MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cho đến nay, đã có những công trình quan tâm đến văn học quốc ngữ
Nam Bộ với tính chất là một mảng văn học bao gồm đầy đủ các bộ phận từ
nghiên cứu, lý luận phê bình đến sáng tác với nhiều thể loại phong phú, đa
dạng. Tuy nhiên, để khẳng định một cách chính xác và đầy đủ diện mạo văn
học này thì còn nhiều việc cần phải làm. Việc phát hiện đầy đủ những
phương diện phong phú của mảng văn học này, trong đó có mảng thơ ca yêu
nước – cách mạng được sáng tác bằng chữ quốc ngữ bắt đầu được khơi mào
từ đầu thế kỷ XX là trách nhiệm của những người quan tâm, nghiên cứu văn
học nước nhà.
Thơ ca yêu nước – cách mạng được sáng tác bằng chữ quốc ngữ ở
Nam Bộ giai đoạn 1900 – 1945 là một bộ phận quan trọng cấu thành diện
mạo văn học quốc ngữ Nam Bộ trong nửa đầu thế kỷ XX. Mặt khác, nó cũng
là một mảng văn học không thể tách rời trong kho tàng di sản văn học của
dân tộc. Thế nhưng, trong thực tế, bộ phận văn học này dường như ít được
đề cập đến. Ở các công trình có liên quan đến lịch sử và phê bình văn học từ
trước đến nay, chúng ta thấy bộ phận văn học này “chỉ là một bóng mờ,
không rõ nét” [44, tr.6]. Có thể nói rằng, diện mạo của bộ phận thơ ca yêu
nước – cách mạng ở Nam Bộ giai đoạn này, đến nay vẫn chưa hiện rõ hình
sắc. “Tốt xấu, ưu khuyết, đến mức độ nào, nói chung, theo quan điểm lịch
sử? Từng thể loại ra đời và phát triển ra sao? Đó là phần việc còn phải tiếp
tục làm sáng tỏ” [44, tr.9]. Nếu giới nghiên cứu cứ thờ ơ với một mảng văn
học hiện còn đang tồn tại trên những trang sách, báo cũ, chắc chắn một ngày
nào đó chúng ta sẽ phải thốt lên rằng, dường như hệ thống văn học Việt Nam
giai đoạn 1900 – 1945 đã “bỏ khuyết” một khoảng trống nào đó rất lớn. Đó
chính là mảng Thơ ca yêu nước – cách mạng ở Nam Bộ 1900 – 1945.
Văn học Nam Bộ nói chung và thơ ca yêu nước – cách mạng ở Nam
Bộ giai đoạn 1900 – 1945 nói riêng tồn tại và phát triển song song với các
mảng văn học khác cùng thời. Nó xứng đáng được ghi nhận như một dòng
song lưu của văn học yêu nước, chống thực dân của dân tộc. Nói rõ hơn, nó
là một bộ phận không thể tách rời trong bước tranh “toàn cảnh” của diện
1
mạo văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
Thơ ca yêu nước – cách mạng ở Nam Bộ giai đoạn 1900 – 1945 thoát
thai từ những tiền đề mang tính quy luật. Một mặt, nó là sự nối tiếp, nâng
cao trên cơ sở hiện đại hóa nền thơ ca yêu nước truyền thống Việt Nam. Mặt
khác, trong những tiền đề mới, thơ ca yêu nước – cách mạng ở Nam Bộ giai
đoạn 1900 – 1945 đã hình thành và phát triển một cách ổn định, cân bằng,
tạo nên một dòng thơ mang đậm đà tinh thần yêu nước của người miền Nam
trong những bước đường phát triển của lịch sử với bước mở đầu kế thừa tinh
thần yêu nước bản địa. Sau đó là sự vận động phát triển sang hệ tư tưởng
cách mạng – Minh Tân, và cuối cùng tiến đến tư tưởng cách mạng Cộng sản
chủ nghĩa. Thơ ca yêu nước – cách mạng ở Nam Bộ giai đoạn 1900 – 1945
và những đặc điểm của nó về nội dung và nghệ thuật thật sự là một đề tài lớn
để chúng ta tìm hiểu và nghiên cứu.
Với tâm huyết của người con Nam Bộ, với một niềm tin ấp ủ từ lâu,
chúng tôi quyết định thực hiện đề tài này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Lịch sử vấn đề nghiên cứu thơ ca yêu nước – cách mạng ở Nam Bộ
giai đoạn 1900 – 1945 nói chung còn khá khiêm tốn, mới chỉ có những ghi
nhận còn rời rạc, sơ sài và sự thật chưa được tiếp cận một cách đầy đủ, xác
đáng từ phương diện tài liệu cho đến phương diện nội dung và nghệ thuật.
Đa số các tác phẩm, tác giả của mảng văn học này thường được ghép chung
với các mảng văn học khác. Một phần vì lý do lịch sử, do tài liệu báo chí
thời kỳ này vẫn còn nằm sâu trong các thư viện, cục lưu trữ, kể cả trong tủ
sách gia đình. Vì vậy nên sự tồn tại của thơ ca yêu nước – cách mạng bằng
quốc ngữ trên báo chí ở Nam Bộ bắt đầu từ đầu thế kỷ XX gần như ít được
biết đến như là một bộ phận riêng, có đầy đủ ý nghĩa về mặt số lượng và
chất lượng.
Trong một thời gian dài, ấn tượng về thơ ca yêu nước Nam Bộ hay bị
dừng lại ở mảng thơ ca khá bề thế với các tên tuổi lớn trong giai đoạn cuối
mùa của văn học Hán Nôm như Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn
Thông. Công trình Thơ văn yêu nước Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX (Nxb. Văn
học năm 1977) do Bảo Định Giang biên soạn, Ca Văn Thỉnh giới thiệu [49]
khá công phu và đầy đủ các tác giả trên, đã thể hiện phần nào cách lý giải
trên.
2
Để có thể hệ thống lại các công trình, bài viết có liên quan đến thơ ca
nói chung cũng như thơ ca yêu nước – cách mạng ở Nam Bộ giai đoạn 1900
– 1945, chúng ta có thể chia ra làm hai giai đoạn nghiên cứu, gồm:
- Các công trình, bài viết nghiên cứu trước năm 1975:
Năm 1959, nhóm tác giả Hoàng Ngọc Phách, Huỳnh Lý, Phan Cự Đệ
cho ra mắt độc giả tập Sơ tuyển văn thơ yêu nước và cách mạng Nxb. Giáo
dục Hà Nội,1959, việc sưu tầm, giới thiệu, chú thích gần như chỉ chú ý đến
mảng văn thơ yêu nước được sáng tác trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. Các tác phẩm được sưu
tầm khá phong phú với lực lượng sáng tác là các nhà hoạt động cách mạng
như Lê Đức Thọ, Xuân Thủy, Hồng Chương, Tố Hữu,... Bên cạnh đó là các
tác giả không chuyên, tác giả quần chúng.
Trong công trình Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX của
Đặng Thai Mai Nxb. Văn học năm 1960, khi nhận định về giá trị tư tưởng
nghệ thuật của các tác giả văn học ở Nam Kỳ giai đoạn này tác giả nhận xét
“Giá trị tư tưởng và nghệ thuật của tất cả bấy nhiêu tác giả không phải
không phải là người nào cũng như người nào. Nhưng đó là một vấn đề khác.
Điều đáng chú ý ở đây là với cố gắng của họ, văn học Nam Kỳ vào khoảng
đầu thế kỷ này đã có xu hướng đấu tranh cho tư tưởng chống phong kiến và
tư tưởng yêu nước. Điều mà bọn thực dân không hề tưởng tượng được”
[116, tr.41].
Ngoài ra, còn có một số tác giả khác đã có công sưu tầm, biên soạn,
tập hợp thành những công trình, bài viết cụ thể như: Tác giả Mộc Khuê
trong công trình Ba mươi năm văn học, Tân Việt xb., Hà Nội, 1941, Thanh
Lãng, với Biểu nhất lãm văn học cận đại (1862-1945), tập 1, Nxb. Tự do,
S.1958; Phạm Thế Ngũ: Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (tập 3: Văn
học VN hiện đại 1865-1945), Quốc học tùng thư, SG, 1963, 1964, 1966;
Nguyễn Văn Xuân: Khi những lưu dân trở lại, Thời Mới xb., S.1968; Chim
Hải Yến: Lược thảo phong trào văn chương ở Nam Kỳ (1865-1942), Kỷ yếu
Hội Khuyến học Nam Kỳ, Nhà in An Ninh SG, 1957; Phạm Việt Tuyển: Văn
học miền Nam, Khai trí xb., SG, 1965; Nguyễn Văn Trung: Chữ, văn quốc
ngữ hồi đầu thuộc Pháp, Nam Sơn xb., S.1974; Lê Văn Siêu: Văn học thời
kháng Pháp 1858-1945, Trí Đăng xb., SG, 1974; Trần Văn Giáp, Nguyễn
Tường Phượng, Nguyễn Văn Phú và Tạ Phong Châu: Lược truyện các tác
3
gia Việt Nam, tập 2- tác gia các sách chữ La-tinh (từ đầu thế kỉ XX đến
1945), Nxb. KHXH Hà Nội, 1972; Phạm Công: Hai nhà thơ phụ nữ miền
Nam: Trần Kim Phụng và Trần Ngọc Lầu, Văn Hữu, 4-1961, 10, SG đã
cung cấp những tác phẩm có giá trị để thế hệ sau có điều kiện nghiên cứu
một cách hệ thống.
Công trình Thơ ca quốc cấm thời thuộc Pháp do nhà sách Khai Trí Sài
Gòn xb. năm 1968 của tác giả Thái Bạch, các tác phẩm được tác giả sưu tầm
trong mốc thời gian rộng hơn (bắt đầu từ khi Việt Nam bị Pháp xâm lược).
Công trình này trước hết giới thiệu các tác phẩm viết bằng chữ Hán, chữ
Nôm (được chuyển sang quốc ngữ) có nội dung yêu nước chống Pháp đã
xuất hiện ở cả ba miền Bắc, Trung và Nam ngay từ những năm đầu Pháp
thuộc, như các bài thơ khóc các anh hùng chống Pháp: Trương Công Định,
Nguyễn Trung Trực, Phan Công Tòng, Phan Đình Phùng,… Sau đó, công
trình này sưu tập những tác phẩm của các tác giả không chuyên hoặc khuyết
danh ở cả ba miền Bắc Trung Nam, trong đó đa phần là thơ ca của thời kỳ
Đông Kinh nghĩa thục ở miền Bắc và miền Trung. Tuy nhiên, trong số đó,
chỉ có duy nhất một tác giả miền Nam được ghi nhận là Nguyễn Quang Diêu
với hai bài thơ Chiêu hồn dân ruộng [11, tr.187] và Vợ chồng nhà nông
khuyên nhủ nhau [8, tr.194]. Điều này, cho thấy ấn tượng về thơ ca yêu nước
Nam Bộ với tính chất là một mảng văn học đặc sắc, có một tồn tại rõ ràng và
cụ thể vẫn còn rất “mờ nhạt”.
Công trình Thơ ca cách mạng 1925 – 1945 của tác giả Hoàng Thị Đậu
Nxb. KHXH Hà Nội xb. năm 1973 là một công trình sưu tập phong phú hơn,
với các tác phẩm thơ ca cả ba miền Bắc, Trung, Nam với các thời kỳ thành
lập Đảng 1925 – 1929, cao trào 1930 – 1931, thời kỳ 1932 – 1935, thời kỳ
Mặt trận dân chủ 1936 – 1939 và thời kỳ vận động giải phóng dân tộc và
chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa tháng Tám 1940 – 1945. Ngay từ đầu, công
trình xác định hướng vào việc nghiên cứu“một số giá trị tư tưởng và nghệ
thuật của thơ ca cách mạng thuộc hệ tư tưởng vô sản xuất hiện sau 1925”
[31, tr.7]. Công trình này tập hợp được khá nhiều bài thơ, thế nhưng trong
toàn bộ công trình chỉ có một số bài thơ có liên quan đến khuynh hướng yêu
nước – cách mạng ở Nam Bộ 1900 – 1945, đó là tác phẩm khuyết danh với
tựa đề Gây nền tự do [31, tr.352], một bài thơ dài được viết dưới danh nghĩa
một bài kinh của đạo Cao Đài, lưu truyền nhiều ở miền Đông Nam Bộ vào
4
những năm 1930, 1940 [31, tr.353] và một bài văn vần Nêu cao ngọn cờ
hồng được viết theo điệu xàng xê của lối đờn ca tài tử, cũng phổ biến ở miền
Đông Nam Bộ trong những năm 1940 – 1945 [31, tr.384]. Điều này cho
thấy, thực tế là mảng thơ ca yêu nước – cách mạng ở Nam Bộ 1900 – 1945
có thể sẽ còn rất đa dạng và phong phú
- Các công trình, bài viết nghiên cứu sau năm 1975:
Công trình Thơ văn yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ XX 1900 –
1930, Nxb. Văn học 1976 do nhiều tác giả biên soạn đã đăng lại nhiều tác
phẩm văn thơ yêu nước vừa có tên, vừa khuyết danh của cả ba miền Bắc,
Trung, Nam. Tuy nhiên, về thơ ca yêu nước Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX thì
ít nhất. Chỉ có một số bài thơ của Trần Huy Liệu sáng tác trong thập niên 20
thể kỷ XX khi đang sống và hoạt động tại miền Nam [138, tr.567], một số
bài thơ của Nguyễn Quang Diêu [138, tr.502], và đặc biệt là một bài thơ của
nhà hoạt động Minh Tân Nguyễn Thần Hiến [138, tr.410].
Công trình Thơ văn cách mạng (1930 – 1945) do Phan Cự Đệ chọn
lọc và giới thiệu, Nxb. Giáo dục năm 1976 (tác phẩm dùng trong nhà
trường) cũng chỉ trích dẫn một số bài văn thơ cách mạng tiêu biểu cho thời
kỳ này. Chúng tôi đã trích hai bài: Thơ ca vùng mỏ, khuyết danh tác giả và
Trên bến Côn Lôn của Đào Duy Kỳ để bổ sung trong quá trình nghiên cứu.
Công trình Hợp tuyển thơ văn Việt Nam giai đoạn 1858 – 1920 do
Huỳnh Lý chủ biên Nxb. Văn học năm 1985 là công trình có xu hướng miêu
tả một số nét sơ khai của quá trình hiện đại hóa văn học trên nhiều khía cạnh
khác nhau diễn ra sau khi thực dân Pháp xâm chiếm Việt Nam và đã giới
thiệu một nhà thơ miền Nam là Nguyễn Quang Diêu [114, tr.364].
Trong công trình nghiên cứu Văn học Nam Bộ từ đầu thế đến giữa thế
kỷ XX (1900 – 1954) của các tác giả Hoài Anh – Thành Nguyên – Hồ Sĩ
Hiệp Nxb. Tp. HCM năm 1988, các tác giả đã cố gắng thể hiện một số phác
thảo về toàn cảnh của quá trình hiện đại hóa văn học ở miền Nam. Riêng
chương ba là chương nói về thơ ở Nam Bộ, qua các giai đoạn từ đầu thế kỷ
XX đến năm 1954. Qua đó, các tác giả nhấn mạnh: “những nhà thơ yêu
nước Nam Bộ đầu thế kỷ XX vẫn tiếp tục sáng tác những đề tài đã được nêu
ra trong thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX [2, tr.129], và đã đề cập đến
một số tác giả thơ tiêu biểu như: Phạm Văn Bảy, Lê Sum, Phan Tử Nhàn,
5
Trần Hữu Thường, Sương Nguyệt Anh, Nguyễn Thần Hiến, Nguyễn Quang
Diêu, Nhiêu Tâm, Đông Hồ,…
Trong công trình Văn học Việt Nam (1900 – 1945) do Phan Cự Đệ
chủ biên, Nxb. Giáo dục năm 1999, mảng thơ văn yêu nước buổi giao thời
chủ yếu được miêu tả qua các tác phẩm của Đông Kinh nghĩa thục thể hiện
tư tưởng Duy Tân(1). Sau đó là giới thiệu các tác phẩm của hai tác giả nổi
tiếng là Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh.
Năm 1990, tác giả Nguyễn Q. Thắng đã phác thảo diện mạo văn học
miền Nam trong công trình Tiến trình văn nghệ Miền Nam do Nxb. Tổng
hợp An Giang xb. Sau đó vào năm 1998, nhân kỷ niệm 300 năm Sài Gòn,
Nxb. Văn học cho tái bản “nhằm giới thiệu cho độc giả một cái nhìn “toàn
cảnh” để rõ hơn về vùng đất mới và con người miền Nam” [189, tr.5]. Thế
nhưng, ở công trình này tác giả cũng chỉ đề cập và nhận định về một số nhà
thơ yêu nước ở miền Nam đã có tên tuổi như Nguyễn Quang Diêu, Nguyễn
Thần Hiến. Tác giả nhận định về Nguyễn Quang Diêu như sau:“Sinh thời
Nguyễn Quang Diêu làm thơ rất nhiều và đủ thể loại. Thơ ông có nội dung
hàm súc, mang tính chiến đấu rất cao, lời thơ bình bị, trong sáng, tự nhiên
thể hiện cái tinh thần kiên cường, bất khuất và cá tính riêng của người dân
Nam Bộ” [189, tr.139]. Khi nhắc đến những nhân vật tham gia phong trào
Đông du ở miền Nam vào năm 1907, tác giả có nói đến Nguyễn Thần Hiến
và cũng đã chú thích như sau: “Lúc trẻ ông rất hiếu học, thông minh lại sinh
trưởng trong một gia đình vọng tộc có truyền thống văn học, nên việc học
hành chu đáo” [189, tr.141].
Năm 2005, Nguyễn Q. Thắng cho ra mắt độc giả công trình đồ sộ có
tổng cộng 5151 trang với tên gọi Văn học miền Nam Nxb. Văn hóa Thông
tin. Ưu điểm của công trình này là số lượng tư liệu rất đáng kể về cuộc đời,
thân thế sự nghiệp và những tác phẩm văn học của các tác gia văn học miền
Nam từ “Những tác giả tiên hiền” [190, tr.33] đến các “Văn gia hiện đại”
[190, tr.925]. Công trình đã đề cập đến 5 tác giả có sáng tác tác phẩm thơ đề
cập đến nội dung yêu nước và yêu nước – cách mạng ở Nam Bộ giai đoạn
này là Nguyễn Quang Diêu, Nguyễn An Ninh, Bảo Lương Nguyễn Trung
Ở Nam Bộ gọi là Minh Tân, danh từ này sẽ được dùng xuyên suốt trong luận án, ngoại
trừ khi nhắc đến tư tưởng Duy Tân ở miền Bắc.
(1)
6
Nguyệt, Trần Huy Liệu, Huỳnh Văn Nghệ. Trong lời đầu sách tác giả cũng
đã thừa nhận như sau: “Nhận thấy sự thiếu vắng của các đề tài này, tác giả
không ngại sự hiểu biết nông cạn và khả năng cá nhân riêng lẻ, hạn hẹp…
chúng tôi mạo muội ghi lại đây một số tìm tòi và cảm nhận từ sự diễn tiến
của bộ phận văn học nơi miền đất sinh sau đẻ muộn này nhằm giới thiệu tới
độc giả xa gần…” [190, tr.9].
Công trình Văn học Việt Nam thế kỷ XX – Thơ ca chữ quốc ngữ Việt
Nam từ đầu thế kỷ XX – Quyển bốn – Tập II, do Mai Quốc Liên chủ biên,
Lưu Hồng Sơn và Trung tâm nghiên cứu Quốc học (Hội Nhà văn Việt Nam)
sưu tầm và soạn tuyển, Nxb. Văn học năm 2005 là một bước khởi sắc trong
việc tiếp cận thơ ca Nam Bộ thời kỳ 1900 – 1945. Cuốn sách được biên soạn
dưới dạng tuyển tập văn học. Điều quan trọng là các tác giả đã có công sưu
tầm, trích tuyển được 19 nhà thơ sống và sáng tác thơ ở Nam Bộ vào thời
điểm từ 1900 trở về sau. Trong 19 tác giả thơ được các nhà biên soạn giới
thiệu nói trên, chúng ta thấy có rất nhiều tên tuổi như: Đông Hồ, Quốc Biểu,
Thượng Tân Thị, Huỳnh Đình Ngươn, Phan Tử Nhàn, Thiên Đào, Nguyễn
Liên Phong, Lê Sum,...v.v.
Trong quyển sách phê bình – tiểu luận với nhan đề: “Tiếng vọng
những mùa qua”, Nxb. Trẻ, năm 2004, Nguyễn Thị Thanh Xuân có hai bài
viết liên quan đến văn học Nam Bộ những năm đầu thế kỷ XX. Bài thứ nhất:
“Đông Hồ với thi ca và giáo dục”, với một tiểu mục khiêm tốn, tác giả đã
giới thiệu ngắn gọn về tiểu sử, sự nghiệp cũng như việc đóng góp của thi sĩ
Đông Hồ cho phong trào thơ ca và giáo dục Nam Bộ đầu thế kỷ XX trở về
sau. Bài thứ hai mang tính khái quát hơn, đó là bài: “Văn học hiện đại Việt
Nam, bước khởi đầu quan trọng ở Sài Gòn – Nam Bộ”.
Trong bài viết: “Những bổ khuyết cần thiết cho bức tranh toàn cảnh
của văn học Việt Nam hiện đại”, Trần Hữu Tá đã chỉ ra những vấn đề cần bổ
khuyết cho nền văn học Việt Nam hiện đại, trong đó có thơ ca Nam Bộ giai
đoạn từ đầu thế kỷ đến những năm 1945 của thế kỷ trước, tác giả khẳng
định: “Trong lĩnh vực thơ, đã đến lúc cần tìm hiểu những sáng tác của Hồ
Văn Hảo (tập Thơ ý, 1949) và nhiều bài đăng trên Phụ nữ tân văn; của
Khổng Dương (tập Li tao, 1940) và các bài thơ đăng trên Công luận báo
(Sài Gòn), Tiểu thuyết thứ bảy, Trung Bắc chủ nhật (Hà Nội). Nghiên cứu
7
tác phẩm của thi sĩ nói trên, ta có thể kết luận Nam Bộ không chỉ đóng góp
vào phong trào Thơ Mới hai nhà thơ Đông Hồ và Mộng Tuyết” [179, tr.85].
Tuy nhiên, do khuôn khổ của một bài viết ngắn gọn nên mảng thơ ca yêu
nước – cách mạng ở Nam Bộ 1900 – 1945 vẫn chưa được đề cập tới một
cách cụ thể.
Ngoài ra, còn có một số công trình và bài viết có liên quan đến mảng
thơ ca yêu nước – cách mạng ở Nam Bộ từ 1900 – 1945, như: Hoài Anh,
Hồ Sĩ Hiệp: Những danh sĩ miền Nam – Nxb. Tổng hợp Tiền Giang, 1999;
Hoài Anh: Chân dung văn học – tiểu luận phê bình, Nxb. Hội Nhà văn,
2000; Nguyễn Kim Anh, Vũ Ngọc, Hà Thanh Vân, Hoàng Tùng: Thơ văn nữ
Nam Bộ TK.XX, Nxb. Tp. HCM, 2002; Bằng Giang: Sai Côn cố sự,
Nxb.Văn học, 1994; Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Công Bình
(Chủ biên): Địa chí văn hóa TP.HCM, (tập 2), Nxb. Tp. HCM, 1998; Trần
Đình Hượu, Lê Chí Dũng: Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900 –
1930, Nxb. ĐH và THCN, HN, 1988, Nxb. Giáo dục tái bản 1996; Nhiều tác
giả: Từ điển văn học (Bộ mới), Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2004; Nhiều tác giả:
Tổng tập văn học Việt Nam, tập 20, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1997 (Nông cổ
mín đàm: Nguyễn Khắc Huề, Lương Khắc Ninh, Đặng Quý Tuấn, Cẩm Lâm
Huê Thượng, Tân Nhuận Thoàn Su, Giang Nam Sĩ Nhơn, Lương Cung Bá,
Lương Hòa Quy, Nguyễn Dư Hoài, Trần Giải Ngươn, Trần Phục Lễ); Nhiều
tác giả: Tổng tập văn học Việt Nam, tập 26, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1990
(Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Hồ Biểu Chánh, Bửu Đình); Nhiều tác
giả: Tuyển tập văn học chữ viết Bến Tre: từ khởi thủy đến 1975, Nxb.
KHXH, 1996, TVQG Hà Nội. Số đăng ký cơ bản: Vv96.02705, Vv96.02706
(Phan Thanh Giản, Phan Văn Trị, Phan Ngọc Tòng, Trương Gia Mô, Trương
Vĩnh Ký, Lương Khắc Ninh, Lê Hoằng Mưu, Nguyễn Văn Vĩnh…); Thiếu
Sơn: Phê bình và cảo luận, Editions Nam Ký (17 Bd. Francis Garnier –
HN), 1933 (phê bình: Phạm Quỳnh, Phan Khôi, Nguyễn Khắc Hiếu, Trần
Trọng Kim, Nguyễn Văn Vĩnh, Hồ Biểu Chánh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần
Tuấn Khải, Tương Phố, Tố Tâm, Người vợ hiền của Nguyễn Thới Xuyên,
Quả dưa đỏ, Nói chuyện quốc học, Nói chuyện tiểu thuyết, Báo giới và văn
học quốc ngữ); Thiếu Sơn: Những văn nhân chính khách một thời, in lần 1,
Nxb. Lao Động, H., 1993, Nxb. CAND, H. tái bản, 2006, (tập hợp Hồi ký:
Nợ bút nghiên và các bài trên báo Sài Gòn từ 1956 – 1972 về nhiều nhà văn,
8
trong đó có các nhà văn Nam Kỳ như: Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm,
Phan Khôi, Bửu Đình, Tạ Thu Thâu, Nguyễn Háo Vĩnh, Diệp Văn Kỳ,
Nguyễn Phan Long, Nguyễn Đức Nhuận, Đào Trinh Nhất, Hồ Biểu Chánh,
Đông Hồ, Nguyễn Mạnh Tường…); Bùi Đức Tịnh: Những bước đầu của
báo chí, tiểu thuyết và thơ mới, Lửa thiêng xb., S.1974; Nxb. Tp. HCM
1992, tái bản 2002.
Và các tác giả có đăng các bài nghiên cứu ở một số báo như: Vũ Tuấn
Anh: Ba mươi năm đầu thế kỷ: sự định hình tính chất mới, hệ thống thể loại
mới của văn học VN hiện đại, TCVH số 12/2002 và Nghiên cứu văn học
hiện đại trong tiến trình văn học nửa thế kỷ qua, Tạp chí Văn học, số 11,
năm 2003; Phan Cự Đệ: Những bước tổng hợp mới trong văn học Việt Nam
TK.XX, TCVH số 10/2001; Mã Gia Lân: Chữ quốc ngữ và sự phát triển thơ
ca đầu thế kỷ XX, Tạp chí Văn học, số 8, năm 1998 và Quá trình hiện đại
hoá văn học Việt Nam 1900 – 1945, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2000;
Phong Lê: Trên quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam vào nửa đầu thế kỉ
XX, Tạp chí Văn học, số 1/2001,...
Năm 2006, Đoàn Lê Giang trong bài viết đăng trên Tạp chí Nghiên
cứu Văn học số 7 với tiêu đề: “Văn học quốc ngữ Nam Bộ cuối thế kỷ XIX
đến 1945 – thành tựu và triển vọng nghiên cứu”. Tác giả đã gợi mở những
khoảng trống, những vấn đề còn bỏ ngỏ có liên quan đến mảng văn học Nam
Bộ từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945. Bài viết được tóm tắt ở website:
http://vnuhcm.edu.vn, như sau: “Văn học quốc ngữ Nam Bộ cuối thế kỷ XIX
đến 1945 là một bộ phận máu thịt của văn học dân tộc. Trong khoảng hơn
nửa thế kỷ từ khi hình thành cho đến 1945, vùng văn học này đã có một đời
sống rất sôi nổi với hàng trăm cây bút và hàng mấy trăm tác phẩm, cuốn hút
hàng triệu độc giả. Nhưng từ sau năm 1945 văn học quốc ngữ Nam Bộ có
một thời gian khá dài bị giới nghiên cứu phê bình quên lãng. Ít được ai nhắc
tới”. Trong mảng văn học còn chưa được khai thác đầy đủ mà tác giả đã
nêu, điều này, giúp chúng ta hiểu rằng mảng thơ ca yêu nước – cách mạng ở
Nam Bộ giai đoạn đầu thế kỷ XX là vô cùng phong phú và đa dạng.
Tháng 5 năm 2006, Hội nghị khoa học về văn học quốc ngữ Nam Bộ
tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp. HCM, với nội dung
“Văn học quốc ngữ Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945” đã được tổ
9
chức. Với thành tựu bước đầu là đã sưu tầm lại được “một gia tài tác phẩm
và tác giả khá phong phú đồ sộ, theo thống kê chưa đầy đủ có khoảng 218
tác giả và khoảng 500 cuốn sách văn học quốc ngữ đã được xuất bản ở
Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945”. Hội thảo đã khẳng định “Ngoài
tầm quan trọng trong văn học sử, văn học quốc ngữ Nam Bộ còn phản ánh
khá trung thực những thay đổi của xã hội và văn hóa Nam Bộ trước tác
động của sự thống trị của thực dân Pháp tại Việt Nam, phản ánh những
tiếp biến văn hóa Đông – Tây qua những biến đổi sinh hoạt đời sống ăn, ở,
mặc, giao tiếp… của người dân Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế
kỷ XX. Ngoài ra văn học quốc ngữ Nam Bộ còn là một nguồn tư liệu quí để
nghiên cứu lịch sử ngôn ngữ, nghiên cứu phương ngữ Nam Bộ, nghiên cứu
các vấn đề chính tả, phương ngôn, cổ ngữ…”. Và hội thảo thừa nhận “do
nhiều lý do gia tài này cho đến nay vẫn chưa được khai thác và nghiên cứu
thỏa đáng, nhiều tác giả quan trọng của văn học quốc ngữ Nam Bộ trong
giai đoạn này vẫn chưa có chân dung rõ ràng.”(1)
Ở địa chỉ website: www.vanhoanambo.com, link vào trang khảo cứu
có phần giới thiệu về “Các công trình văn học quốc ngữ miền Nam”, trong
đó có phần nói về thơ, như sau: “Nếu báo chí giữ vai trò khá quan trọng
trong việc truyền bá chữ quốc ngữ ở giai cấp trung lưu, thơ lại giữ một vai
trò quan trọng trong việc phổ biến chữ quốc ngữ trong giai cấp bình dân ở
miền Nam” [link vào mục: thơ].
Ngoài các công trình, bài viết nêu trên, chúng tôi cũng tìm thấy đây
đó còn có một số bài báo, công trình nghiên cứu khác cũng có đề cập ít
nhiều về văn học Nam Bộ thời kỳ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945. Tuy
nhiên, khi nói về thơ ca yêu nước – cách mạng Nam Bộ ở giai đoạn này,
người ta thường hiển nhiên xem nó cũng gắn chặt với định kiến về “một
vùng đất ít người viết thơ”. Từ đó, dẫn đến sự kiện tất yếu là mảng thơ ca
Nam Bộ nói chung và thơ ca yêu nước – cách mạng ở Nam Bộ trong hơn 4
thập kỷ đầu thế kỷ XX nói riêng đã chưa hề được nghiên cứu như một hệ
thống hoàn chỉnh với tất cả những đặc trưng về thời đại, tư tưởng cũng như
những đặc điểm nghệ thuật của nó. Trên tinh thần đó, luận án này đã được
tiến hành với mục đích góp phần hoàn thiện bức chân dung của văn học
(1)
Theo: website: http://www.hcmussh.edu.vn.
10
quốc ngữ Nam Bộ qua việc giới thiệu, nghiên cứu mảng thơ ca yêu nước –
cách mạng Nam Bộ 1900 – 1945 mà cho đến nay chưa được chú ý nhiều.
Đó cũng chính là lý do chính của người thực hiện luận án này.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận án sẽ làm rõ các vấn đề sau:
- Xác định những tiền đề hình thành và phát triển của thơ ca yêu nước
– cách mạng ở Nam Bộ giai đoạn 1900 – 1945.
- Qua việc sưu tầm, thống kê, phân loại, tiến tới việc xác định các giai
đoạn hình thành và phát triển, các bộ phận chính, những đặc điểm về nội
dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của thơ ca yêu nước – cách mạng ở
Nam Bộ trong từng thời kỳ của giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX.
- Giới thiệu một số tác giả tiêu biểu.
- Góp phần vào việc hình thành cái nhìn đầy đủ và có hệ thống hơn
trong việc nghiên cứu và giảng dạy văn học Việt Nam thế kỷ XX.
- Khơi dậy lòng tự hào của thế hệ trẻ nhằm “tiếp lửa truyền thống” yêu
nước – cách mạng qua việc giới thiệu những tác phẩm, tác giả thơ ca yêu
nước – cách mạng tiêu biểu ở Nam Bộ giai đoạn 1900 – 1945.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Mảng thơ ca yêu nước – cách mạng ở Nam Bộ từ 1900 – 1945 rất
phong phú với nhiều đề tài, chủ đề được chuyển tải bằng nhiều phương thức
nghệ thuật khác nhau. Trong phạm vi nghiên cứu, luận án sẽ tập trung vào
mảng thơ ca yêu nước – cách mạng ở Nam Bộ giai đoạn 1900 – 1945 bao
gồm:
4.1 Về phương diện tác giả
Luận án sẽ hướng đến việc sưu tầm, phân loại, thống kê và tìm hiểu
các tác giả có liên quan đến phong trào thơ ca yêu nước – cách mạng ở Nam
Bộ 1900 – 1945, cụ thể như sau:
- Những nhà thơ vốn cũng là nhà yêu nước, nhà trí thức sinh sống tại
Nam Bộ, theo nhiều mức độ đã tham gia, đồng tình với các phong trào yêu
nước tại Nam Bộ trong giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến 1945, đã được biết
11
đến nhiều, đã được giới thiệu rộng rãi trên tài liệu, sách, báo.
- Những nhà thơ không phải quê quán ở Nam Bộ, nhưng có quá trình
sinh sống, làm việc, hoạt động yêu nước tại Nam Bộ. Đặc biệt là những
người do tham gia các phong trào yêu nước, bị thực dân Pháp và tay sai cầm
tù hay giam lỏng tại Nam Bộ. Các sáng tác thơ ca có nội dung yêu nước –
cách mạng của họ được sáng tác trong thời gian ở Nam Bộ.
- Các tác giả không chuyên và tác giả quần chúng và một bộ phận tác
giả khuyết danh đã đóng góp nhiều tác phẩm cho mảng thơ ca yêu nước –
cách mạng (phần nhiều được sưu tầm từ báo chí giai đoạn 1900 – 1945).
- Đặc biệt nhấn mạnh vào năm tác giả lớn có thành tựu đáng ghi nhận
nhất.
4.2 Về phương diện tác phẩm
Đối tượng nghiên cứu của luận án là mảng thơ ca yêu nước – cách
mạng ở Nam Bộ giai đoạn 1900 – 1945 có nội dung nhận thức về nhu cầu
cập nhật, hiện đại hóa hoặc tiến đến những đổi thay sâu sắc trong tư tưởng
yêu nước truyền thống Việt Nam làm nền tảng cho sự thành công trong công
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp giành độc lập tự do cho đất nước.
Luận án sưu tầm và sử dụng những tác phẩm thơ ca yêu nước chống
thực dân giải phóng dân tộc được sáng tác với các ảnh hưởng của:
- Tư tưởng yêu nước truyền thống Việt Nam;
- Tư tưởng yêu nước chịu ảnh hưởng của Nho giáo cách tân;
- Tư tưởng yêu nước – cách mạng thời Minh Tân (được truyền bá chủ
yếu trên báo chí);
- Tư tưởng yêu nước – cách mạng vô sản.
Một phần lớn các tác phẩm trên được sưu tầm lại từ báo chí cũ trong
thư viện dưới dạng microfilm. Phần khác là những tác phẩm đã được công
bố qua các công trình nghiên cứu nhưng số này không nhiều.
Tất cả các tác phẩm thơ ca được khảo sát trong luận án đều có nội
dung liên quan đến tư tưởng yêu nước – cách mạng, được sáng tác bằng chữ
quốc ngữ (hoặc cá biệt có thể bằng chữ Hán, Nôm nhưng đã được dịch và
lưu hành chủ yếu bằng quốc ngữ) giai đoạn 1900 – 1945. Đây là mảng thơ
12
ca yêu nước trong thời đại mới, chịu ảnh hưởng sâu sắc của các dòng tư
tưởng đã từng xuất hiện tại Nam Bộ qua các thời kỳ cách mạng Minh Tân
cho tới thời kỳ cách mạng vô sản chính thức lãnh đạo cuộc đấu tranh giành
độc lập của nhân dân Việt Nam.
Cũng xin xác định rõ địa danh Nam Bộ theo cách gọi phổ biến hiện
nay sẽ được sử dụng trong luận án, ngoại trừ các mục trong chương 1 sử
dụng địa danh Nam Kỳ do đây là chương chủ yếu viết về các sự kiện trong
lịch sử. Ngoài ra, để thuận tiện, tên gọi chung của mảng thơ này trong toàn
luận án là thơ ca yêu nước – cách mạng Nam Bộ 1900 – 1945.
5. Phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ lý do nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu cũng như phạm
vi nghiên cứu, luận án đã vận dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu
sau:
5.1. Phương pháp sưu tầm
Ngoài việc sưu tầm những công trình từ trước đến nay có liên quan
đến mảng thơ ca yêu nước – cách mạng Nam Bộ 1900 – 1945, luận án còn
triển khai sưu tầm các tác phẩm thơ ca yêu nước – cách mạng đã được đăng
trên báo chí ở Nam Bộ trong giai đoạn 1900 – 1945, trong đó phần lớn còn
chưa được biết đến. Việc này cũng là một trong những việc làm rất quan
trọng của quá trình thực hiện đề tài bởi đó là những cơ sở dữ liệu khởi đầu
cho việc sưu tầm, tổng hợp và nghiên cứu một cách tổng quát về thơ ca yêu
nước – cách mạng ở Nam Bộ giai đoạn 1900 – 1945 (xem phụ lục).
5.2. Phương pháp thống kê – phân loại
Để hướng đến việc đáp ứng nhu cầu của đề tài, luận án áp dụng
phương pháp thống kê – phân loại các tài liệu sưu tầm được theo các giai
đoạn, các nhóm tư tưởng, theo nhóm tác giả nhằm thu được những dữ liệu
góp phần thẩm định, đánh giá thơ ca yêu nước – cách mạng ở Nam Bộ giai
đoạn 1900 – 1945 một cách cụ thể về từng phương diện. Tài liệu chính được
thống kê là những bài thơ của nhiều nhà thơ, nhà hoạt động, nhà tư tưởng
qua các chặng đường lịch sử ở Nam Bộ. Các bài thơ được sưu tầm, thống kê
đều có nội dung thể hiện tư tưởng yêu nước – đổi mới hoặc tư tưởng yêu
nước – cách mạng được thể hiện bằng nhiều phương thức nghệ thuật khác
13
nhau. Kết quả thống kê phân loại sẽ là một trong những cơ sở khoa học cho
việc đưa ra cái nhìn toàn cảnh về thơ ca yêu nước – cách mạng ở Nam Bộ
giai đoạn 1900 – 1945.
5.3. Phương pháp xã hội – lịch sử
Phương pháp này nhằm mục đích tìm hiểu cơ sở lịch sử, những tác
động của thời đại đã chi phối con đường hình thành và phát triển của tư
tưởng yêu nước trong thơ ca yêu nước – cách mạng ở Nam Bộ giai đoạn
1900 – 1945. Với phương pháp xã hội – lịch sử, giúp người nghiên cứu còn
có thể xác định vị trí, vai trò, ý nghĩa của mảng văn học này trong dòng chảy
của văn học dân tộc.
5.4. Phương pháp so sánh
Phương pháp so sánh được sử dụng nhằm mục đích xác định tính hiện
đại và trội bật của thơ ca yêu nước – cách mạng ở Nam Bộ giai đoạn 1900 –
1945 so với mảng thơ ca yêu nước của nền văn học Hán Nôm, mảng thơ ca
yêu nước truyền thống cùng thời đại ấy ở Nam Bộ và toàn quốc.
5.5. Phương pháp phân tích – tổng hợp
Luận án vận dụng phương pháp này nhằm đáp ứng yêu cầu của việc
nghiên cứu, phân tích và tổng hợp từ nội dung đến nghệ thuật của thơ ca yêu
nước – cách mạng ở Nam Bộ giai đoạn 1900 – 1945. Qua đó, luận án tìm
hiểu những vấn đề có liên quan giữa bối cảnh lịch sử xã hội của đất nước
trong thời điểm đó với các mặt thể hiện của các hệ tư tưởng yêu nước được
thể hiện qua các bài thơ. Từ đó, luận án sẽ tìm hiểu, phân tích, bình luận,
đánh giá về những tiền đề hình thành; những khuynh hướng chính; những
tính chất chủ yếu và giới thiệu một số tác giả tiêu biểu của mảng thơ ca yêu
nước – cách mạng ở Nam Bộ giai đoạn 1900 – 1945.
6. Đóng góp của luận án
Thơ ca yêu nước – cách mạng ở Nam Bộ giai đoạn 1900 – 1945 là
một mảng văn chương có một quá trình hình thành, phát triển và tồn tại
khách quan, phản ánh cuộc đấu tranh nâng cao tầm vóc dân tộc và đấu tranh
giành độc lập tự do tại Nam Bộ trong các giai đoạn lịch sử khác nhau.
Luận án này được thực hiện trong chủ đích hướng tới việc phác hoạ
cái nhìn toàn cảnh về thơ ca yêu nước – cách mạng xuất hiện ở Nam Bộ giai
14
đoạn 1900 – 1945 ở các phương diện chủ yếu là nội dung, nghệ thuật và một
số tác giả, tác phẩm tiêu biểu.
7. Cấu trúc của luận án
Luận án gồm 4 chương theo, cách triển khai như sau:
Chương 1:
hình thành và phát tri n thơ ca yêu nước Nam Bộ
1900 – 1945 (41 trang, 4 mục và 1 tiểu kết), gồm:
1.1. Tiền đề lịch sử, xã hội Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX;
1.2. Tiền đề văn hóa tinh thần;
1.3. Vấn đề về lực lượng sáng tác, nội dung tưởng tác phẩm và những
chặng đường phát triển;
1.4. Quá trình vận động của tư tưởng yêu nước trong thơ ca Nam Bộ
1900 – 1945;
* Tiểu kết.
Chương 2: Thơ ca yêu nước Nam Bộ 1900 – 1945: Những khuynh
hướng chính (52 trang, 3 mục và 1 tiểu kết), gồm:
2.1. Khuynh hướng yêu nước truyền thống trong thơ ca yêu nước
Nam Bộ 1900 – 1945;
2.2. Khuynh hướng yêu nước Minh Tân trong thơ ca yêu nước –
cách mạng Nam Bộ 1900 – 1945;
2.3. Khuynh hướng yêu nước – cách mạng vô sản trong thơ ca
yêu nước – cách mạng Nam Bộ 1900 – 1945;
* Tiểu kết.
Chương 3: Thơ ca yêu nước Nam Bộ 1900 – 1945: Những tính
chất chủ yếu (40 trang, 3 mục và 1 tiểu kết), gồm:
3.1. Tính thời sự, chính trị;
3.2. Tính bình dân, đại chúng;
3.3. Tính tuyên truyền, cổ vũ;
* Tiểu kết.
15
Chương 4: Thơ ca yêu nước Nam Bộ 1900 – 1945: Một số tác giả
tiêu bi u (56 trang, 5 mục và 1 tiểu kết), gồm:
4.1. Sương Nguyệt Anh (1864 – 1921);
4.2. Nguyễn Quang Diêu (1880 – 1936);
4.3. Bửu Đình (1898 – 1931);
4.4. Trần Huy Liệu (1901 – 1969);
4.5. Huỳnh Văn Nghệ (1914 – 1977) ;
* Tiểu kết.
Phần Kết luận: (5 gồm trang).
Luận án có tổng số 262 trang phần chính văn 208 trang, phần mở đầu
16 trang, tài liệu tham khảo, phần liệt kê bài viết của tác giả 18 trang, phần
thư mục và hình ảnh minh họa 29 trang.
Để thực hiện 4 chương trên, luận án sẽ sử dụng các kết quả của quá
trình sưu tầm, thống kê, phân loại, so sánh, phân tích, tổng hợp để đưa đến
những kết luận xác đáng trong từng vị trí thích hợp ở mỗi chương.
16
Chương 1
N
T
N
V P
TT
N
T Ơ CA YÊU NƯỚC NAM BỘ 1900 – 1945
1.1. Tiền đề lịch sử, xã hội Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX
Từ nửa sau thế kỷ XIX, đất Nam Kỳ bước qua một giai đoạn đầy gian
nan thử thách sau một loạt biến cố lịch sử bắt đầu từ cuộc xâm lăng của thực
dân Pháp. Năm 1859, Pháp đánh thành Gia Định và sự kiện này đã khơi dậy
những làn sóng đầu tiên của phong trào kháng chiến chống thực dân của
nhân dân Nam Kỳ lục tỉnh. Phong trào càng ngày càng lan rộng sau khi đại
đồn Chí Hòa thất thủ năm 1860. Trước sự kiện này, nếu triều đình Huế đã
“rút chạy bỏ ngỏ Gia Định cho quân địch chiếm đóng”, thì “các đạo quân
ứng nghĩa bám sát địch chiến đấu, nhiều sĩ phu yêu nước quay về thôn xã
chiêu mộ nghĩa binh chống địch” [49, tr.133, 384]. Liên tiếp sau đó là việc
ký hòa ước 1862 thừa nhận ba tỉnh miền Đông Nam Bộ bị chiếm; hòa ước
1867 tiếp tục thừa nhận việc mất cả ba tỉnh miền Tây. Tình hình càng u ám
hơn cho đến khi hoà ước Giáp Tuất 1874 chính thức công nhận Nam Kỳ là
thuộc địa của Pháp. Nhân dân Nam Kỳ lục tỉnh không còn trông mong gì ở
triều đình Huế lúc này vừa bảo thủ vừa bất lực, không chấp nhận đổi mới để
cứu nước trên nhiều phương diện đã được những nhà trí thức yêu nước, tiến
bộ đề nghị trong các bản điều trần. Vì thế, triều đình phong kiến đã để Nam
Kỳ rơi vào tay Pháp và cũng chẳng có giải pháp gì cho việc cứu miền Nam.
Nhưng cũng chính trong thời gian đó, cao trào kháng chiến ngày càng
sôi sục với liên tiếp nhiều cuộc khởi nghĩa ở đều khắp Nam Kỳ, từ miền
Đông trải rộng xuống miền Tây, lan xuống Long Xuyên, Đồng Tháp, Cà
Mau,… do nhiều hào kiệt, sĩ phu yêu nước chiêu mộ quần chúng nổi dậy.
Tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa của Trương Định ở Gò Công, Hồ Huân
Nghiệp ở Bình Dương, Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá, Thiên Hộ Dương ở
Đồng Tháp Mười, Thủ Khoa Huân ở Mỹ Tho, Phan Văn Đạt, Lê Cao Dõng
ở Tân An, Phan Liêm, Phan Tôn ở Bến Tre, Đỗ Thừa Luông, Đỗ Thừa Tự ở
Cần Thơ rồi rút về U Minh, khởi nghĩa Thất Sơn Long Xuyên, khởi nghĩa 18
thôn vườn trầu ở Bà Điểm Hốc Môn do Quản Hớn lãnh đạo,… Phong trào
17
này lan toả đến các vùng Chợ Lớn, Gò Công. [49, tr.8]. Tinh thần yêu nước
chống thực dân của nhân dân Nam Kỳ còn thể hiện qua các hành động xa
lánh đất bị giặc chiếm (tị địa), lên án bọn Việt gian tay sai bằng thơ châm
biếm, đồng thời cũng làm thơ văn ca ngợi những tấm gương anh hùng liệt sĩ,
ca ngợi những người nghĩa quân vốn xuất thân bình thường, chỉ là “dân ấp
dân lân”.
Thực dân Pháp bằng mọi cách đàn áp các cuộc khởi nghĩa của thời kỳ
đầu, với nhiều cách như dùng sức mạnh quân sự, sử dụng Việt gian, trong đó
có các tên khét tiếng như Huỳnh Công Tấn, Trần Bá Lộc,... Ở thuộc địa
Nam Kỳ, nơi trực tiếp hứng chịu chế độ thuộc địa, cuộc kháng chiến chống
Pháp xâm lược lại tiếp tục diễn ra trên đều khắp các phương diện như: vũ
trang, chính trị, văn hóa,… Tuy nhiên, sang đầu thế kỷ XX, các phong trào
Cần Vương, Văn Thân ở cả ba miền, đa số dưới hình thức khởi nghĩa quân
sự đều bị Pháp đẩy lùi chỉ vì một lý do là không ngang sức về lực lượng.
Cuộc chiến đấu vũ trang thất bại do không ngang sức với thực dân
Pháp đã làm cho người Việt Nam bắt đầu nhận thức về yêu cầu vận động
phát triển để tự thay đổi, nâng cao trình độ dân tộc và đất nước mình, từ đó
mới có đủ khả năng giành độc lập tự do. Đây là nền tảng đầu tiên của sự
hình thành tư tưởng yêu nước – cách mạng trong thơ ca tại Nam Kỳ giai
đoạn từ 1900 – 1945.
1.1.1. Phong trào Minh Tân ở Nam Bộ đầu thế kỷ XX
Trong ý đồ của thực dân muốn tái cấu trúc xã hội ở Nam Kỳ, Sài Gòn
và các trung tâm lớn của miền Nam dần dần được đô thị hoá, kéo theo sự
xuất hiện của tầng lớp tư sản và tầng lớp thợ thuyền, công nhân. Các thành
phần giai cấp xã hội thay đổi cùng với sự biến động trong những bình diện
khác của đời sống kinh tế, đời sống văn hóa tinh thần. Tầng lớp tư sản Nam
Kỳ thời kỳ này chỉ mới là số ít, hiếm người Việt Nam làm giàu được ngay
trên đất nước của mình trong lãnh vực doanh thương, và còn rất vất vả trong
cuộc cạnh tranh với các thế lực kinh tế của Chà và, Tây, Tàu. Nền kinh tế
khai thác thuộc địa của Pháp đã tỏ ra hoạt động có hiệu quả. Cảng Sài Gòn
được mở năm 1860, phát triển công nghiệp được chú ý phát triển như nghề
đóng thuyền, vận tải đường sông, nhà máy xay lúa,... Nhưng người Việt
Nam đã nhận thức ra rằng việc phát triển kinh tế Nam Kỳ, xây dựng nhà
18
máy, cầu cống, đường xá, tất cả chỉ nhằm mục tiêu “khai thác” chứ không
phải vì “khai hoá”.
Sang đầu thế kỷ XX, khi những cuộc đấu tranh vũ trang đều thất bại
thì ngay sau đó đã xuất hiện hình thức đấu tranh công khai, hợp pháp trên
các mặt kinh tế, văn hóa xã hội và chính trị. Phong trào Duy Tân được dấy
lên trong phạm vi toàn quốc bắt đầu bởi những điều trần của Nguyễn Trường
Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, sau đó là các tác phẩm tuyên truyền tư tưởng Duy
Tân của các thế hệ sau xuất hiện đều khắp ba miền Trung, Nam, Bắc. Những
biến cố chính trị xã hội có nguồn gốc từ tư tưởng Duy Tân đã diễn ra gần
như đồng loạt khắp ba miền, trong đó, đáng chú ý nhất là phong trào Đông
Du gửi thanh niên Việt Nam đi du học ở Nhật Bản, Trung Hoa hoặc các
nước châu Âu. Tuy kéo dài không lâu nhưng phong trào Duy Tân vẫn còn để
lại một số âm hưởng đáng kể trong tư tưởng yêu nước Việt Nam với các tên
tuổi của các nhà yêu nước trong phong trào Đông Kinh nghĩa thục ở Bắc Kỳ,
phong trào Duy Tân ở Trung Kỳ và Minh Tân ở Nam Kỳ.
Ở Nam Kỳ, phong trào Minh Tân gắn liền với các tên tuổi như
Nguyễn Thần Hiến, Trần Chánh Chiếu, Đặng Thúc Liêng, Lương Khắc
Ninh,... Họ là những người đã nhiệt tình cổ vũ Minh Tân trên các phương
tiện báo chí và sách vở. Phong trào Đông Du ở Nam Kỳ đã phát triển rất
mạnh mẽ. Khoảng 1907 – 1908, trong số du học sinh cả nước ước khoảng
200, thì miền Nam đã chiếm hết 100. Nhiều phương tiện truyền thông đại
chúng cổ vũ cho phong trào này như các tờ báo Nông cổ mín đàm(*), Lục
tỉnh tân văn.“Các phong trào trên đã thể hiện một bước trưởng thành trong
ý thức của nhân dân Nam Bộ về mối tương quan giữa dân tộc và thế giới
trên con đường giải phóng đất nước” [200, tr.159]. Đó là ý thức thay đổi
nâng cao tầm cỡ đất nước, tầm cỡ dân tộc để trở thành ngang sức, ngang tài
trong cuộc chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược. Đây là một phong trào yêu
nước với khuynh hướng tư sản dân tộc, chủ trương mở mang kinh tế theo xu
hướng tư sản tích cực, bắt đầu từ việc làm giàu cho nhân dân tiến tới làm
giàu đất nước. Từ đó, làm thay đổi vị thế đất nước và con người Việt Nam
trong thời kỳ “Đại thế cạnh tranh” của thế giới.
Là tờ báo kinh tế đầu tiên của Việt Nam do Canavaggio sáng lập, số 1 ra ngày 1-81901. nghĩ của Nông cổ mín đàm: Ngồi bên chén trà bàn chuyện nông thương.
(*)
19
1.1.2. Phong trào yêu nước ở Nam Bộ trong giai đoạn chuy n tiếp
Cuối thập kỷ 20 sang 30 của thế kỷ XX, tư tưởng yêu nước – Minh
Tân ở Nam Kỳ đi vào giai đoạn thoái trào. Những dư âm của nó tuy vẫn còn
nhưng không đáng kể. Cuộc tìm kiếm một nền tảng tư tưởng thích hợp cho
cuộc đấu tranh giành độc lập tự do và giải quyết những vấn đề dân tộc trở
thành bức thiết.
Từ đó, ở Nam Kỳ nói chung và đặc biệt ở Sài Gòn đã xảy ra những sự
kiện liên tiếp có liên quan đến những xu hướng chính trị đã ra đời sau tư
tưởng Minh Tân, trước khi chủ nghĩa Cộng sản được phổ biến và trở thành
nền tảng cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Trước hết, có thể thấy chủ trương “Pháp Việt đề huề” của những tổ
chức cơ hội chính trị lấy chiêu bài “dân tộc” nhằm thực hiện ý đồ thống lĩnh
đất Nam Kỳ và sau đó đã bị lịch sử loại trừ.
Đặc biệt, ở Sài Gòn trong thập niên 20 của thế kỷ XX đã xuất hiện
những tờ báo viết bằng tiếng Pháp do các trí thức Việt Nam hoặc Pháp chủ
trương mà mục tiêu và tôn chỉ tư tưởng của nó là rất tiến bộ và gần gũi với
tư tưởng Mác xít. Đó là các tờ Indochine của luật sư Monin, La voix libre
của Ganofsky (những người Pháp chống thực dân Pháp). Đặc biệt nhất và
sôi nổi nhất chính là báo La Cloche fêleé (Tiếng chuông rè) gắn liền với tên
tuổi của Nguyễn An Ninh, báo L’Annam gắn liền với tên tuổi của Phan Văn
Trường (cả hai đều là luật gia được đào tạo tại Pháp).
Nguyễn An Ninh chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản từ cách
mạng Pháp 1789 và có thiện cảm với tư tưởng Cộng sản. Nguyễn An Ninh
đã du nhập hai hình thức cổ động quần chúng là làm báo đối lập với thực
dân và diễn thuyết. Tờ Cloche fêleé (Tiếng chuông rè) không chỉ công kích
chế độ thực dân thối nát mà còn lần lượt công bố toàn văn của các Tuyên
ngôn dân quyền và nhân quyền của cách mạng Pháp, Tuyên ngôn cộng sản
của Mác và Ăng ghen. Tờ báo đã có tác dụng kích thích mạnh mẽ tinh thần
yêu nước và ham hiểu biết của đồng bào Nam Bộ.
Phan Văn Trường chịu ảnh hưởng của tư tưởng Cách mạng Tháng
Mười Nga. Tuy đứng trên lập trường Mác xít, nhưng tính tư sản cũng thể
20
- Xem thêm -