khu c«ng nghiÖp víi sù ph¸t triÓn
kinh tÕ - x· héi ë tØnh h¶i d¬ng
Hµ Néi - 2009
Môc lôc
Trang
1
Më ®Çu
Ch¬ng 1: C¬ së lý luËn vµ thùc tiÔn vÒ t¸c ®éng cña c¸c
khu c«ng nghiÖp ®èi víi sù ph¸t triÓn kinh tÕ
- x· héi
1.1. Khu c«ng nghiÖp vµ t¸c ®éng cña nã ®èi víi sù ph¸t triÓn kinh tÕ x· héi
1.2. Nh÷ng nh©n tè chñ yÕu chi phèi t¸c ®éng cña khu c«ng nghiÖp tíi
sù ph¸t triÓn kinh tÕ - x· héi
1.3. Kinh nghiÖm cña mét sè tØnh vÒ xö lý t¸c ®éng tiªu cùc trong ph¸t
triÓn khu c«ng nghiÖp
Ch¬ng 2: Thùc tr¹ng t¸c ®éng cña c¸c khu c«ng nghiÖp
®èi víi sù ph¸t triÓn kinh tÕ - x· héi cña tØnh
H¶i D¬ng
2.1. Sù ra ®êi vµ ph¸t triÓn c¸c khu c«ng nghiÖp ë tØnh H¶i D¬ng
2.2. §¸nh gi¸ nh÷ng t¸c ®éng cña c¸c khu c«ng nghiÖp ®èi víi sù ph¸t
triÓn kinh tÕ - x· héi ë tØnh H¶i D¬ng
Ch¬ng 3: Ph¬ng híng vµ gi¶i ph¸p ®¶m b¶o cho ho¹t
®éng cña c¸c khu c«ng nghiÖp ë tØnh H¶i D¬ng g¾n víi sù ph¸t triÓn kinh tÕ - x· héi trªn
®Þa bµn
3.1. Ph¬ng híng ph¸t triÓn c¸c khu c«ng nghiÖp ë tØnh H¶i D¬ng g¾n
víi sù ph¸t triÓn kinh tÕ - x· héi
3.2. Nh÷ng gi¶i ph¸p chñ yÕu nh»m ph¸t huy mÆt tÝch cùc vµ ng¨n
ngõa, h¹n chÕ tiªu cùc trong ph¸t triÓn c¸c khu c«ng nghiÖp ®èi
víi sù ph¸t triÓn kinh tÕ - x· héi ë tØnh H¶i D¬ng
KÕt luËn
danh môc tµi liÖu tham kh¶o
phô lôc
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CCN
:
Cụm công nghiệp
CNH, HĐH
:
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
CNXH
:
Chủ nghĩa xã hội
6
6
30
34
44
44
60
76
76
88
104
105
110
CTCP
:
Công ty cổ phần
KCN
:
Khu công nghiệp
KCNC
:
Khu công nghệ cao
KCX
:
Khu chế xuất
KH – CN
:
Khoa học – công nghệ
KT- XH
:
Kinh tế -xã hội
NĐ
:
Nghị định
NQ
:
Nghị quyết
TU
:
Tỉnh uỷ
UBND
:
Uỷ ban nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1: Các KCN tỉnh Đồng Nai
Bảng 2.2: Cơ cấu kinh tế ngành của tỉnh Hải Dương giai đoạn 1995-
36
200047
Bảng 2.1 : Một số khoáng sản chủ yếu của tỉnh Hải Dương
Bảng 2.3: Các khu công nghiệp phát triển giai đoạn 2010 – 2020
47
49
Bảng 2.4: Tổng hợp một số chỉ tiêu sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp trong KCN
Bảng 2.5: Bảng tổng hợp kế hoạch doanh thu năm 2008
59
60
Bảng 2.6: Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của KCN
68
Bảng 3.1: Dự báo tốc độ tăng trưởng GDP và cơ cấu các khu vực kinh tế
Bảng 3.2: Dự báo giá trị GDP của các khu vực kinh tế (giá so sánh 1994)
Bảng 3.3: Dự báo giá trị sản xuất công nghiệp
80
80
81
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển khu công nghiệp là một giải pháp quan trọng nhằm thu hút
vốn đầu tư thúc đẩy công nghiệp phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu,
đồng thời tạo điều kiện bảo vệ môi trường sinh thái bảo đảm phát triển bền
vững. Ở nước ta, năm 1991, Đảng và Nhà nước có chủ trương triển khai thí
điểm việc thực hiện giải pháp quan trọng này. Từ đó đến nay, cả nước đã có
gần 200 tr¨m khu c«ng nghiÖp víi c¸c quy m«, lo¹i h×nh được phân bổ hầu
khắp các tỉnh, thành phố. Sự phát triển các khu công nghiệp đã góp phÇn to
lín vµo viÖc thùc hiÖn c¸c môc tiªu kinh tÕ - x· héi của đất nước. Các khu
công nghiệp trở thành điểm thu hút các nguồn đầu tư nước ngoài, đón nhận
các tiến bộ khoa học kỹ thuật và tạo ra những nhân tố quan trọng thúc đẩy
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Hải Dương là tỉnh mới được tái lập từ 1/1/1997, thuộc một trong tám
tỉnh của vùng kinh tế trọng điểm ở đồng bằng Bắc bộ với hệ thống giao thông
thủy, bộ, đường sắt thuận lợi. Hải Dương trở thành địa bàn cung cấp hàng hóa
quan trọng đồng thời tham gia trung chuyển hàng hóa giữa hệ thống cảng biển
với các tỉnh và thành phố lớn ở phía Bắc. Trong tương lai, Hải Dương lµ träng
®iÓm thu hút, phát triển công nghiệp, du lịch thương mại và trở thành một
trong các đô thị lớn trong vùng. Trong xu thế phát triển chung của cả nước,
tỉnh Hải Dương đã có 10 khu công nghiệp với diện tích 2.087 ha. Sự phát
triển khu công nghiệp ở Hải Dương trong thời gian qua đã góp phần quan
trọng vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, giải quyết việc
làm, tăng thu nhập cho người lao động, thu hút vốn và công nghệ hiện đại,
kinh nghiệm quản lý tiến bộ của nhiều nước trên thế giới. Đồng thời, sự phát
triển khu công nghiệp đã tạo điều kiện cho sự ra đời các khu đô thị, nâng cao
chất lượng đời sống dân cư. Tuy nhiên, trong 17 năm qua, sự phát triển các
khu công nghiệp ë tỉnh Hải Dương đã bộc lộ những bất cập trong giải quyết
2
vấn đề môi trường sinh thái, việc làm, thu nhập của người dân mất đất, sự quá
tải của hệ thống kết cấu hạ tầng... Những bất cập đó đang là lực cản cho việc
phát huy vai trò của các khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
trên địa bàn, gây ra những bức xúc trong xã hội.
Nhằm góp phần vào giải quyết những bức xúc này, tôi chọn đề tài
“Khu công nghiệp với sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hải Dương” ®Ó
nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành kinh tế chính trị. Việc nghiên
cứu này vừa có ý nghĩa về mặt lý luận vừa có ý nghĩa thực tiễn cấp bách
không chỉ đối với tỉnh Hải Dương mà còn đối với cả nước.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Kể từ khi Đảng, Nhà nước ta có chủ trương xây dựng và phát triển
các khu công nghiệp đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề
này, tiêu biểu là:
- Bộ kế hoạch và đầu tư (2002) “Kinh nghiệm thế giới về phát triển
khu công nghiệp, khu chế xuất và đặc khu kinh tế”;
- Nguyễn Mạnh Đức, Lê Quang Anh (1998) “Hướng dẫn đầu tư vào
các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao ở Việt Nam”, Nxb
Thống kê;
- Vũ Huy Hoàng (2002) “Tổng quan về hoạt động của các khu công
nghiệp”, Kỷ yếu khu công nghiệp, khu chế xuất Việt Nam, Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh;
- Trương Thị Minh Sâm (2004) “Các giải pháp nhằm nâng cao vai
trò và hiệu quả quản lý nhà nước, bảo vệ môi trường ở các khu công nghiệp,
khu chế xuất” , Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội;
- Trần Văn Tùng (2005) “Ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường ở một
số khu công nghiệp phía Bắc tới sức khỏe cộng đồng”, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
3
- Nguyễn Chơn Trung, Trương Quang Long (2004) “Phát triển các
khu công nghiệp, khu chế xuất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Một số đề tài dưới dạng luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ nghiên cứu
vấn đề này như:
- Lê Hồng Yến (1996), “Hoàn thiện chính sách cơ chế quản lý nhà
nước đối cới các khu công nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay (qua
thực tiễn khu công nghiệp các tỉnh phía Bắc)”, Luận án tiến sĩ tại trường Đại
học Thương mại;
- Nguyễn Xuân Hinh (2003), “Quy hoạch xây dựng và phát triển khu
công nghiệp Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”, Luận án tiến sĩ kinh tế tại
trường Đại học Kinh tế quốc dân;
- Trần Văn Phùng (2007), “Nâng cao hiệu quả kinh tế – xã hội các
khu công nghiệp Miền Nam”, Luận án tiến sĩ kinh tế tại Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh;
- Nguyễn Duy Cường (2006), “Hiệu quả kinh tế - xã hội của các khu
công nghiệp ở Thành phố Hà Nội”, Luận văn thạc sĩ kinh tế tại Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh;
- Lê Công Đồng (2005), “Thu nhập của người lao động ở khu công
nghiệp Tân Bình – Quận Tân Phú, TP Hồ Chí Minh”, Luận văn thạc sĩ kinh tế
tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Phạm Xuân Đức (2006) “Cung cầu nhà ở cho công nhân các khu
công nghiệp ở Hà Nội hiện nay”, Luận văn thạc sĩ kinh tế tại Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh;
- Bùi Vĩnh Kiên (2002), “Một số giải pháp đẩy mạnh phát triển các
khu công nghiệp ở Bắc Ninh”, Luận văn thạc sĩ kinh tế tại trường Đại học
kinh tế quốc dân.
- Nguyễn Văn Thành (2006), "Thu hút đầu tư vào các khu công
nghiệp ở Nghệ An hiện nay”, Luận văn thạc sĩ kinh tế tại Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh;
4
- Hà Thị Thúy (2007), “Các khu công nghiệp với sự phát triển kinh tế
- xã hội ở Bắc Giang”, Luận văn thạc sĩ kinh tế tại Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, các nghiên cứu đó tập trung vào những vấn đề chung trên
phạm vi tổng thể cả nước hoặc trên địa bàn một vùng, một tỉnh khác, trong đó
chủ yếu nghiên cứu dưới góc độ quản lý kinh tế, kinh tế phát triển và có một
số đề tài nghiên cứu kinh tế chính trị nhưng lại trên địa bàn tỉnh khác. Đến
nay, ở Hải Dương chưa có một công trình khoa học nào dưới góc độ kinh tế
chính trị nghiên cứu về tác động của khu công nghiệp với sự phát triển kinh tế
- xã hội của địa phương. Đề tài mà học viên lựa chọn nghiên cứu không trùng
hợp với các công trình khoa học đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích: Đánh giá tác động cña khu công nghiệp (bao gồm các
khu công nghiệp, khu chế xuất và cụm công nghiệp) đối với quá trình phát
triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hải Dương để đề xuất phương hướng và giải pháp
nhằm phát huy mặt tích cực và ngăn ngừa hạn chế những tiêu cực có thể xảy ra.
- Nhiệm vụ:
+ Hệ thống hóa cơ sở lý luận, thực tiễn về tác động của các khu công
nghiệp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn một tỉnh ở nước ta.
+ Đánh giá thực trạng tác động của các khu công nghiệp đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hải Dương.
+ Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm phát huy tốt mặt tích cực
và ngăn ngừa, hạn chế những tác động tiêu cực có thể xảy ra trong quá trình
phát triển các khu công nghiệp này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Vai trò của các khu công nghiệp (gồm khu
công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp) đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội, trong đó chủ yếu nghiên cứu và phân tích tác động tiêu cực trong quá
trình phát triển các khu công nghiệp này.
5
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: địa bàn tỉnh Hải Dương.
+ Về thời gian: từ khi triển khai xây dựng và phát triển các khu công
nghiệp ở nước ta đến nay (1991 – 2008).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp luận
- Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đổi mới của Đảng
Cộng sản Việt Nam và những lý thuyết về công nghiệp hóa và đầu tư trong
nền kinh tế thị trường.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp nghiên
cứu của kinh tế chính trị học, trong đó coi trọng phương pháp phân tích, tổng
hợp, so sánh, thống kê từ tư liệu thực tiễn.
6. Những đóng góp khoa học của luận văn
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về tác động của các khu công nghiệp đối
với quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
- Phân tích đánh giá thực trạng tác động của các khu công nghiệp đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Hải Dương từ năm 1991 đến nay.
Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực, khắc phục ngăn
ngừa những tiêu cực trong quá trình phát triển hình thức tổ chức kinh tế này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu thành 3 chương, 7 tiết.
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA
CÁC KHU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1. KHU CÔNG NGHIỆP VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1.1. Khu công nghiệp
Vào những năm cuối thế kỉ XIX, KCN đã được hình thành ở một số
nước tư bản phát triển. Năm 1896, xuất hiện KCN đầu tiên ở Traffort Park
thành phố Manchester nước Anh. Sau đó, KCN lần lượt được thành lập ở các
nước khác như Mỹ năm 1899, Italia năm 1904; và kể từ những năm 50 thế kỷ
XX thì KCN thực sự bùng nổ, trở thành phổ biến ở các nước. Trong quá trình
phát triển đó, KCN đã đem lại nhiều lợi ích thiết thực nên nó được coi là một
công cụ để phát triển kinh tế.
Ngày nay, KCN xuất hiện ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Mặc dù
thuật ngữ KCN được sử dụng khá phổ biến nhưng bản thân nó lại bao hàm
nhiều hình thức tổ chức và tính chất hoạt động khác nhau.
Theo nghĩa thông thường, KCN là khu vực có tính chất độc lập tập trung
nhiều doanh nghiệp sản xuất công nghiệp. Các KCN ra đời là kết quả của việc
xây dựng các doanh nghiệp công nghiệp riêng rẽ. Xen lẫn với các doanh nghiệp
công nghiệp là khu dân cư hoặc các cơ quan hành chính sự nghiệp các doanh
nghiệp thuộc ngành khác… nghĩa là KCN chuyên sản xuất hàng dành cho xuất
khẩu. Ở đó, chính quyền đã áp dụng nhiều chính sách ưu đãi như miễn thuế
(thuế xuất - nhập khẩu, thuế thu nhập cá nhân, thuế tài sản…) và tự do mua bán.
Tuy nhiên, đến nay ở các nước khác nhau có những quan niệm khác
nhau về KCN. Có quan niệm cho rằng, KCN là một vùng đất được phân chia
và phát triển có hệ thống theo một kế hoạch tổng thể nhằm cung cấp địa điểm
cho các ngành công nghiệp tương hợp với hạ tầng cơ sở, các tiện ích công
cộng, các dịch vụ phục vụ và hỗ trợ [14, tr.15].
7
Ở Thái Lan và Philippin, KCN được quan niệm như một thành phố công
nghiệp và thực tế nó là một cộng đồng tự túc và độc lập. Ngoài việc cung cấp kết
cấu hạ tầng, các tiện nghi, tiện ích công cộng hoàn chỉnh và xử lý chất thải, KCN
cũng bao gồm khu thương mại, dịch vụ ngân hàng, trường học, bệnh viện, các
khu vui chơi giải trí, khu nhà ở cho công nhân… Các KCN ở Thái Lan và
Inđônêxia thường có 3 bộ phận chủ yếu: khu sản xuất hàng tiêu thụ nội địa, khu
sản xuất hàng xuất khẩu và khu thương mại dịch vụ.
Có quan niệm lại cho rằng, KCN là một khu vực phụ, không nhất thiết
phải có sự ngăn cách, biệt lập bởi trên thực tế có nhiều tập đoàn và tổ hợp
công nghiệp với một chuỗi đồ sộ các xí nghiệp, nhà máy liên kết với nhau
trên một khu vực rộng lớn. Việc bố trí mặt bằng các khu sản xuất trên quy mô
lớn như vậy hình thành một loại hình tổ chức mới của KCN mà không nhất
thiết phải có quy mô đặc thù [27, tr.30-31, 33].
Theo quan điểm của Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc
(UNIDO) trong tài liệu KCX ở các nước đang phát triển công bố năm 1990,
thì KCN là khu vực tương đối nhỏ, phân cách về mặt địa lý trong một quốc
gia nhằm mục tiêu thu hút đầu tư vào các ngành công nghiệp hướng về xuất
khẩu bằng cách cung cấp cho các ngành công nghiệp này những điều kiện về
đầu tư mậu dịch thuận lợi đặc biệt so với phần lãnh thổ còn lại của nước chủ
nhà. Trong đó đặc biệt là KCX cho phép nhập khẩu hàng hoá dùng cho sản
xuất để xuất khẩu miễn thuế [44, tr.18].
Theo quan điểm của Hiệp hội thế giới về KCX (World Expot
Processing Zone Association – WEPZA) thì KCX là tất cả các khu vực được
chính phủ các nước cho phép thành lập và hoạt động như Cảng tự do, Khu
mậu dịch tự do, KCN tự do hay bất kỳ khu vực ngoại thương hoặc khu vục
khác được tổ chức này công nhận. Thực tế cho thấy, do nhu cầu phát triển của
thương mại và đầu tư quốc tế ngày càng được mở rộng xuất phát từ yêu cầu
bức thiết của quá trình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu của các nước
8
đang phát triển nên khái niệm trên đã được bổ sung thành những quan niệm mới
như Khu kinh tế mở, Đặc khu kinh tế, Thành phố mở…[44, tr.8].
Quan niệm của Hiệp hội thế giới về KCX rất rộng đòi hỏi chính sách
quản lý có độ linh hoạt cao và mức độ tự do hoá khá lớn.
Tuy những quan niệm trên có một số khác nhau về nội hàm KCN,
KCX, song về cơ bản đều thống nhất ở những đặc trưng sau:
Một là, KCN là nơi hội tụ và thích ứng với nhau về mặt lợi ích và mục
tiêu xác định giữa chủ đầu tư và nước chủ nhà. KCN là nơi có môi trường
kinh doanh đặc biệt phù hợp, được hưởng những quy chế tự do, các chính sách
ưu đãi kinh tế (đặc biệt là thuế quan) so với các vùng khác ở nội địa. Chúng là
nơi có vị trí thuận lợi cho việc phát triển sản xuất, thương mại, dịch vụ đầu tư
trên cơ sở chính sách ưu đãi về kết cấu hạ tầng, cơ chế pháp lý, thủ tục hải quan,
thủ tục hành chính, chính sách tài chính tiền tệ, môi trường đầu tư…
Hai là, KCN là bộ phận không thể thiếu và không thể tách rời trong sự
phát triển kinh tế của một quốc gia. Nó thường là những khu vực có vị trí địa
lý riêng biệt thích hợp, có hàng rào xung quanh, giới hạn với các vùng lãnh
thổ còn lại của nước sở tại và được chính phủ nước đó cho phép hoặc rút phép
xây dựng và phát triển.
Ba là, KCN là nơi thực hiện mục tiêu hàng đầu về ưu tiên chính sách
hướng ngoại, thu hút chủ yếu vốn đầu tư nước ngoài vào phát triển các loại
hình sản xuất kinh doanh phục vụ xuất khẩu. Đây là mô hình thu nhỏ về chính
sách KT - XH mở cửa của một nước.
Ở Việt Nam, khái niệm về KCN được ghi trong Nghị định 192/CP ngày
15/12/1994 của Chính phủ về quy chế KCN. Các KCN được định nghĩa là
khu vực công nghiệp tập trung, được thành lập do quyết định của Chính phủ
với các ranh giới được xác định, cung ứng các dịch vụ hỗ trợ sản xuất và
không có dân cư.
Theo Điều 2 - Nghị định 36/CP của Chính phủ ban hành về: “Quy chế
hoạt động của các KCN, KCX, KCNC” thì khái niệm về KCN được giải thích
9
như sau: KCN là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp chuyên sản
xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có
ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ
tướng Chính phủ quyết định thành lập.
KCX là KCN tập trung các doanh nghiệp chế xuất chuyên sản xuất
hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu. Những doanh nghiệp này được
hưởng những ưu đãi đặc biệt về thuế quan, miễn thuế đối với tất cả các hàng
hoá xuất nhập khẩu. Sản phẩm của các doanh nghiệp này chỉ được phép xuất
khẩu chứ không được tiêu thụ trên thị trường nội địa. Trong trường hợp bán
trên thị trường nội địa thì sẽ phải chịu thuế nhập khẩu như đối với những hàng
hoá nhập khẩu thông thường.
KCNC là KCN tập trung những doanh nghiệp công nghiệp kỹ thuật cao
và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao, bao gồm
nghiên cứu triển khai khoa học và công nghệ, đào tạo và các dịch vụ có liên
quan, có ranh giới xác định, do chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết
định thành lập. Trong KCN cao có thể có doanh nghiệp chế xuất.
Doanh nghiệp chế xuất là doanh nghiệp chuyên sản xuất và chế biến
hàng xuất khẩu, được thành lập và hoạt động theo quy chế này.
Doanh nghiệp KCN là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động trong
KCN, gồm doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp dịch vụ.
Doanh nghiệp sản xuất KCN là doanh nghiệp sản xuất hàng công
nghiệp được thành lập và hoạt động trong KCN.
Doanh nghiệp dịch vụ KCN là doanh nghiệp được thành lập và hoạt
động trong KCN, thực hiện dịch vụ và các công trình kết cấu hạ tầng KCN,
dịch vụ sản xuất công nghiệp.
Có thể thấy rằng KCN là những địa bàn sản xuất công nghiệp gồm
nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ, không có dân cư sinh sống, có ranh giới pháp
lý riêng, có ban quản lý riêng do Chính phủ thành lập. Về kết cấu hạ tầng,
10
KCN được cung cấp đầy đủ các yếu tố hạ tầng kỹ thuật hiện đại, đạt các tiêu
chuẩn quy định phục vụ trực tiếp cho hoạt động các doanh nghiệp công
nghiệp. Về cơ cấu ngành, trong KCN có cả các ngành truyền thống mà trong
nước có lợi thế so sánh và cả các ngành công nghiệp mới như điện tử, công
nghệ thông tin, công nghệ lắp ráp v.v..
So với KCX, KCN thường có phạm vi hoạt động rộng hơn. Nó không
chỉ bao gồm các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá và dịch vụ cho xuất khẩu
mà còn mở ra cho tất cả các ngành công nghiệp bao gồm cả sản xuất hàng
xuất khẩu và tiêu thụ trong nước.
Các doanh nghiệp 100% vốn trong nước có thể được vào hoạt động tại
KCN, khác với KCX chỉ liên kết với các công ty có vốn nước ngoài. Các ưu
đãi từ phía Chính phủ cũng được thực hiện đối với doanh nghiệp trong KCN
chú trọng tới việc sản xuất hàng xuất khẩu, do đó những doanh nghiệp này sẽ
được hưởng chế độ ưu đãi như trong KCX và cũng sẽ được hưởng ưu đãi như
trong KCN. KCX là khu vực thu hút các dự án đầu tư nước ngoài để xuất
khẩu. Quan hệ giữa các doanh nghiệp chế xuất với thị trường nội địa là quan
hệ ngoại thương cũng giống như quan hệ giữa thị trường trong nước và thị
trường nước ngoài. KCX là khu thương mại tự do, bởi vì hàng hoá từ KCX ra
nước ngoài và từ nước ngoài vào KCX không phải chịu thuế xuất nhập khẩu
và ít bị ràng buộc bởi hàng rào phi thuế quan. Còn quan hệ giữa các doanh
nghiệp KCN với thị trường nội địa là quan hệ nội thương (trừ doanh nghiệp
chế xuất trong KCN được hưởng ưu đãi như doanh nghiệp trong KCX). KCN
không phải là khu thương mại tự do mà là khu sản xuất tập trung.
Về điều kiện ưu đãi, doanh nghiệp KCX được hưởng thuế thu nhập
10%, miễn thuế trong 4 năm đầu đối với doanh nghiệp sản xuất, nộp 15% và
miễn 2 năm đối với doanh nghiệp dịch vụ; còn doanh nghiệp KCN nộp thuế
thu nhập doanh nghiệp 15% đối với doanh nghiệp xuất khẩu dưới 50% sản
phẩm trong 2 năm, 10% đối với doanh nghiệp xuất khẩu trên 80% sản phẩm
và trong 2 năm.
11
Đối với nước sở tại, thì KCX có nhiều mặt lợi hơn so với KCN. Điều
này có thể được lý giải bởi các lý do sau đây:
- Doanh nghiệp chế xuất không được trực tiếp sử dụng thị trường nội
địa nên nhìn chung là không cạnh tranh với sản xuất trong nước.
- Nhà nước không lo cân đối ngoại tệ cho doanh nghiệp mà ngược lại,
nguồn ngoại tệ của xã hội lại được tăng lên nhanh chóng nhờ hoạt động của KCX.
- Thúc đẩy việc mở cửa thị trường nội địa nhanh hơn, phù hợp với chủ
trương xây dựng nền kinh tế mở hướng mạnh về xuất khẩu.
Tuy nhiên, những gì được coi là có lợi cho nước sở tại thì ngược lại là
bất lợi đối với nhà đầu tư. Để có thể xuất khẩu được 100% sản phẩm, việc tổ
chức sản xuất phải đạt chất lượng cao, đồng đều, giá hợp lý, phù hợp với điều
kiện cạnh tranh của thị trường quốc tế. Do các bất lợi trên mà các nhà đầu tư
nước ngoài thường quan tâm đến hình thức KCN, nhằm tận dụng lợi thế về thị
trường nội địa. Điều này nghĩa là việc xây dựng thành công các KCX thường
gặp khó khăn hơn là KCN. Việc các nhà đầu tư nước ngoài coi trọng mô hình
KCN là có căn nguyên riêng của nó, nhưng cần phải thấy được một vấn đề là
nếu một quốc gia có quá nhiều KCN hoạt động sẽ có hàng nghìn doanh
nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng chủ yếu do nước ngoài đầu tư. Điều này sẽ tạo
ra hiện tượng cạnh tranh gay gắt không cần thiết trên thị trường nội địa.
Để khuyến khích đầu tư vào KCX, cần rà soát lại toàn bộ hệ thống
chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước theo tinh thần khuyến khích mạnh hơn,
ưu đãi nhiều hơn cho KCX, làm cho nó có sức hấp dẫn cao hơn đối với các
nhà đầu tư so với KCN. Việc xây dựng kết cấu hạ tầng của các KCN và KCX
là không ít khó khăn, nhưng việc kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn
này là khó khăn hơn nhiều. Chất lượng của một KCX hay KCN phụ thuộc
nhiều vào chất lượng của các dự án đã thu hút được.
Như vậy KCN và KCX có những đặc điểm khác nhau xuất phát từ sự
khác nhau về mục đích, đối tượng tham gia hay mối liên kết của chúng đối
12
với nền kinh tế. KCN thường được nhận một sự ưu tiên nhất định từ phía
chính quyền địa phương và Chính phủ với vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế
vùng (địa phương), KCN bao gồm những doanh nghiệp trong nước và doanh
nghiệp nước ngoài. KCX cũng được xác định là KCN nhưng tập trung những
doanh nghiệp chuyên sản xuất chế biến các hàng xuất khẩu, được sự ưu tiên
đặc biệt của Chính phủ, có vai trò then chốt trong việc chuyển từ nền kinh tế
khép kín sang nền kinh tế mở.
Từ Nghị định 36/CP cho thấy KCN là một khái niệm động gắn liền với điều
kiện cụ thể nơi nó hình thành. Các tiêu chí để hình thành một KCN bao gồm:
Thứ nhất, KCN là nơi tập trung các doanh nghiệp có đủ cơ sở pháp lý, chuyên
sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp.
Thứ hai, KCN là khu vực có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư
sinh sống, xây dựng theo quy hoạch tổng thể đã được chính phủ phê duyệt.
Thứ ba, KCN phải do chính phủ hoặc do Thủ tướng chính phủ quyết
định thành lập. Khi muốn hình thành KCN đã có trong quy hoạch tổng thể,
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương sẽ chỉ đạo việc lập báo cáo
nghiên cứu khả thi thành lập KCN và trình Thủ tướng chính phủ xem xét để
quyết định thành lập.
Thứ tư, trong KCN có thể có doanh nghiệp chế xuất. Đó là các doanh
nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ chuyên cho sản
xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu.
Tuy vậy, có thể coi khái niệm mà chúng ta sử dụng là khái niệm hẹp và
chỉ quan tâm chủ yếu đến phần diện tích dành cho việc xây dựng kết cấu hạ
tầng để cho thuê, còn việc xây dựng các công trình phúc lợi xã hội không nằm
trong phạm vi quy định. Quan niệm này dẫn đến một thực tế là khi xây dựng
KCN, người ta không quan tâm đến tính đồng bộ của nó theo nghĩa rộng nên
ảnh hưởng lớn đến hiệu quả KT - XH của KCN. Cho nên việc quy hoạch phát
triển sản xuất nhất thiết phải đi kèm quy hoạch phát triển hạ tầng xã hội.
13
Hiện nay ở nước ta đã xuất hiện hàng trăm các KCN vừa và nhỏ do
Trung ương thành lập và các cụm CN ở các địa phương của chính quyền địa
phương (cấp tỉnh, thành phố). Mặc dù có một số đặc điểm đặc thù như quy
mô thường nhỏ hơn, ảnh hưởng thường hẹp hơn nhưng về bản chất không có
sự khác biệt so với các KCN của Trung ương. Trong đề tài, khái niệm KCN
được hiểu bao gồm cả KCN do Trung ương thành lập, quản lý và cả các cụm
CN do chính quyền địa phương thành lập.
Nói tóm lại, sự ra đời của các KCN nhằm mục đích cung cấp các điều
kiện về kết cấu hạ tầng tốt nhất cho việc xây dựng và vận hành của các cơ sở
sản xuất công nghiệp đặc biệt là hỗ trợ các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư
vào nước sở tại sẽ có được đầy đủ điều kiện mặt bằng, đường sá, hệ thống
cung cấp điện, nước, hệ thống xử lý nước thải… để sản xuất kinh doanh mang
lại lợi ích cho cả hai phía.
1.1.2. Tác động của khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế xã hội
KCN ở Việt Nam ra đời cùng với chính sách đổi mới mở cửa do Đại
hội Đảng lần thứ VI khởi xướng. Hoạt động của các KCN trong thời gian qua
đã đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của
đất nước. Đối với những nước thuần nông như Việt Nam thì việc phát triển
KCN trước hết tạo tiền đề cho đô thị hoá nông thôn, tạo bước chuyển dịch cơ
cấu kinh tế mới theo hướng phát triển công nghiệp, giải quyết việc làm cho
lao động khu vực nông thôn. KCN cũng chính là cầu nối giữa nước ta với thế
giới bên ngoài, đóng vai trò tiên phong trong việc chuyển từ nền kinh tế khép
kín sang nền kinh tế mở cửa.
Tuy nhiên, sự phát triển của KCN trong thời gian qua cũng đang phá vỡ
kết cấu xã hội nông thôn truyền thống, bộc lộ những bất cập trong giải quyết
vấn đề môi trường sinh thái, việc làm và thu nhập của người dân mất đất, sự
quá tải của hệ thống kết cấu hạ tầng…
14
1.1.2.1. Những tác động tích cực của các khu công nghiệp đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay
Việt Nam đang trong giai đoạn đẩy mạnh việc thực hiện công cuộc
CNH, HĐH nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho
CNXH. CNH, HĐH được xác định là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ
quá độ lên CNXH. Quá trình CNH, HĐH được thực hiện trên cơ sở giải
phóng sức sản xuất trong nước phát huy cao độ các nguồn lực trong nước
đồng thời tìm cách thu hút nguồn lực từ bên ngoài. Nguồn lực trong nước và
nguồn lực từ bên ngoài có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nguồn lực trong nước
được khai thác có hiệu quả sẽ tạo điều kiện thu hút, sử dụng tốt hơn nguồn lực từ
bên ngoài. Ngược lại, việc thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực từ bên
ngoài sẽ kích thích việc huy động nguồn lực trong nước, đồng thời tạo điều kiện
để các nguồn lực này được sử dụng với hiệu suất cao hơn.
Việc phát triển các KCN, KCX, KCN cao có ý nghĩa quan trọng nhằm tạo
ra những điều kiện, thể chế, môi trường thuận lợi cho quá trình thu hút, sử dụng
nguồn lực từ bên ngoài như vốn đầu tư, công nghệ tiên tiến, phương thức quản
lý hiện đại, trên cơ sở đó đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH.
Việc phát triển KCN có những tác động tích cực sau:
Một là, KCN là một địa điểm quan trọng để thu hút vốn đầu tư, đặc
biệt là đầu tư nước ngoài, tập trung các doanh nghiệp công nghiệp vào một
khu vực địa lý.
Do có kết cấu hạ tầng hiện đại hơn và cơ chế quản lý thông thoáng hơn
so với bên ngoài nên KCN là trở thành một địa điểm để tập trung các doanh
nghiệp sản xuất, chế biến công nghiệp, thu hút vốn đầu tư nước ngoài và
trong nước. Qua đó, tạo cơ hội đưa nhanh kỹ thuật mới vào sản xuất, thúc đẩy
tiến bộ khoa học và công nghệ; xây dựng các ngành công nghiệp mũi nhọn,
nâng cao vị trí chủ đạo của công nghiệp trong nền kinh tế, bảo đảm tốc độ
tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Trong điều kiện kết cấu hạ tầng của
15
nền kinh tế còn thấp kém đầu tư chưa hoàn thiện thì việc xây dựng, phát triển
KCN là phương thức phù hợp nhằm tập trung đầu tư cho một số khu vực có ưu
thế hơn, giảm một cách đáng kể chi phí về vốn và khó khăn cho nhà đầu tư.
KCN với những ưu đãi đặc biệt về thủ tục hành chính, cơ chế quản lý,
tài chính, thuế quan... so với sản xuất ở bên ngoài, nên nó trở thành môi
trường hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, thu hút được nguồn vốn đầu tư cả
trong và ngoài nước. Kết cấu hạ tầng trong KCN sẵn có và những chính sách
ưu đãi cùng với cơ chế quản lý đặc biệt, thủ tục đầu tư ngày càng đơn giản,
thuận tiện hơn so với bên ngoài KCN sẽ giúp nhà đầu tư nhanh chóng triển
khai dự án, tránh bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Hơn nữa, trong nền kinh tế thị
trường, các doanh nghiệp tìm mọi cách tối thiểu hoá chi phí để đạt được giá
thành rẻ nhất. KCN là địa bàn mà doanh nghiệp có thể thực hiện được điều
đó. KCN được xây dựng tập trung theo chiều dọc, là nơi có nhiều đất trống,
gần cảng, giao thông thuận lợi cho xe trọng tải lớn ra vào, có mạng lưới điện
để cho nhà đầu tư có thể xây dựng và vận hành các nhà máy. KCN còn được
trang bị kết cấu hạ tầng đầy đủ nên khi đầu tư vào thì các nhà đầu tư sản xuất
sẽ giảm được rất nhiều chi phí như chi phí mua đất xây dựng nhà máy với giá
cao, chi phí xây dựng hệ thống đường dây tải điện, đường giao thông vận tải
vào nhà máy, thiết lập hệ thống thông tin liên lạc... Việc bố trí các nhà máy
theo chiều dọc (sản phẩm của nhà máy này là nguyên liệu của nhà máy khác)
và tập trung vào một khu vực nên các doanh nghiệp dễ dàng giải quyết đầu
vào và đầu ra với chi phí thấp nhất. Do đó, các doanh nghiệp KCN có điều
kiện thuận lợi hơn để đạt mục tiêu lợi nhuận các doanh nghiệp bên ngoài
KCN nên KCN thường hấp dẫn nhà đầu tư.
Thực tế ở nước ta cho thấy, KCN có vai trò tích cực vào việc thu hút
vốn đầu tư đặc biệt là vốn FDI. Số dự án đầu tư cả trong và ngoài nước vào
các KCN chiếm một tỷ trọng khá lớn. Sự gia tăng vốn đầu tư vào các KCN
góp phần quan trọng vào việc tăng tổng vốn đầu tư của toàn xã hội, đóng góp
16
trực tiếp vào việc tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế. Mặt
khác còn tác động, kích thích tăng đầu tư mới ở các doanh nghiệp ngoài
KCN. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, riêng năm 2008, các KCN trên cả nước
đã thu hút được gần 9,4 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài, trong đó có 271 dự án
mới với tổng số vốn đầu tư đăng ký đạt gần 7,5 tỷ USD và 236 lượt dự án
tăng vốn với số vốn tăng thêm đạt trên 1,6 tỷ USD
Tính đến nay, các KCN cả nước đã thu hút được 3325 dự án có vốn đầu
tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư gần 39.3 tỷ USD.
Tỷ lệ lấp đầy diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê của các KCN trên
cả nước đạt gần 50%, riêng các KCN đã vận hành đạt tỷ lệ lấp đầy gần 74% [49].
Bên cạnh đó, việc tập trung các doanh nghiệp vào một khu vực địa lý
hình thành KCN tập trung là một vấn đề không kém phần quan trọng bởi
trong KCN tập trung, các doanh nghiệp dùng chung công trình hạ tầng nên
giảm được chi phí trên một đơn vị diện tích và đơn vị sản phẩm, thực hiện
phát triển công nghiệp theo một quy hoạch thống nhất, kết hợp giữa quy
hoạch ngành với quy hoạch lãnh thổ. Hơn nữa, việc tập trung các doanh
nghiệp trong KCN tạo điều kiện dễ dàng hơn trong việc xử lý chất thải công
nghiệp, bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Các
doanh nghiệp công nghiệp có điều kiện thuận lợi hợp tác với nhau trong đổi
mới công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh.
Hai là, tạo việc làm và thu nhập.
Sự hình thành và phát triển KCN không chỉ thu hút lao động vào các
doanh nghiệp bên trong mà còn kích thích các hoạt động dịch vụ phát triển và
thu hút vào các hoạt động này một số lớn lao động khác.Việc xây dựng KCN
sản xuất cũng như các dịch vụ hỗ trợ bên ngoài KCN đã giải quyết được một
số lượng lao động khá lớn... Số lao động này được tiếp xúc với công nghệ sản
xuất hiện đại, phương thức quản lý tiên tiến. Đây là điều kiện quan trọng để
xây dựng đội ngũ lao động có kỷ luật, có kỹ năng và có năng suất lao động
cao đáp ứng nhu cầu của công cuộc CNH, HĐH đất nước. Hơn nữa, để đáp
- Xem thêm -