Đăng ký Đăng nhập

Tài liệu Khóa luận(đ)

.DOCX
68
395
140

Mô tả:

HOẠT ĐỘNG KINH TẾ VÀ VAI TRÒ CỦA NGƯỜI HOA TRONG NỀN KINH TẾ THÁI LAN (THẾ KỈ XVII-ĐẦU THẾ KỈ XX)
MỤC LỤC MỞ ĐẦU..........................................................................................................1 1. Lý do chọn đề tài.........................................................................................1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề..........................................................................4 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..............................................................6 4. Nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................................8 5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................8 6. Đóng góp của đề tài.....................................................................................8 7. Cấu trúc của Khóa luận..............................................................................9 NỘI DUNG.....................................................................................................10 CHƯƠNG 1: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CỘNG ĐỒNG NGƯỜI HOA Ở THÁI LAN (THẾ KỈ XVII – ĐẦU THẾ KỈ XX)...................................10 1.1. Khái niệm người Hoa ở Thái Lan.........................................................10 1.2. Nguyên nhân và điều kiện di cư của người Hoa đến Thái Lan..........12 1.2.1. Nguyên nhân di cư...............................................................................12 1.2.3. Điều kiện di cư......................................................................................18 1.3. Quá trình di cư và sự hình thành cộng đồng người Hoa ở Thái Lan ( Từ thế kỉ XVII- đầu thế kỉ XX)....................................................................23 1.3.1. Trước thế kỉ XVII.................................................................................23 1.3.2. Từ thế kỉ XVII đến đầu thế kỷ XX.......................................................26 CHƯƠNG 2: HOẠT ĐỘNG KINH TẾ VÀ VAI TRÒ CỦA NGƯỜI HOA TRONG NỀN KINH TẾ Ở THÁI LAN (THẾ KỈ XVII – ĐẦU THẾ KỈ XX)..................................................................................................................34 2.1 Hoạt động kinh tế của người Hoa (thế kỉ XVII – đầu thế kỉ XX).......34 2.1.1. Trong lĩnh vực thương mại....................................................................34 2.1.2. Trong lĩnh vực ngân hàng – tài chính.................................................41 2.1.3. Trong lĩnh vực công nghiệp và vận chuyển........................................43 2.2. Vai trò của người Hoa trong nền kinh tế Thái Lan (thế kỉ XVII – đầu thế kỉ XX)........................................................................................................47 2.2.1. Thúc đẩy sự phát triển công nghiệp, mở rộng quan hệ giao lưu buôn bán...................................................................................................................47 2.2.2. Thúc đẩy các hoạt động tiếp xúc thương mại với phương Tây..........49 2.2.3. Tạo tiền đề cho sự hình thành các nhân tố kinh tế tư bản chủ nghĩa.......50 2.2.4. Tạo ra tầng lớp quý tộc, tư sản Thái gốc Hoa và cung cấp nguồn lao động cho nền kinh tế Thái Lan......................................................................56 KẾT LUẬN....................................................................................................59 TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................63 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trung Quốc là một quốc gia có lịch sử và truyền thống lâu đời. Nền văn hóa Trung Quốc đa dạng, phong phú và có ảnh hưởng sâu rộng tới nhiều quốc gia, khu vực trên thế giới. Trong quá trình phát triển, người Trung Quốc đã không ngừng tiến hành chinh phục nhiều vùng lãnh thổ, đẩy mạnh hoạt động kinh tế của mình ra nhiều khu vực, trong đó có khu vực Đông Nam Á. Đông Nam Á từ xưa vốn được biết đến là một khu vực có vị trí địa lý đặc biệt, tiếp giáp với nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á, nên người Trung Hoa đã sớm biết đến vùng đất này. Do đó, vị trí địa lý là một trong những nguyên nhân khiến người Hoa đến khu vực này khá sớm. Số lượng người Hoa trải rộng trên khắp thế giới, giữa thế kỉ XIX, số lượng người Hoa trên Thế giới ước tính 500.000 người, đầu thế kỉ XX (1902), đã tăng lên 7 triệu người, đến cuối thế kỉ XX tiếp tục tăng và vượt quá con số 30 triệu người và đến năm 2006 tăng lên đến gần 63 triệu người phân bố ở 5 châu lục, trong đó Châu Á chiếm 83,7%, đứng đầu danh sách [10;46]. Thái Lan là một đất nước nằm trong khu vực Đông Nam Á, quốc gia rộng lớn này được người dân Thái mô tả có dáng như đầu một con voi và trong quan niệm có tính truyền thống của người Thái thì voi là biểu tượng cho sự tốt lành, may mắn. Cũng như các quốc gia khác thuộc khu vực Đông Nam Á, Thái Lan cũng là một quốc gia đa tộc với dân tộc chủ thể là người Thái, kế đến là người Hoa và các dân tộc khác. Trong lịch sử phát triển của Thái Lan, việc xuất hiện, hình thành và phát triển của cộng đồng người Hoa là một vấn đề không tách rời. Người Hoa ở Thái Lan không chỉ chiếm số lượng đông đảo mà còn có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của đất nước này. Cộng đồng người Hoa ở Thái Lan được hình thành từ rất sớm, trải qua nhiều biến động lịch sử, từ chỗ chỉ là những nhóm người di cư sống rải rác ven vịnh Thái Lan với số lượng rất ít, dần dần đã hình thành nên những cộng đồng người Hoa tương đối ổn định. Hiện nay có khoảng 7 triệu người Hoa ở Vương Quốc Thái Lan, chiếm 14% dân số cả nước. Bởi vậy, khi nghiên cứu về lịch sử Thái 1 Lan thì việc hình thành cộng đồng người Hoa và hoạt động kinh tế cũng như vai trò của họ đối với sự phát triển kinh tế Thái Lan là vấn đề quan trọng cần được nói tới. Người Hoa đến Thái Lan từ những thế kỉ đầu công nguyên, đến thời Minh thì số lượng người Hoa đến đây mới đông đảo, đã thành lập nên những cộng đồng của mình ở quốc gia này. Đặc biệt, với sự xâm nhập của chủ nghĩa thực dân phương Tây từ thế kỉ XVII, đã giúp cho cộng đồng người Hoa ở Thái Lan được định hình, ổn định và có vai trò ngày càng to lớn đặc biệt là về mặt kinh tế. Bên cạnh đó, người Hoa với sự năng động của mình trong hoạt động kinh doanh buôn bán nên sớm du nhập phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa vào Thái Lan, từ đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế và mở rộng giao lưu buôn bán giữa Thái Lan với các nước phương Tây. Chính điều này đã giúp Thái Lan không những xóa bỏ được sự lạc hậu trong nền kinh tế mà còn giữ được mối quan hệ hòa hảo với phương Tây. Có thể nói, bên cạnh những chính sách mềm dẻo của các vua Rama thì chính hoạt động kinh tế của người Hoa ở đây đã giúp Thái Lan duy trì được mối quan hệ tốt đẹp cũng như giữ được nền độc lập trước sự nhòm ngó của chủ nghĩa thực dân phương Tây. Đồng thời, trong khoảng thời gian này, người Hoa ở Thái Lan sống hòa nhập với xã hội bản địa, dần dần trở thành một bộ phận cư dân của đất nước này. Tuy nhiên, người Hoa hòa nhập nhưng không hòa tan mà họ vẫn giữ được những bản sắc văn hóa riêng của mình. Điều này đã tạo ra động lực cho người Hoa không ngừng thúc đẩy các hoạt động kinh tế của mình để trở thành một bộ phận cư dân có vị trí và vai trò quan trọng trong đời sống xã hội Thái Lan. Bởi vậy, khoảng thời gian từ thế kỉ XVII đến đầu thế kỉ XIX là khoảng thời gian mà các cộng đồng người Hoa ở Thái Lan có một vị trí và vai trò quan trọng, đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế. Chính vì vậy, tìm hiểu về hoạt động kinh tế của người Hoa ở Thái Lan là cần thiết, góp phần tìm hiểu những hoạt động kinh tế chủ yếu cũng như vai trò của người Hoa trong nền kinh tế của Thái Lan. Đặc biệt trong bối cảnh hội 2 nhập toàn cầu hóa, khu vực hóa với, việc thành lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN, Đông Nam Á một khu vực kinh tế mới nổi, ngày càng có vị trí quan trọng trong nền kinh tế thế giới. Trong đó, Thái Lan là một trong những quốc gia có nền kinh tế phát triển năng động hàng đầu của khu vực Đông Nam Á, có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự phát triển đó, trong đó cộng đồng người Hoa ở quốc gia này chiếm giữ một vị trí quan trọng, nó chính là nguyên nhân phát triển nội tại của kinh tế Thái Lan. Vì vậy việc tìm hiểu về hoạt động kinh tế và vai trò của người Hoa trong nền kinh tế Thái Lan sẽ góp phần giúp chũng ta nhận thức được một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự phát triển kinh tế ở quốc gia này. Từ đó, có thể nhận thức được điểm tương đồng cũng như khác biệt trong sự phát triển kinh tế của các quốc gia nằm trong khu vực kinh tế năng động Đông Nam Á. Đồng thời, việc tìm hiểu hoạt động kinh tế và vai trò của người Hoa đối với sự phát triển nền kinh tế Thái Lan cũng góp phần vào quá trình tìm hiểu hoạt động kinh tế cũng như vai trò của họ đối với sự phát triển nền kinh tế của khu vực Đông Nam Á. Trong lịch sử, Việt Nam và Thái Lan là hai quốc gia có mối quan hệ lâu đời trong khu vực và cũng là đối tác quan trọng trong hợp tác phát triển kinh tế. Chính vì vậy, tìm hiểu hoạt động kinh tế và vai trò của người Hoa đối với sự phát triển của nền kinh tế Thái Lan, sẽ giúp chúng ta có những hiểu biết sâu sắc về nguyên nhân dẫn đến sự phát triển kinh tế của một đối tác tin cậy, từ đó có những chính sách hợp tác phù hợp. Mặt khác, việc tìm hiểu vấn đề này cũng giúp chúng ta có sự so sánh, liên hệ với hoạt động kinh tế cũng như vai trò của cộng đồng người Hoa đối với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam Bên cạnh đó, việc tìm hiểu về hoạt động kinh tế và vai trò của người Hoa đối với sự phát triển nền kinh tế của Thái Lan, sẽ góp phần làm phong phú tư liệu giảng dạy lịch sử Đông Nam Á ở trường phổ thông. Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã chọn đề tài “Hoạt động kinh tế và vai trò của người Hoa trong nền kinh tế Thái Lan (thế kỉ XVII – đầu thế kỉ XX)” làm đề tài nghiên cứu cho khóa luận của mình. 3 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Vấn đề người Hoa ở Đông Nam Á nói chung, Thái Lan nói riêng đã được đề cập đến trong nhiều công trình nghiên cứu: Cuốn “Hoa kiều chí (tổng chí)”, do Đài Loan xuất bản năm 1956, là một cuốn tư liệu gốc quý giá khi nghiên cứu về người Hoa ở Đông Nam Á. Tư liệu này cung cấp những số liệu ghi chép về người Hoa di cư tới nhiều khu vực Đông Nam Á nói chung cũng như cung cấp những số liệu về số lượng người Hoa di cư tới Thái Lan một cách cụ thể. Trong Luận án Tiến sĩ sử học “Tìm hiểu sự hình thành các nhóm cộng đồng người Hoa ở Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á” (1983), tác giả Châu Thị Hải đã đề cập đến sự hình thành các nhóm cộng đồng người Hoa ở Việt Nam trong sự so sánh với một số nước Đông Nam Á khác, trong đó có Thái Lan, giữa hai quốc gia có những nét tương đồng cũng như có những điểm khác biệt về sự hình thành cộng đồng người Hoa trên đất nước của mình và những loại hình liên kết của các nhóm cộng đồng người Hoa ở Việt Nam, Thái Lan và một số nước thuộc khu vực Đông Nam Á khác. Tác giả Lâm Kim Chi trong bài “Xem xét một số vấn đề lịch sử Hoa Kiều Nam Dương qua sách ghi lịch sử dòng họ (tộc phả) của quê hương Hoa kiều Phúc Kiến”, xuất bản ở Bắc Kinh, năm 1984, đã đề cập đến nguyên nhân, quá trình di cư của người Trung Hoa ở Phúc Kiến đến Đông Nam Á trong nhiều thế kỉ. Tác giả còn viết nhiều về sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế của Thái Lan cũng như một số nước Đông Nam Á khác khi người Hoa đến đây và xây dựng cộng đồng của mình. Trong cuốn “Các nhóm cộng đồng người Hoa ở Việt Nam”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992, tác giả Châu Thị Hải đã trình bày khái quát về sự hình thành các nhóm cộng đồng người Hoa ở Việt Nam nửa sau thế kỉ XVII – nửa đầu thế kỉ XX có so sánh với một số nước Đông Nam Á mà điển hình là Thái Lan. Bên cạnh đó, tác giả còn tập trung vào việc phân tích đặc điểm, đánh giá vị trí và vai trò của người Hoa ở Việt Nam và Đông Nam Á trong quá trình di cư, cũng như những nét khái quát về đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa của họ. Có thể 4 nói, tác phẩm đã phác họa một bức tranh về người Hoa trên diện rộng: người Hoa ở Việt Nam, Thái Lan, Indonexia và ở một số nước Đông Nam Á. Tác phẩm “Vai trò của người Hoa trong nền kinh tế các nước Đông Nam Á”, NXB Đà Nẵng, 1992, của tác giả Trần Khánh là một trong những công trình nghiên cứu chuyên sâu về kinh tế của người Hoa ở Đông Nam Á. Trong công trình này, tác giả đã đề cập đến sự hình thành và phát triển các ngành kinh tế then chốt của người Hoa ở một số nước Đông Nam Á mà tiêu biểu là Việt Nam, Indonexia, Thái Lan, Malaisia, từ cuối thế kỉ XIX cho đến những năm 1990. Đặc biệt, tác giả đã nhấn mạnh tới vai trò quan trọng của người Hoa đối với sự phát triển của nền kinh tế các nước Đông Nam Á. Trong đó, tập trung phân tích hai quốc gia Việt Nam và Thái Lan. Bên cạnh việc đi sâu phân tích hoạt động kinh doanh của người Hoa và vị trí vai trò của họ trong khoảng thời gian từ cuối thế kỉ XIX đến những năm 1990, tác giả cũng nêu một cách khái quát hoạt động kinh tế của người Hoa ở một số nước Đông Nam Á dưới thời cổ trung đại. Bên cạnh những công trình nghiên cứu bằng tiếng Việt, còn rất nhiều công trình nghiên cứu khác bằng tiếng nước ngoài viết về người Hoa ở Đông Nam Á nói chung và Thái Lan nói riêng như: Cuốn “Chinese Society in Thailand: An Analytical History” (Người Hoa ở Thái Lan: một phân tích lịch sử) của tác giả G.William Skinner, xuất bản năm 1957, là công trình nghiên cứu có hệ thống về quá trình hình thành cộng đồng người Hoa ở Thái Lan và vai trò của họ trong đời sống xã hội, chính trị và kinh tế của quốc gia này. Cuốn sách không chỉ cung cấp những tư liệu về cộng đồng người Hoa ở Thái Lan mà còn giúp người đọc hiểu thêm những vấn đề thuộc về lịch sử và xã hội Thái Lan. Tác giả Victor Purcell trong tác phẩm “The Chinese in Southeast Asia” ( Người Hoa ở Đông Nam Á), xuất bản năm 1965, đã khái quát quá trình di cư của người Hoa tới các nước Đông Nam Á từ thời cổ đại cho đến thế kỉ XX và quá trình hình thành nên những cộng đồng người Hoa ở từng nước Đông Nam Á, trong đó có Thái Lan. Tác giả cũng phân tích một cách khái quát 5 những hoạt động kinh tế của cộng đồng người Hoa ở Thái Lan nói riêng và khu vực Đông Nam Á nói chung. Nhà nghiên cứu về người Hoa Leo Suryadianta đã tập hợp nhiều bài viết của các nước khác về người Hoa ở Đông Nam Á trong hai tác phẩm “Southeast Asian Chinese – The Socio – Cultural Dimension” (Người Hoa ở Đông Nam Á – góc nhìn văn hóa – xã hội) và “Southeast Asian Chinese ang China – The Politico – Economic Dimension” (Người Hoa ở Đông Nam Á và Trung Quốc – góc nhìn kinh tế chính trị), xuất bản năm 1995. Những bài viết trong hai tác phẩm này đã cung cấp cho người đọc một bức tranh tổng quát về người Hoa ở các quốc gia Đông Nam Á: Lịch sử tộc người, hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội. Những bài viết tập trung vào cộng đồng người Hoa ở một số nước Đông Nam Á hải đảo như Singapore, Inđônêxia, Philippin…Bên cạnh đó cũng có những bài viết mang tính khái quát đối với cộng đồng người Hoa ở một số nước Đông Nam Á lục địa như Việt Nam, Thái Lan… Vấn đề người Hoa ở Thái Lan còn được đề cập trong nhiều bài nghiên cứu của các tác giả Trần Khánh, Châu Thị Hải…trên các tạp chí chuyên ngành như Nghiên cứu lịch sử, nghiên cứu Đông Nam Á và một số tạp chí khác. Như vậy, vấn đề cộng đồng người Hoa ở Thái Lan và hoạt động kinh tế của họ đã được đề cập rải rác trong nhiều công trình nghiên cứu. Trên cơ sở kế thừa thành quả nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước, tôi sẽ đi sâu làm rõ nguyên nhân di cư, quá trình hình thành các nhóm cộng đồng người Hoa ở Thái Lan và phân tích hoạt động kinh tế, cũng như vai trò của họ đối với việc phát triển kinh tế ở Thái Lan từ thế kỉ XVII – đầu thế kỉ XX. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động kinh tế của người Hoa ở Thái Lan. Trong đó, tập trung vào những ngành kinh tế thế mạnh của người Hoa ở Thái Lan, thông qua những hoạt động kinh tế đó đánh giá được vị trí, vai trò của người Hoa trong phát triển kinh tế ở Thái Lan. 6 3.2 Phạm vi nghiên cứu Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu khoảng thời gian (thế kỉ XVII - đầu thế kỉ XX). Đây là giai đoạn hoạt động kinh tế sôi nổi của người Hoa ở Thái Lan. Đặc điểm nổi bật của giai đoạn này đó là sự xuất hiện và xâm nhập của chủ nghĩa thực dân phương Tây, điều này đã khiến cho hoạt động kinh tế của người Hoa ở Thái Lan có những sự thay đổi lớn so với giai đoạn trước, du nhập thức sản xuất và kinh doanh theo lối tư bản chủ nghĩa, thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế Thái Lan. Về không gian: Đề tà đi sâu nghiên cứu trong phạm vi một quốc gia, đó là đất nước Thái Lan. Trước đó còn được gọi là Xiêm, tên gọi Xiêm chính thức được sử dụng dưới triều vua Rama IV (1851-1868). Rama IV là một vị vua có đầu óc canh tân, chủ trương học tập phương Tây và bang giao với các nước phương Tây. Ông đã lấy tên nước là Xiêm để đánh dấu cho công cuộc canh tân của mình. Tên Xiêm được dùng đến năm 1939, khi tướng Phibul Songgram lên làm thủ tướng, nó được thay thế bằng tên Thái. Năm 1945, lại đổi thành Xiêm rồi đến năm 1948 thì lại gọi là Thái cho đến nay. Thái Lan là một trong những quốc gia có những cộng đồng người Hoa lớn và chịu ảnh hưởng khá sâu đậm bởi cộng đồng này, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Về nội dung: Đề tài nghiên cứu về hoạt động kinh tế của người Hoa và vai trò của họ đối với sự phát triển của nền kinh tế của Thái Lan. Trong đó, các lĩnh vực hoạt động kinh tế tập trung vào các vấn đề chủ yếu sau: Hoạt động của người Hoa trong lĩnh vực thương mại và tài chính, bao gồm nội thương và ngoại thương; hoạt động của người Hoa trong công nghiệp và vận chuyển, trong đó có các lĩnh vực như công nghiệp xay xát lúa gạo, ngành khai mỏ, nghề đóng thuyền đi biển. Trên cơ sở những hoạt động kinh tế đó, đánh giá được vai trò 7 của người Hoa đối với sự phát triển của nền kinh tế Thái Lan (thế kỉ XVII – đầu thế kỉ XX). 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ đối tượng và phạm vi nghiên cứu trên, đề tài tập xác định những nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản sau: Thứ nhất, làm rõ quá trình di cư, sự hình thành cộng đồng người Hoa ở Thái Lan (thế kỉ XVII – đầu thế kỉ XX). Thứ hai, phân tích những hoạt động kinh tế nổi bật của người Hoa ở Thái Lan. Thông qua những hoạt động kinh tế đó, đánh giá được vai trò của họ đối với sự phát triển nền kinh tế Thái Lan (thế kỉ XVII – đầu thế kỉ XX). 5. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện đề tài, khóa luận sử dụng hai phương pháp cơ bản là phương pháp lịch sử và phương pháp Logic: - Phương pháp lịch sử là phương pháp dựa vào những sự kiện lịch sử, tư liệu lịch sử để trình bày tiến trình lịch sử một cách hệ thống theo thời gian. - Phương pháp logic là phương pháp nghiên cứu lịch sử trong hình thức tổng quát với những mối liên hệ bản chất của nó. Bên cạnh đó, đề tài còn dùng một số phương pháp bổ trợ khác như so sánh, tổng hợp để có thể rút ra những đánh giá, kết luận mang tính khái quát nhằm giúp đề tài có một cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn. 6. Đóng góp của đề tài Đóng góp của đề tài chủ yếu trên các khía cạnh sau: - Khái quát một cách có hệ thống lịch sử quá trình hình thành các nhóm cộng đồng người Hoa ở Thái Lan từ thế kỉ XVII đến đầu thế kỉ XX. - Phân tích hoạt động kinh tế của người Hoa ở Thái Lan, từ đó đánh giá vai trò của họ đối với sự phát triển nền kinh tế của Thái Lan (thế kỉ XVII đầu thế kỉ XX). 7. Cấu trúc của Khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, cấu trúc của khóa luận gồm hai chương: 8 Chương 1. Quá trình hình thành cộng đồng người Hoa ở Thái Lan (thế kỉ XVII – đầu thế kỉ XX). Chương 2. Hoạt động kinh tế và vai trò của người Hoa trong nền kinh tế Thái Lan ( thế kỉ XVII – đầu thế kỉ XX). 9 NỘI DUNG CHƯƠNG 1 QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CỘNG ĐỒNG NGƯỜI HOA Ở THÁI LAN (THẾ KỈ XVII – ĐẦU THẾ KỈ XX) 1.1. Khái niệm người Hoa ở Thái Lan Trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc Thái Lan, việc hình thành cộng đồng người Hoa và vai trò của họ qua các thời kì lịch sử dân tộc là một vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Cộng đồng người Hoa ở TháI Lan có nguồn gốc xa xưa trong lịch sử và đã trải qua nhiều biến động phức tạp trên nhiều lĩnh vực. Từ chỗ ban đầu chỉ là những người hoa di cư sống rải rác ở đô thị hay một số vùng nông thôn hẻo lánh, dần dần hình thành nên những cộng đồng ổn định và thường xuyên trong xã hội Thái Lan. Đến thế kỉ XVII, với sự xâm nhập của chủ nghĩa thực dân phương Tây đã tạo điều kiện cho cộng đồng người Hoa được định hình, ổn định. Có rất nhiều cách hiểu, cách gọi người Hoa ở Thái Lan nói riêng cũng như khu vực Đông Nam Á nói chung. Cho đến nay, vấn đề khái niệm hoàn chỉnh về người Hoa vẫn chưa thống nhất bởi nó là một phạm trù biến đổi chứ không phải là phạm trù ổn định. Trong khi có rất nhiều người Hoa hải ngoại mang đồng thời hai quốc tịch thì những người Hoa lai ở Thái Lan cũng không thống nhất khi nhận quốc tịch của mình, khi họ tự nhận mình là người Trung Hoa, khi thì họ coi mình là người bản địa. Bởi vậy, để đưa ra một tiêu chí chung nhất cho khái niệm người Hoa ở Thái Lan vẫn còn nhiều điểm phải nghiên cứu thêm, song về cơ bản có thể đưa ra một số tiêu chí để trả lời cho câu hỏi “ người Hoa – họ là ai?” như sau: - Những người có nguồn gốc Hán hay đã Hán hóa; Sống tương đối ổn định, thường xuyên tại nước ngoài; Đã nhập quốc tịch và trở thành công nhân nước sở tại; Vẫn còn bảo lưu được những nét đặc trưng của nền văn hóa Trung Hoa truyền thống và ít hoặc nhiều chưa bị đồng hóa; 10 - Vẫn tự nhận mình là người Hoa [27;29]. Với 5 tiêu chí này, những người được nằm trong phạm trù khái niệm “người Hoa” phải là những người có nguồn gốc di cư từ đất nước Trung Hoa kể cả các dân tộc ở các tỉnh phía Nam Trung Quốc đã bị Hán hóa đến các nước trong khu vực Đông Nam Á và con cháu họ sinh ra và lớn lên tại khu vực này. Họ đã mang quốc tịch bản địa và trở thành công dân của các nước này, nhưng vẫn còn lưu giữ những giá trị văn hóa Trung Hoa truyền thống như tiếng nói, chữ viết, phong tục tập quán tự nhận mình là “người Hoa”[10;37]. Những người Hoa di cư đến Thái Lan, họ định cư tại đây, xây dựng nên những xóm làng, khu phố, chợ của mình. Dần dần, những nhóm người Hoa đó ngày càng trở thành những cộng đồng người đông đảo theo làn sóng di cư và quá trình cộng cư với người bản địa. Vậy những nhóm cộng đồng người Hoa đó có thể gọi là một dân tộc hay một tộc người ở các nước bản địa được không? Nếu xét trên bình diện chung của cả khu vực Đông Nam Á, nơi người Hoa chiếm phần lớn trong tổng số người Hoa trên thế giới thì ở Việt Nam người Hoa được coi là một nhóm tộc người (Ethnic Chinese Group). Bởi vì người Hoa ở Việt Nam và các nước Đông Nam Á cùng chia sẻ về nguồn gốc dân tộc, là những cộng đồng người nhập cư, cùng có những nét đặc trưng chung về nền văn hóa, cũng tự gọi mình là Hoa và cũng là công dân của nước sở tại, nhưng mức độ hội nhập của họ vào các xã hội bản địa là khác nhau. Nếu như các tộc ít người khác nhau là người bản địa, chủ yếu sống ở vùng rừng núi, chính trên nơi chôn rau cắt rốn của mình thì người Hoa lại là những cộng đồng nhập cư, họ không phải cư dân bản địa, họ chủ yếu sinh sống ở các đô thị, đồng bằng và có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội Thái Lan nói riêng và khu vực Đông Nam Á nói chung. Họ không có biên giới lãnh thổ tộc người riêng, quê hương của họ là nơi họ đang sống. Cố hương của người Hoa là nước Trung Hoa rộng lớn, là một quốc gia có tiềm năng lớn về kinh tế và sức lan tỏa mạnh mẽ về văn hóa, lại là láng giềng gần gũi với Thái 11 Lan. Chính những điều này đã tạo nên sự “khó xử” trong chính sách dân tộc của Thái Lan đối với người Trung Hoa, đồng thời nó cũng góp phần làm cho vấn đề người Hoa trở nên phức tạp trong các mối quan hệ quốc tế. Bởi vậy, khi nói đến cộng đồng người Hoa không có nghĩa là chỉ một cộng đồng dân tộc rộng lớn mà chỉ đơn giản là một quần thể tụ cư mà mỗi thành viên trong quần thể tụ cư đó liên kết lại với nhau dựa trên những quyền lợi kinh tế, chính trị, văn hóa và quan hệ thân tộc, huyết thống chung, tồn tại dưới nhiều loại hình phong phú [9;12]. Như vậy, người Hoa là một cộng đồng người nhập cư có nguồn gốc Trung Hoa, họ ít hoặc chưa bị đồng hóa và vẫn giữ được những nét văn hóa đặc trưng của mình, họ đã nhập quốc tịch nước sở tại hoặc tự nhận mình là người Hoa. Cộng đồng người Hoa ở Thái Lan là một nhóm tộc người đang được hình thành như một dân tộc với bản sắc văn hóa đặc trưng, là một trong những thành phần cư dân – dân tộc của Thái Lan. 1.2 Nguyên nhân và điều kiện di cư của người Hoa đến Thái Lan 1.2.1 Nguyên nhân di cư Có nhiều nguyên nhân làm cho người Hoa phải từ bỏ quê hương để tới định cư tại Thái Lan, trong đó có hai nguyên nhân chính là nguyên nhân chính trị và nguyên nhân kinh tế. 1.2.1.1. Nguyên nhân chính trị Một trong những lý do quan trọng khiến cho nhiều người Trung Hoa di cư sang Thái Lan nói riêng và các nước Đông Nam Á nói chung, đó là do những biến động chính trị - xã hội như: sự tranh giành quyền lực trong triều đình, các cuộc khởi nghĩa nông dân, các cuộc chiến tranh xâm lược từ bên ngoài vào Trung Quốc đã đẩy một bộ phận dân cư ra nước ngoài. Bên cạnh đó, còn có các sứ giả, quan lại, các nhà tu hành Phật giáo đi công cán ở nước ngoài, sau những biến cố lớn trong nước, họ xin ở lại cư trú. Trong các thế kỉ XI, XII, XIII, tình hình Trung Quốc vẫn tiếp tục có những biến động phức tạp. Những cuộc nội chiến tiếp tục bùng nổ chính là 12 yếu tố và điều kiện cho các cuộc xâm lược ngoại bang có cơ hội thực hiện. Vào thế kỉ XIII, các bộ tộc Mông Cổ ở phía Bắc chớp lấy thời cơ rối loạn trong nội bộ Trung Quốc đã tiến hành tấn công lật đổ chính quyền Nam Tống, tàn sát những người Tống yêu nước, thiết lập triều Nguyên (1279 – 1368). Trong tình cảnh “máu chảy kêu thành tiếng động, thôn xóm biến thành đồng hoang” [2;16], những cựu thần nhà Tống và những người Tống yêu nước đã rời bỏ Tổ quốc tìm đến lánh nạn ở các nước Đông Nam Á, hoặc để tỏ rõ thái độ bất hợp tác với chính quyền thống trị của nhà Nguyên, hoặc tìm nơi náu mình mưu cầu sự nghiệp mới. Trong “Tân sử nghĩa lược” của Liêu Hồng Trình có viết: “Tất cả thần dân chu du ra nước ngoài hoặc làm quan tại Chiêm Thành, là chàng rể ở đất Giao Chỉ, hoặc biệt ly viễn quốc” [2;16-17]. Thế kỉ XVII, khi người Mãn Châu vào Trung Quốc và thiết lập nhà Thanh (16441911). Dưới sự thống trị của nhà Thanh, rất nhiều người Hán trung thành với nhà Minh đã rời bỏ đất nước ra đi để tỏ rõ thái độ phản đối sự thống trị của người Mãn đối với người Hán, đồng thời cũng mưu cầu sự nghiệp khôi phục lại cơ nghiệp của triều Minh. Sự xâm nhập của chủ nghĩa đế quốc thông qua các cuộc “Chiến tranh thuốc phiện” (1840 – 1860), chiến tranh Trung – Pháp (1885), chiến tranh Trung – Nhật (1894) và nhiều hoạt động tranh giành, phân chia phạm vi thế lực trên lãnh thổ Trung Quốc của nhiều nước đế quốc khác như Mỹ, Đức, Nga…, cùng thời gian đó là phong trào Thái Bình Thiên Quốc (1850 – 1864) đã tàn phá đất nước Trung Quốc, tạo ra làn sóng di cư mới của người Hoa vào khu vực Đông Nam Á, trong đó có Thái Lan. Người Hoa đến Thái Lan không chỉ vì mục đích chính trị mà còn ra đi để kiếm sống và tồn tại, trốn tránh tình cảnh khốn cùng của mình ở quê hương. Vào giữa thế kỉ XIX, các cường quốc phương Tây đã bắt ép chính quyền Mãn Thanh cho họ được trực tiếp tuyển mộ lao động ở Trung Quốc và đưa những lao động này ra nước ngoài làm việc. Do đó, rất nhiều người Hoa đã được tuyển đến làm thuê cho các chủ đồn điền, công xưởng ở Thái Lan. Những người này thường được gọi là “lao động 13 khế ước”, làm việc theo hợp đồng cũ. Tuy nhiên, trên thực tế, hầu hết trong số những lao động đó sau khi mãn hạn hợp đồng đều ở lại nơi đất khách quê người vì không đủ tiền về nước. Trong nửa đầu thế kỉ XX, các cuộc nội chiến như cuộc nội chiến giữa Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc trong những năm 1924-1927, 1936-1939, 1946-1948, các cuộc chiến tranh xâm lược của Nhật Bản chống lại Trung Quốc trong những năm 1930-1931, 1937-1945 đã đẩy hàng vạn người dân Trung Hoa phải rời quê cha đất tổ, lánh nạn ra nước ngoài [18;48-49]. Do đó, từ giữa thế kỉ XIX trở đi, đặc biệt là vào đầu thế kỉ XX, số lượng người Hoa đến Thái Lan và định cư ở đây tăng lên nhanh chóng. Trong khi đó, trên thế giới cũng có nhiều biến động lớn như Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất (1914- 1918), khủng hoảng kinh tế thế giới lần thứ hai (1929 – 1933), Chiến tranh Thế giới thứ hai (1939- 1945)…Sau những biến đổi mang tính toàn cầu đó là sự đảo lộn của trật tự thế giới. Các nước thắng trận thì tiến hành phân chia thị trường; các nước bại trận thì tìm cách vơ vét thuộc địa để bù đắp cho sự mất mát trong các cuộc chiến tranh và khủng hoảng. Dù khai thác thuộc địa hay phát triển thị trường thì nguồn nhân lực cũng là nhu cầu quan trọng không thể thiếu. Thị trường lao động dồi dào không nơi nào tốt hơn đất nước Trung Hoa rộng lớn với số lượng dân cư đông đúc đang bị biến động chính trị và xã hội đẩy vào tình trạng cùng cực. Đó là lý do đến cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX dòng người di cư từ đất nước Trung Quốc sang Thái Lan cũng như trong khu vực Đông Nam Á tăng lên nhanh chóng. 1.2.1.2 Nguyên nhân kinh tế Bên cạnh nguyên nhân chính trị thì nguyên nhân kinh tế cũng là một trong những động lực thúc đẩy người Hoa đến Thái Lan ngày càng đông hơn và có tổ chức hơn. Sự năng động và làm ăn có hiệu quả của tầng lớp Hoa thương ở Thái Lan trong nhiều thế kỉ trước, đặc biệt là trong các thế kỉ XV, XVI là một nguyên nhân quan trọng thu hút nhiều nhà buôn, người di cư tự do sang khu vực này tìm vận may. 14 Bên cạnh đó, chính sách “hải cấm” của triều đình phong kiến Trung Quốc và những quy định ngặt nghèo về thuế khóa càng kích thích nhiều người Trung Hoa ra đi tìm cuộc sống ở vùng đất mới. Từ năm 1371, nhà Minh thực hiện chính sách “Hải cấm”, hạn chế đến mức tối đa các hoạt động ngoại thương, nhưng để bù đắp vào sự thiếu hụt những sản phẩm tiêu dùng cần thiết vốn vẫn phải nhập khẩu từ bên ngoài, đồng thời để tỏ rõ uy lực của “thiên triều”, nhà Minh đã yêu cầu các nước láng giềng ở Châu Á thực hiện chế độ cống nạp. Nhà Minh kiểm soát ngoại thương bằng hệ thống “thương mại triều cống” đó và ngày càng mở rộng mạng lưới đặc thù này. Nhưng do đã quen với truyền thống khai thác biển và buôn bán trên biển nên mặc dù triều đình thực hiện chính sách đóng cửa đất nước hết sức ngặt nghèo, cư dân vùng ven biển Đông Nam Trung Hoa vẫn không thể từ bỏ môi trường sống và cơ sở kinh tế chủ yếu của họ. Sự hấp dẫn mạnh mẽ của những nguồn lợi kinh tế thương mại khổng lồ, cùng với những chính sách ưu đãi của chính quyền Thái Lan ở các địa phương và sự dung túng của tầng lớp quan lại là nguyên nhân chủ yếu khiến cho nhiều nhóm thuyền buôn của Hoa thương bất chấp chính sách “hải cấm” vẫn tiếp tục ra khơi. Hơn nữa, khác với kinh tế nông nghiệp mang tính ổn định khép kín, biển cả là một môi trường kinh tế mở, dễ thay đổi, rất khó kiểm soát và áp đặt chính sách. Càng ngày nhà Minh càng không thể kiểm soát được nạn buôn lậu của Hoa thương trên biển và phải nới lỏng chính sách “hải cấm”, vì thế giới Hoa thương ở các vùng Quảng Châu, Phúc Kiến, Hải Nam càng có thêm điều kiện để thâm nhập và mở rộng hoạt động đến Thái Lan. Cho đến cuối thế kỉ XVI, cộng đồng người Hoa đã từng bước thiết lập hoạt động buôn bán của mình tại nhiều thương cảng ở Ayuthaya. Điển hình cho những cuộc di cư thầm lặng của Hoa thương là nhân dân ven biển hai tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiến. Nhân dân ở đây chủ yếu sống nhờ vào thương mại trên biển và đánh cá, điều kiện tự nhiên ở đây rất khó cho sự phát triển nông nghiệp. Nhà nước thời kì này lại ra những đạo luật ngăn 15 cản thương nhân người Hoa xuất dương ra nước ngoài, ai vi phạm sẽ bị trừng phạt nặng nề. Không còn con đường nào khác, những thương nhân người Hoa ở hai vùng này phải ra đi tìm những cơ hội mới để sinh tồn. Họ ra đi mang theo nguồn của cải và những kinh nghiệm kinh doanh đã được tích lũy nhiều năm và một đội quân làm thuê chuyên nghiệp. Với nguồn dự trữ đó, họ đến các các nước Đông Nam Á cũng như Thái Lan buôn bán và hầu như không gặp phải một sự cạnh tranh gay gắt nào từ phía người bản địa, vì thương gia bản địa nhỏ bé và yếu kém hơn họ. Yếu tố này không những kích thích thêm nhiều thương gia người Hoa vượt biển mà còn tạo bước phát triển mới về chất và lượng trong sự hình thành cộng đồng người Hoa ở Thái Lan như một thực thể ổn định, có mặt thường xuyên trong cơ cấu xã hội của Thái Lan. Dưới thời Minh - Thanh tuy kinh tế tư bản chủ nghĩa chưa phát triển như các nước Tây Âu và Mỹ, nhưng kinh tế hàng hóa đã phát triển khá mạnh ở vùng ven biển Hoa Nam, sự hoạt động nhộn nhịp của hai cảng Chương Châu Nguyệt và Phúc Môn đã tạo điều kiện cho nền kinh tế mậu dịch đối ngoại phát triển. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tuy mới manh nha nhưng cũng đủ làm cho lực lượng lao động ở nông thôn trở nên thất nghiệp ngày càng nhiều, bởi phần lớn trong số họ đã đổ dồn ra thành phố làm ăn kiếm sống. Sự quá tải của số dân thành phố là lý do trực tiếp đẩy họ ra đi tìm một vùng đất mới để mưu sinh. Vùng Đông Nam Á chỉ cách Hoa Nam 3, 4 ngày vượt biển có thể coi là miền đất mưu sinh lý tưởng của những dòng người di cư đó. 1.2.1.3 Một số nguyên nhân khác Ngoài những nguyên nhân chính trị, kinh tế thì còn có một số nguyên nhân khác khiến quá trình di cư của người Hoa đến Thái Lan diễn ra mạnh mẽ và liên tục trong nhiều thế kỉ. Tác giả Trần Khánh trong tác phẩm “Người Hoa trong xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc và dưới chế độ Sài Gòn” cho rằng đất chật, người đông cũng là một trong những nguyên nhân đẩy một bộ phận dân Trung Hoa phải rời khỏi quê cha đất tổ. Năm 1651, ở Trung Quốc có khoảng 60 triệu người, đến năm 16 1800 tăng lên gấp ba lần là 150 triệu người và đạt 430 triệu người vào năm 1850. Theo số liệu của Từ điển bách khoa toàn thư người Hoa hải ngoại thì dân số Trung Hoa vào năm 1680 là khoảng 120 triệu người và sau đó tăng lên gấp 4 lần vào những năm 40 của thế kỷ XIX với con số là 430 triệu người [18;38-39]. Sự tăng nhanh dân số làm cho diện tích canh tác trên đầu người giảm nhanh. Ví dụ, năm 1753, bình quân đất canh tác trên đầu người của Trung Quốc là 4 mẫu thì con số đó giảm còn 2,4 mẫu vào năm 1812 (mỗi mẫu tương đương khoảng 0,06 hecta) [18; 40]. Sự chênh lệch quá lớn giữa người giàu và người nghèo về sở hữu ruộng đất làm bần cùng hóa đông đảo tầng lớp nông dân, đẩy một bộ phận dân cư phải rời khỏi làng nước của mình. Ví dụ, ở Trung Quốc trong những thập niên đầu thế kỷ XX, số dân nghèo chiếm tới 44% tổng số dân cư, nhưng chỉ sở hữu 6% diện tích canh tác của cả nước. Tình trạng đất chật, người đông đặc biệt trầm trọng ở các tỉnh Đông Nam Trung Quốc, nhất là ở hai tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiến là hai tỉnh có bình quân ruộng đất trên đầu người thấp hơn các tỉnh khác trong cả nước. Bởi vậy, đại đa số dân Trung Hoa di cư là dân hai tỉnh này [18;40]. Trong khi đó, cách vùng Hoa Nam không xa lắm là đất nước chùa vàng Thái Lan, đất đai phì nhiêu với đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa, cây cối quanh năm xanh tốt, lại giàu khoáng sản, nằm trên tuyến đường giao thông quốc tế thuận lợi. Vì thế, Thái Lan trở thành miền đất hấp dẫn đối với những làn sóng di cư từ phương Bắc đến. Có nhiều người Hoa đến buôn bán rồi lại trở về, nhưng cũng không ít người trong số họ tìm cách trở lại Thái lập nghiệp, hình thành nên những khu dân cư tập trung của người Hoa ở Thái Lan. Như vậy, có thể thấy, sức ép về dân số và nghèo đói là một trong những nguyên nhân chính đẩy người Trung Hoa di cư ra nước ngoài làm ăn sinh sống. Một nguyên nhân không thể không nói đến là thiên tai, mất mùa, đói kém, bệnh tật đã đẩy họ vào cảnh đói khổ. Những tai họa này đã cướp đi hàng triệu sinh mạng dân nghèo, làm cho nhiều người phải tha phương tìm nơi mới để lập nghiệp. Theo đánh giá chính thức của nhà Thanh thì giai đoạn 1620 – 17 1670, dân cư Trung Quốc giảm đi 50%, từ trên 100 triệu dân còn khoảng 50 triệu dân [27;38]. Tất nhiên còn có nhiều nguyên nhân khác tác động đến sự suy giảm dân số, như do cuộc xâm lược và thôn tính của Mãn Thanh lật đổ nhà Minh (1644) và cuộc nội chiến dai dẳng sau đó. Đứng trước tình cảnh đó, cách duy nhất để cứu sống gia đình là tìm đường ra đi đến vùng đất khác để kiếm sống. Yêu cầu bức thiết được đặt ra lúc này chính là việc lựa chọn hướng đi. Nếu đi về phía Tây cũng là một lối di cư truyền thống, đã được người Hoa tiến hành nhiều trong lịch sử. Nhưng con đường này đầy gian khó, hiểm nguy, tuy đó là một vùng đất giàu có, nhưng sự giàu có tiềm tàng dưới lòng đất đòi hỏi phải có sự phát triển về khoa học kĩ thuật mới có thể khai thác được. Vì thế, vùng đất này khó có khả năng cải thiện cuộc sống đối với những người dân chỉ có hai bàn tay lao động, công cụ lao động thô sơ. Nếu đi về phía Bắc thì bị sa mạc Gobi đầy nắng và gió cản đường. Vì vậy, người Hoa lúc này chỉ có duy nhất một con đường di cư thuận lợi là tiến về phía Đông, Đông Nam Á. Có nhiều con đường di cư để người Hoa có thể đến được với vùng đất Thái Lan, ở phía Đông Nam các dòng di cư có thể đến Thái Lan bằng đường bộ một cách gián tiếp, bằng đường bộ họ có thể đi đến các nước Lào, Myanma và Việt Nam, sau đó từ Myanma và Lào có thể đi tiếp đến Thái Lan. Để tiến đến Thái Lan ngoài đường bộ tiếp nối từ Lào và Myanma họ có thể đến được bằng đường biển. Thái Lan là một vùng đất đầy tiềm năng, vì vậy người Hoa đến đây có thể dễ dàng sinh sống và lập nghiệp. 1.2.3. Điều kiện di cư Có rất nhiều nguyên nhân khiến người Hoa phải rời bỏ quê hương của mình để tìm đến những vùng đất mới làm ăn và sinh sống, quá trình di cư và định cư của người Hoa ở Thái Lan diễn ra liên tục và kéo dài nhiều thế kỉ như vậy còn dựa trên một số điều kiện sau: Thái Lan nói riêng, các nước Đông Nam Á nói chung có những thuận lợi về mặt điều kiện tự nhiên, nằm ở vị trí đặc biệt, là cầu nối giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, giữa lục địa Á – Âu và Châu Úc. Nằm ở ngã tư 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan