây học mà còn của đại đa số công chúng đô thị, từ người bình dân đến các tầng lớp công chức ăn lương, nhất là học sinh, sinh viên. Với những lợi thế của mình, kịch thể hiện được những vấn đề gay cấn, bức bối, những xung đột đạo đức, tâm lý đầy kịch tính trên bình diện gia đình và xã hội. Trong khi giải quyết những xung đột của đời sống tâm lý xã hội, kịch cho thấy mặt trái của quá trình Âu hóa, của lối sống tư sản, vừa cho thấy những cản trở của tâm lý, đạo đức cũ trên con đường tiến hóa. Về mặt ngôn ngữ, kịch nói sử dụng chữ Quốc ngữ, văn chương trong sáng, giản dị, gần với khẩu ngữ thông dụng hàng ngày. Vì vậy,nó được công chúng mới tiếp nhận như một “mốt” nghệ thuật thời thượng.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan