Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khoá luận tốt nghiệp thơ thiếu nhi viết về chủ tịch hồ chí minh...

Tài liệu Khoá luận tốt nghiệp thơ thiếu nhi viết về chủ tịch hồ chí minh

.PDF
51
270
68

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC HOÀNG THỊ HẰNG THƠ THIÉU NHI VIẾT VỀ CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH KHÓA LUÂN TỐT NGHIÊP ĐAI HOC Chuyên ngành: Văn học thiếu nhi Ngưòi hướng dẫn khoa học ThS.GVC NGUYỄN NGỌC THI HÀ NỘI, 2016 LỜI CẢM ƠN Tác giả khóa luận xin chân thành cảm ơn sư giúp đỡ của các thầy giáo, cô giáo trong khoa Giáo dục tiểu học và đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo: ThS - GVC Nguyễn Ngọc Thi. Thầy đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình để tôi hoàn thành khóa luận này. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 5 năm 2016 Sinh viên Hoàng Thị Hằng Tôi xin cam đoan đề tài “Thơ thiếu nhi viết về chủ tịch Hồ Chí Minh” là kết quả tôi trực tiếp tìm tòi, nghiên cứu. Trong quá trình nghiên cứu có sử dụng tài liệu của một số tác giả. Tuy nhiên đó chỉ là cơ sở để tôi rút ra được những vấn đề cần tìm hiểu ở đề tài của mình. Đây là kết quả của cá nhân tôi, hoàn toàn không trùng lặp với kết quả của tác giả khác. Neu sai sót tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Sinh viên Hoàng Thị Hằng LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC MỞ ĐẦU......................................................................................................... 1. Lý do chọn đề tài........................................................................................ 2. Lịch sử vấn đề............................................................................................ 3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 6. Cấu trúc...................................................................................................... NỘIDUNG...................................................................................................... Chương 1: HÌNH TƯỢNG BÁC HỒ TRONG THƠ THIẾU NHI ......... 1.1. Đôi nét về khái niệm hình tượng ............................................................ 1.1.1. Hình tượng ........................................................................................... 1.1.2. Hình tượng nghệ thuật ......................................................................... 1.2. Hình ảnh Bác Hồ trong thơ thiếu nhi................................................... 1.3. Vẻ đẹp tâm hồn của Bác ......................................................................... 1.3.1 Tình cảm của Bác với thiếu nhi ............................................................ 1.3.2 Tình cảm của Bác với nhân dân............................................................ Chương 2: TÌNH CẢM CỦA THIẾU NHI VỚI BÁC HỒ KÍNH YÊU.. 2.1. Lòng kính yêu và mong ước được gặp Bác............................................ 2.2. Thể hiện lòng biết ơn vói Bác ................................................................ 2.3. Đau xót khi Bác mất ............................................................................... 2.4. Làm theo lời Bác dạy.............................................................................. KẾT LUẬN .................................................................................................... TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ ..1 ..1 ..2 ..4 ..4 ..5 ..5 ..6 ..6 ..6 ..6 ..7 ..9 14 14 15 18 18 25 29 38 47 49 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Văn học thiếu nhi ra đời sau và phát triển muộn hơn các bộ phận văn học khác. Văn học thiếu nhi thực sự được hình thành và phát triển với tư cách là một bộ phận của văn học Việt Nam từ khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành công. Lúc này Đảng và Nhà nước đặc biệt là Bác Hồ, đã chú ý quan tâm để phát triển nền văn học thiếu nhi Việt Nam. Nhiều tác phẩm, tờ báo đã ra đời dành riêng cho trẻ em: Tờ Thiểu Sinh, Thiểu niên, Tuổi trẻ, Măng non, các sách Kim Đồng, Hoa kháng chiến.... Những sách báo này đã thực sự trở thành ngưòi bạn thân thiết của trẻ em, góp phần tích cực vào việc bồi dưỡng những đức tính tốt, những tình cảm cao đẹp cho thiếu nhi và trở thành vốn quý cho nền văn học thiếu nhi. Nói đến thành công ban đầu này không thể không kể đến sự đóng góp to lớn của những nhà thơ, nhà văn tiêu biểu như: Tô Hoài, Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng,... và một bộ phận quan trọng cũng góp phàn tạo nên thành công trên chặng đường mở đầu cho nền văn học thiếu nhi đó chính là những tác phẩm của chính các em mặc dù sáng tác của các em vẫn còn đơn giản, sơ lược. Các em đã được tham gia sáng tác, trực tiếp nói lên tình cảm, suy nghĩ trong lĩnh vực văn học nghệ thuật. Đặc biệt trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ, đồng bào ta dù phải hy sinh rất nhiều của, nhiều người nhưng không hề nao núng tinh thần. Đó cũng chính là thời đại của âm nhạc và thi ca. Nhiều nhà thơ tý hon đã xuất hiện. Ngoài những bài thơ ca ngợi thiên nhiên, cảnh vật quê hương đất nước, chú bộ đội, các em còn có những bài thơ viết về Hồ Chí Minh rất xúc động. Hồi đó, trên miền Bắc, nơi hàng ngày, hàng giờ toàn quân toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng tích cực lao động sản xuất xây dựng chủ nghĩa xã hội, chi viện sức người sức của cho miền Nam đồng thời vừa phải 1 đưcmg đầu với chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ đã xuất hiện hàng loạt cây bút nhỏ tuổi như: Trần Đăng Khoa, Chu Hồng Quý, cẩm Thơ, Nguyễn Hồng Kiên, Hoàng Hiếu Nhân,.... Những sáng tác này có ý nghĩa quan trọng tuy nhiên chưa thực sự được nhiều người quan tâm khai thác. Vì vậy việc thực hiện đề tài này theo tôi có ý nghĩa lí luận và thực tiễn quan trọng Hiện nay, trong các trường tiểu học không chỉ dạy các em về mặt kiến thức mà còn giáo dục các em về tư tưởng, tình cảm, đao đức cho học sinh. Phong trào học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã và đang phát triển mạnh trong cả nước trong đó bao gồm ngành giáo dục, không chỉ có cán bộ giáo viên mà cả học sinh cíăng tham gia vào phong trào này. Là một giáo viên tiểu học trong tương lai, để góp phàn vào việc giáo dục học sinh học tập và làm theo gương Bác Hồ để trở thành con ngoan, trò giỏi, đội viên tốt, cần hiểu rõ về tình cảm của thiếu nhi với Bác và sự quan tâm, yêu mến của Bác dành cho thiếu nhi từ đó thấy được ý nghĩa giáo dục đối với học sinh tiểu học, đồng thời khẳng định những đóng góp của thơ thiếu nhi trong nền văn học thiếu nhi nói riêng và thơ Việt Nam nói chung. Vì những lý do trên tôi chọn đề tài: “Thơ thiếu nhi viết về chủ tịch Hồ Chí Minh 2. Lích sử vấn đề ■ Chủ tịch Hồ Chí Minh là vĩ nhân đã in đậm dấu ấn vào lịch sử dân tộc và lịch sử nhân loại. Dù đã mãi mãi đi xa nhưng hình ảnh giản dị, tư tưởng và tấm gương đạo đức sáng ngời của Người vẫn luôn sống mãi trong trái tim các thế hệ người Việt Nam và bạn bè quốc tế. Chính vì vậy, nhiều năm qua, đã có rất nhiều nhà thơ, nhà văn, nhạc sỹ, họa sỹ, các nghệ sỹ ừong và ngoài nước bắt đầu nguồn cảm hứng sáng tạo từ hình tượng của Người. Đặc biệt trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, hình ảnh 2 Bác đã đi vào những vàn thơ đẹp của các bạn thiếu nhi một cách rất tự nhiên, từ lòng kính yêu, thương mến vô hạn, các em đã dùng chính những vần thơ của mình để thể hiện tình cảm thiêng liêng ấy. Trong cuốn Văn học thiểu nhi do Nguyễn Thị Bích Dung chủ biên đã nêu khái quát về những sáng tác thơ của thiếu nhi trong đó có đề cập đến những sáng tác thơ của thiếu nhi thể hiện tình cảm với mọi người, đặc biệt là những bài thơ viết về Bác Hồ: “Thơ của các em bộc lộ tình cảm yêu thương đổi với người thân trong gia đình, với thầy cô, bạn bè, chú bộ đội, đặc biệt là với Bác Hồ. ” [2, 42] Trong đó tác giả đã nhận xét: “Trong thơ các em có nhiều bài thơ hay viết về Bác Hồ, với tình cảm chân thành , xúc động, sâu lắng.” [2,43] Một số sáng tác của thiếu nhi đã được nhắc đến như: Ảnh Bác (Tràn Đăng Khoa), Mời bác về thăm quê cháu (Phạm Thị Liên), Em gặp Bác Hồ (Cẩm Thơ) ...và hàng loạt những sáng tác của thiếu nhi khi Bác mất: “Khi Bác qua đời, trước nỗi đau thương mất mát lớn đối với cả dân tộc, các em thiếu nhi có những bài thơ khóc Bác rất xúc động: Bác ơi! Bác ơi! (Trần Ngọc Phong), Đời đời nhớ am Bác Hồ kính mến (Đinh Quang Hùng), Bác còn sổng mãi (Phạm Hồng Liên), Nhớ Bác (Nguyễn Xân Hoa), Cháu gọi Bác, Bác ơi! (Trần Ngọc Tiến), Nhớ Bác (Bùi Quốc Đông)...” [2, 45] Trong cuốn Văn học thiểu nhi Việt Nam có nhận xét về những sáng tác thơ văn của các em thiếu nhi trong tập thơ “Đời đời ơn Bác “Đời đời ơn Bác không những nói lên được lòng kính yêu, thương tiếc Bác Hồ vô hạn của thiếu nhi hai miền Nam - Bắc, mà ở những bài thành công nhất, thơ văn của các em còn góp phần vào việc xây dựng hình tượng Bác Hồ trong văn học, nhất là về tác phong giản dị gần gũi mà lớn lao của Bác.” [10, 1158]. Một số sáng tác thơ nổi bật của các em đã được nhắc đến như: Công ơn Bác Hồ (Đoàn Thị Yến), ơn 3 Đảng, ơn Bác (Một thiếu niên Hà Nội), Bác Hồ, Bác Hồ ơi (Nguyễn An), Đất trời sáng lắm hôm nay (Trần Đăng Khoa), Khóc (Cẩm Thơ), Trung Thu nhớ Bác (Nguyễn Hồng Kiên). Qua nghiên cứu và khảo sát tài liệu, chúng tôi nhận thấy mảng viết về: thơ thiếu nhi viết về chủ tịch Hồ Chí Minh đã được đề cập đến khi giới thiệu về thơ thiếu nhi viết. Nhưng chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách sâu sắc, tổng thể vấn đề này. Trên cơ sở kế thừa những ý kiến có tính chất gọi mở của các nhà nghiên cứu chúng tôi lựa chọ đề tài: “Thơ thiểu nhi viết về chủ tịch Hồ Chí Minh” 3. Mục đích nghiên cứu Thấy được đóng góp trong những sáng tác của thiếu nhi cho nền văn học Việt Nam nói chung và thơ nói riêng. Làm rõ hình ảnh Bác Hồ trong những bài thơ thiếu nhi sáng tác, những hình ảnh giản dị, tư tưởng và tấm gương đạo đức sáng ngời của Người. 4. Đổi tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đổi tượng nghiên cứu Những sáng tác thơ của thiếu nhi viết về chủ tịch Hồ Chí Minh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Để thực hiện đề tài này, chúng tôi chủ yếu khảo sát cuốn “Đời đời ơn Bác ” (Tập thơ văn của thiểu nhi viết về Bác Hồ) (1970), Nxb Kim Đồng, Hà Nội và các tác phẩm của các tác giả được in trong các tập thơ: + Rộng vòng chim bay, Nxb Kim Đồng (1972) + Cánh én mùa xuân, Nxb Kim Đồng (1976) + Hạt gạo làng ta, Hội vãn học nghệ thuật tỉnh Hải Hưng (1983) + Gửi gió về cho nội, Nxb Kim Đồng (1977) Khi nghiên cứu về những bài thơ thiếu nhi viết về Bác Hồ, có rất nhiều 4 bài thơ thiếu nhi viết về Bác, song trong khuôn khổ một khóa luận tốt nghiệp, chúng tôi chỉ tập trung tìm hiểu về những bài thơ thiếu nhi viết về Bác Hồ trong thòi kỳ kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ. 5. Phương pháp nghiền cứu - Phương pháp phân tích tác phẩm văn học - Phương pháp thống kê - Phương pháp phân tích, tổng hợp văn học 6. Cấu trúc Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, và Tài liệu tham khảo, Nội dung khóa luận được triển khai thành các chương: Chương 1: Hình tượng Bác Hồ trong thơ thiếu nhi Chương 2: Tình cảm của thiếu nhi với Bác Hồ kính yêu 5 NỘI DUNG Chương 1: HÌNH TƯỢNG BÁC HỒ TRONG THƠ THIẾU NHI 1.1. Đôi nét về khái niệm hình tượng 1.1.1. Hình tượng Cùng với sự phát triển của loài người thì nghệ thuật - một hình thái ý thức xã hội cũng dần ra đời và phát triển mạnh mẽ để phục vụ chính xã hội loài người và chịu sự chi phối của con người trong mỗi thời đại khác nhau. Vai trò chính của nghệ thuật là phản ánh cuộc sống và nó lấy hình tượng làm phương tiện thể hiện. Ở bất cứ loại hình nghệ thuật nào từ kiến trúc, điêu khắc, âm nhạc, hội họa đến văn học đều dùng đến hình tượng nghệ thuật nhằm xây dựng bức tranh của đời sống, của số phận con người với những cảnh đời riêng biệt.. .Tất cả đều nhằm khơi dậy trong lòng người đọc, người xem ý nghĩ đối với đời sống bằng một tác động tổng hợp cả lí trí lẫn tình cảm. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam 2: Hình tượng là “một đối tượng được sản sinh ra bằng hư cấu hay sự tưởng tượng sáng tạo của nghệ sĩ theo những quan điểm thẩm mĩ nhất định giúp cho người ta hình dung được các sự vật, các sự kiện, những con người, như khả năng vốn có của chúng” [11, 305] Ở mỗi loại hình nghệ thuật, hình tượng được bộc lộ dưói nhiều dạng khác nhau muôn hình muôn vẻ tùy theo lí tưởng thẩm mĩ nói chung và quan điểm thẩm mĩ cụ thể của từng tác giả. Song dù khác nhau như thế nào, hình tượng vẫn có một cái chung: “HT là kết quả của một phương thức tái tạo một đối tượng nào đó (con người, hoàn cảnh xã hội, cảnh vật, vv...) dưới dạng một tương đồng hoặc gần gũi và phù họp vói khả năng tồn tại khách quan của chúng. Tùy theo từng bộ môn và thể loại, có HT con người như các nhân vật trong tác phẩm văn học, có HT hoàn cảnh, HT đồ vật, thiên nhiên, vv... Có cả HT của những cảm xúc, cảm giác. Có HT căn cứ vào hiện thực, lại có những loại HT tuy cũng có cơ sở xa hoặc gần trong thực tế, nhưng chủ yếu là sản 6 phẩm của trí tưởng tượng hay ức đoán của tác giả, như trong các truyện thần thoại, truyện viễn tưởng, truyện quái dị, YV. HT vừa là cơ sở tư tưởng vừa là cơ sở nghệ thuật của sự sáng tạo trong văn học” [11, 305] Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Tràn Đình sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2004) định nghĩa: “Hình tượng chính là khách thể đòi sống được nghệ sĩ tái hiện bằng tưởng tượng, sáng tạo trong những tác phẩm nghệ thuật” [4,147] 1.1.2. Hình tượng nghệ thuật Hình tượng nghệ thuật là “Sản phẩm của phương thức chiếm lĩnh, thể hiện và tái tạo hiện thực theo quy luật của nghệ thuật” [3, 122] Nghệ sĩ sáng tạo ra tác phẩm là để nhận thức và cắt nghĩa đòi sống, thể hiện tư tưởng và tình cảm của mình giúp con người thể hiện tư tưởng và tình cảm của mình, giúp con ngưòi thể nghiệm ý vị của cuộc đời và lĩnh hội mọi quan hệ có ý nghĩa muôn màu muôn vẻ của bản thân và thế giới xung quanh. Các nghệ sĩ không diễn đạt trực tiếp ý nghĩ và tình cảm bằng khái niệm trừu tượng , bằng định lí, công thức mà bằng hình tượng, nghĩa là bằng cách làm sống lại một cách cụ thể và gợi cảm những sự việc, những hiện tượng đáng là ta suy nghĩ về tính cách và số phận, về tình đời, tình người. Như vậy, hình tượng nghệ thuật chính là “Các khách thể đời sống được nghệ sĩ tái hiện một cách sáng tạo trong những tác phẩm nghệ thuật giá trị”. Giá trị trực quan độc lập là đặc điểm quan trọng của hình tượng nghệ thuật. Nó làm cho người ta có thể ngắm nghía, thưởng ngoạn. Đó có thể là một đồ vật, một phong cảnh thiên nhiên hay một sự kiện xã hội được cảm nhận. Nhưng nói tới hình tượng nghệ thuật người ta thường nghĩ tói hình tượng con người, bao gồm cả hình tượng một tập thể người (như hình tượng nhân dân hoặc hình tượng Tổ quốc) với những chi tiết biểu hiện cảm tính phong phú. “Hình tượng nghệ thuật tái hiện đời sống, nhưng không phải sao chép y 7 nguyên những hiện tượng có thật, mà là tái hiện có chọn lọc, sáng tạo thông qua trí tưởng tượng và tài năng của nghệ sĩ, sao cho các hình tượng truyền lại được ấn tượng sâu sắc, từng làm cho nghệ sĩ day dứt, trăn trở cho người khác” [3, 123] Cấu trúc của hình tượng nghệ thuật là sự thống nhất cao độ giữa các mặt đối lập: chủ quan và khách quan, lí trí và tình cảm, cá biệt và khái quát, hiện thực và lí tưởng, tạo hình và biểu hiện, hữu hình và vô hình. Cũng vì thế, hình tượng còn là một quan hệ xã hội - thẩm mĩ vô cùng phức tạp. Như vậy, ta thấy hình tượng nghệ thuật có cấu trúc phức tạp, nó là sự tổng họp trong nhiều mối quan hệ khác nhau nhưng, luôn thống nhất vói nhau trong một chính thể nhất định để góp phần thể hiện tư tưởng, tình cảm của nhà văn gửi gắm trong tác phẩm. Mỗi một loại hình nghệ thật sử dụng một loại chất liệu riêng biệt để xây dựng hình tượng. Văn học lấy ngôn từ làm chất liệu. Theo cuốn 150 Thuật ngữ văn học của Lại Nguyên Ân, hình tượng nghệ thuật là “Phương thức chiếm lĩnh và tái tạo hiện thực riêng biệt, vốn có và chỉ có ở nghệ thuật. Bất cứ hiện tượng nào được xây dựng lại một cách sáng tạo trong tác phẩm nghệ thuật, đều là hình tượng nghệ thuật; thông thường và quan trọng nhất là hình tượng con người(hình tượng nhân vật).” [1,142 ] Đặc trưng của hình tượng thường được xác định trong quan hệ vói hai lĩnh vực: hiện thực thực tại và quá trình tư duy. Với tư cách là sự phản ánh của hiện thực, hình tượng có tính xác thực cảm quan, có quảng tính không gian thòi gian, có tính hoàn chỉnh và tự tại của vật thể, cùng những đặc tính khác mà một khách thể đơn nhất thường có. Với tư cách là khách thể tinh thần chứ không phải là khách thể thực tại, hình tượng lại có một số đặc tính của khái niệm, biểu tượng, mô hình, giả thiết... hình tượng không chỉ phản ánh mà còn khái quát hiện thực, khám phá cái cốt lõi, cái bất biến, cái vĩnh cửu trong cái 8 đơn lẻ, nhất thời, ngẫu nhiên. “Đặc trưng nghệ thuật của hình tượng được xác định không chỉ bởi việc nó phản ánh và lí giải hiện thực thực tại, mà còn bỏi việc nó sáng tạo ra một thế giới mới, khác thế giới thường - thế giới mang tính hư cấu. Bên cạnh bản chất nhận thức, hình tượng còn có bản chất sáng tạo. Hình tượng nghệ thật là kết quả của hoạt động tưởng tượng, nhằm tạo ra một thế giới ứng với nhu cầu và định hướng về tinh thần của con người, ứng với hoạt động có chủ đích, với lý tưởng của con người.” [1, 142] Trong phạm vi khóa luận này, hình tượng nghệ thuật được nhắc đến đó là hình tượng Bác Hồ thông qua những hình ảnh và vẻ đẹp tâm hồn của Người. 1.2. Hình ảnh Bác Hồ trong thơ thiếu nhi Các em làm quen với hình ảnh Bác Hồ kính yêu từ khi còn rất nhỏ, khi bắt đầu nhận thấy ánh sáng, theo bàn tay của mẹ, các em đã nhìn thấy đôi mắt trìu mến, nụ cười hiền từ của Bác. Mỗi tuổi lớn thêm công ơn, tình nghĩa, lý tưởng của Bác lại càng lắng đọng, thấm sâu vào tâm hồn các em, hình ảnh Bác càng trở nên quen thuộc với mỗi bạn nhỏ. Bằng những cái nhìn ngây thơ, những lời nói thật lòng của con trẻ, không đưa đẩy, không luyến láy, ngôn từ mộc mạc, giản dị các em nhỏ đã xây dựng nên hình ảnh Bác một cách chân thực, gần gũi, đó là một người ông, người cha già hiền từ, giản dị, gần gũi và thân thương. Trong bài thơ Đón Bác của Đào Anh Tuấn, hình ảnh Bác đã được hiện lên một cách chân thật, gần gũi: Giọng Bác ấm, dịu, thấm từng lời câu. Em nhìn Bác trắng mái đầu Nhưng người Bác khỏe, da màu hồng tươi. Em nhìn Bác mỉm miệng cười Và như muốn nuốt từng lời Bác khuyên. Do tuổi tác và thêm những lo toan cho nhân dân, đất nước, mái tóc 9 Người đã bạc, tuy nhiên bạn nhỏ nhận thấy dù mái tóc đã bạc nhưng Bác vẫn khỏe, da vẫn hồng tươi. Dầu là một vị lãnh tụ nhưng trước nhân dân, Bác vẫn luôn ân cần, gần gũi với giọng nói ấm áp và khuyên răn những điều hay lẽ phải. Đặc biệt là Bác luôn mỉm cười thân ái với mọi người, nụ cười hiền hậu ấy đã tạo nên một nét riêng cho hình ảnh Người. Dù bạn nhỏ phạm phải sai lầm nhưng Bác vẫn luôn mỉm cười hiền hậu khiến cho bạn nhỏ tự giác nhận lỗi dù em là học sinh nghịch ngợm nhất trường: Em nhìn lên bốn bức tường uống trải Ảnh bác Hồ vẫn hiền hậu nhìn em vẫn vui tươi, môi nở nụ cười hiền, Mắt trong sáng lặng nhìn người cháu lỗi Suy nghĩ lại thế là em tự hối: Là học sinh sao lại dối với thầy! Nhìn Bác Hồ em biết nói sao đây?... Rồi hồi hộp em đứng lên tự thú. {Tự giác, Nguyễn Văn Lợi) Khi nhìn ảnh Bác treo trên tường, em có cảm giác như Bác đang nhìn mình với nụ cười hiền hậu, ánh mắt trong sáng như nhìn thấu những sai lầm của cháu. Mặc dù có lỗi, nhưng Bác vẫn nhìn bạn nhỏ vói ánh mắt hiền hậu, khoan dung, chính điều đó đã giúp bạn nhỏ đứng lên nhận lỗi, đó chính là điều mà Bác luôn răn dạy mỗi người. Mỗi bạn nhỏ lại có ấn tượng riêng về Bác. Với Nguyễn Xuân Hy, khi có dịp được gặp Bác, ngay từ đàu, em đã ngắm mãi chòm râu, mái tóc bạc của Bác để xem Bác có giống như trong ảnh mà em thường được nhìn thấy. Hình ảnh ngưòi cha già của dân tộc với chòm râu, mái tóc bạc của Bác đã trở nên hình ảnh hết sức gần gũi với mọi người. “Em ngắm mãi chòm râu, tóc bạc Đe nhớ xem Bác giống ảnh không nào.” 10 Và hình ảnh Bác luôn giản dị trong mọi hoàn cảnh cũng tạo nên nét riêng của Người. Hình ảnh Bác với bộ quần áo màu nâu sờn bạc, đôi dép cao su, chiếc mũ cối là hình ảnh quen thuộc của Bác. Và trong bài thơ này, ta lại bắt gặp hình ảnh Bác Hồ kính yêu giản dị trong bộ áo nâu, xắn quần lội bùn thăm quê mình đã được bạn nhỏ miêu tả một cách chân thật, giản dị: Giản dị sao bộ quàn áo vải nâu Màu nông dân, màu quê hương đát nước Bác xắn quần trên đồng rảo bước Bùn dưới chân ngời nắng chói lòa Có những bạn dù chưa được gặp Bác nhưng lại có sự miêu tả về Bác một cách rất chân thực. Như trong bài Ảnh Bác, Trần Đăng Khoa dù chưa từng gặp Bác dù chỉ một lần, chỉ nhìn ảnh thôi, Trần Đăng Khoa đã sáng tác nên một bài thơ về Người thực sự thành công. Bởi cũng như mọi gia đình khác ở miền Bắc lúc bấy giờ đều có tấm ảnh Bác. “Nhà em treo ảnh Bác Hồ Bên trên là một lá cờ đỏ tươi” Hình ảnh Bác Hồ luôn gắn với lá cờ Tổ quốc, và đó cũng chính là biểu tượng thiêng liêng của đất nước. Không phải vì thể thơ lục bát dễ nhớ mà vì cái nhìn ngây thơ, lối nói thật lòng của con trẻ, không đưa đẩy, không luyến láy, nhưng dễ dàng nhập cuộc với độc giả: “Ngày ngày Bác mỉm miệng cười Bác nhìn chúng cháu vui chơi trong nhà Ngoài sân có mấy con gà Ngoài vườn có mấy quả na chín rồi”. Hình ảnh Bác luôn mỉm miệng cười nhìn “chúng cháu” vui chơi đã làm cho hình ảnh Bác, vị lãnh tụ kính yêu ttở nên gần gũi. Với hình ảnh liên tưởng 11 na đã chín và gà đang tìm mồi ngoài sân, cậu bé mách Bác bằng những lời thủ thỉ tâm tình như với những người thân yêu trong gia đình. Ở khổ thơ cuối, Trần Đăng Khoa lại như được Bác Hồ khuyên bảo và đưa “thông điệp” đó tới các bạn cùng trang lứa vói tinh thần tuổi nhỏ làm việc nhỏ và nêu cao tinh thần cảnh giác: “Em nghe như Bác dặn lời Cháu ơi đừng có chơi bời đâu xa Trồng rau quét bếp, đuổi gà Thấy tàu bay Mỹ nhớ ra hầm ngồi”. Hai dòng thơ cuối của bài thơ nói sự thấu hiểu sâu sắc của Trần Đăng Khoa với sự vất vả của Bác khi phải lo toan rất nhiều việc. Tuy nhiên, trước các bạn nhỏ, Bác vẫn luôn tươi cười: “Bác lo bao việc trên đời, Ngày ngày Bác vẫn mỉm cưòi với em” Tràn Đăng Khoa tuy chưa được gặp Bác nhưng đâu em cũng thấy Bác: Vâng, Bác ở Hà Nội Ai bảo Bác xa vòi vọi Em thấy Bác ở bên Dù đang học ngoài hiên Hay khi em nằm ngủ Mắt chỉ cần hé mở Là thấy Bác cười rồi. (Bác Hồ đang nói, Tràn Đăng Khoa) Dù về khoảng cách địa lý, Bác ở Hà Nội ở khá xa Hải Dương, nơi Trần Đăng Khoa sinh sống, nhưng với sự tưởng tượng của mình, Khoa cảm thấy Bác vẫn luôn ở bên mọi lúc, mọi nơi và hình ảnh Bác mỗi khi xuất hiện trước mọi người luôn là hình ảnh hiền từ với nụ cười đầy trìu mến. Khi Bác mất, những hình ảnh đó không những không hề phai nhạt đi mà càng khắc sâu hơn trong lòng mỗi người dân Việt Nam. Bác mất là điều Hồng Kiên không thể tin khi mà: Ngước nhìn ảnh Bác treo kia vẫn đôi 12 mắt sáng có gì khác đâu “Ảnh trên tường vẫn sáng choang vẫn chòm râu bạc Bác đang mỉm cưòi. Không đâu đài báo nhầm rồi Bác hồ vẫn khỏe, vẫn cười nhìn em”. (Bác có thấu lòng trẻ thơ, Nguyễn Hồng Kiên) Hình ảnh Bác hiện lên trong mắt em đẹp đẽ đến mức em cho rằng Bác mất là điều không thể tin được. Phạm Hồng Liên nhớ lại hình ảnh Bác khi đã có lần được gặp Bác: “Cháu thấy Bác ngồi Vầng trán cao cao, Mắt Bác như sao, Chòm râu trắng xóa. Bác nhìn chúng cháu Bác nở nụ cười” (Bác còn sống mãi, Phạm Hồng Liên) Hình dáng đó không hề phai nhạt, mà luôn ở trong tim hàng triệu người dân Việt Nam. Hình ảnh Bác với đôi mắt sáng ngòi, chòm râu bạc phơ và vẫn luôn nở nụ cưòi hiền hậu khiến cho nỗi tiếc thương Bác càng sâu nặng hơn: “vẫn đôi mắt sáng ngời Chòm râu phơ phơ bạc Hiền hậu một nụ cười” {Nhớ Bác, Nguyễn Xuân Hoa) Hình ảnh Bác trong con mắt trẻ thơ thật đẹp, thật giản dị nhưng chứa chan niềm yêu quý đối vói Người. 13 1.3. Vẻ đẹp tâm hồn của Bác 1.3.1 Tình cảm của Bác với thiếu nhi Trong muôn vàn tình thương yêu của Người dành cho nhân dân, có một tình yêu lớn dành cho thiếu niên nhi đồng. Thiếu niên và nhi đồng luôn được Bác dành cho một tình yêu thương đặc biệt, lòng yêu thương và những lời dạy của Người là tài sản vô giá đối với thiếu nhi. Sinh thời, dù luôn bận bịu với việc nước nhưng Bác Hồ vẫn dành nhiều thời gian quan tâm đến thế hệ măng non, bởi theo Bác những thế hệ này là những chủ nhân tương lai của đất nước: Muôn vạn tình thương yêu các cháu Bác dành vun xới những mầm non {Bác Hồ ơi!, Trần Đăng Khoa) Tình thương yêu bao la của Bác Hồ đối với thiếu niên, nhi đồng được thể hiện sâu sắc, phong phú, sinh động ở cả lời nói và việc làm, nhất là ở những lá thư, những bài thơ Bác gửi cho các cháu vào dịp Tết Trung thu và ngày Quốc tế Thiếu nhi 1-6 hằng năm. Mỗi dịp Trung thu, thiếu nhi lại mong thư Bác: Chúng em mong nhất Trung thu Được đón trăng, lại được thư Bác Hồ. Quả bưởi vườn mẹ rõ to, Xung quanh bánh kẹo Bác cho ngày rằm. {Trung thu, Châu La Việt) Bởi các em biết, Trung thu nào Bác cũng đều gửi thư và quà cho các em. Mỗi bài thơ, bức thư, câu nói của Bác, bên cạnh tình yêu thương bao la còn là những lời chỉ bảo dặn dò từng li, từng tí đối với thiếu niên nhi đồng: “Ghi sâu lời Bác dặn: Luôn luôn yêu lao động, Cố học hành chăm ngoan, 14 Cho bạn mến, thày thương Cho má, ba yêu quý”. {Xuân về em ước mơ, Một em Việt kiều ở Thái Lan về nước) Tình yêu thương bao la rộng lớn của Bác Hồ không chỉ dành cho thiếu nhi Việt Nam mà còn dành cho cả thiếu nhi trên toàn thế giới. Đó là lòng nhân ái, tình yêu thương bao la của Người dành cho nhân loại. Người đã dành tất cả tấm lòng yêu thương của người ông cho hàng triệu trẻ em Việt Nam mà Người đã gọi một cách trìu mến là cháu. Tình cảm, sự quan tâm, chăm sóc, giáo dục của Người qua những bức thư, lời dạy, bài viết gửi thiếu niên nhi đồng cả nước nhân dịp Tết thiếu nhi, ngày khai trường, Tết trung thu.... mãi mãi khắc sâu, trở thành tài sản vô giá đối với thế hệ măng non nói riêng và đối với dân tộc Việt Nam nói chung. Dù Bác đã đi xa mãi mãi, nhưng những vàn thơ, lời dạy của Bác vẫn còn sống mãi với thời gian, thấm đượm tình yêu thương bao la của Người đối với các thế hệ măng non của đất nước. 1.3.2 Tình cảm của Bác với nhân dân Hồ Chí Minh, Người đã cống hiến trọn cuộc đòi mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam. Có lẽ hơn ai hết, Bác là ngưòi sớm nhận thức được sức mạnh, vai trò của nhân dân trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, và cũng hơn ai hết Người đã khẳng định mục tiêu của cuộc cách mạng dân tộc là độc lập tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Chính vì lẽ đó Bác luôn dành tình cảm đặc biệt đối với nhân dân, quan tâm, chăm lo đến cuộc sống của nhân dân Đi tới bất cứ nơi đâu, Bác cũng đều quan tâm đến đời sống của nhân dân từ vật chất đến tinh thần: Rồi một buổi sớm mùa xuân Cán bộ tói bản, cờ hồng phất cao. 15 Miệng thưa: “Tất cả đồng bào, (Lời nói êm ái thấm vào tận tim) Bác Hồ bảo chúng tôi lên Để thưa chuyện với bà con nhiều điều. Giờ đây hết khổ hết nghèo, Mọi người nhớ lấy những lời bác răn: Trẻ già đều phải lo chăm Sao cho lúa bắp gấp năm, gấp mười. Quanh năm đồng mộng xanh tươi. Từ nay chấm dứt cuộc đòi khổ đau”. {On Bác như trời bien, A Din) Đến với một bản ở Lào Cai, Người đã tiếp xúc trực tiếp với người dân để biết được đời sống của bà con nơi đây từ đó đưa ra những lòi khuyên thích hợp để nhân dân xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn. Vừ Me Dìn với bài Đời đời nhớ cm Bác đã nói lên lòng biết ơn với Bác đồng thời nói lên sự quan tâm của Người đến với vùng núi xa xôi Hà Giang: về đây cái chữ Bác Hồ, Chữ yêu, chữ quí, cháu chờ từ lâu. Dù công việc bận rộn nhưng mỗi lần có dịp về các địa phương công tác, Người lại dành chút ít thời gian để quan tâm đến đời sống của nhân dân. Những lời khuyên của Người giản dị mà đày bổ ích, với cách nói luôn dịu dàng, gần gũi khiến cho Bác càng trở nên gần gũi như người thân trong gia đình: Lời Bác nhắc nhở mọi người Dịu dàng thắm thiết như lòi ông, cha. (Đón Bác, Đào Anh Tuấn) Sự gàn gũi ấy càng thể hiện rõ trong hai câu thơ: Bác nhìn tất cả mọi người, hỏi chung: 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan