TRƯỜNG ĐẠI HỌC s ư PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VÃN
BÙI THỊ HỔNG
NGHỆ THUẬT XÂY DựNG NHÂN VẬT
TRONG TÁC PHẨM KỊCH CỦA VICTO
HUYGồ
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
•
•
*
9
Chuyên ngành: Văn học nước ngoài
Người hướng dẫn khoa học
ThS. ĐỖ THỊ THẠCH
HÀ NỘI - 2010
r/ỉùi í7Ai '3f)ồ!tụ
1
~Klioa (ìitịữ 0Oătt
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thế kỉ XIX đầy biến động, giữa nước Pháp - xứ sở được coi như
là nơi bắt đầu một kỉ nguyên mới của nhân loại do cuộc cách mạng tư sản,
Victo Huygô xứng đáng được tôn vinh là đứa con tinh thần của thời đại. Bước
vào văn đàn lúc mười bảy tuổi, với cuộc sống kéo dài trong hơn 80 năm đầy
ắp những biến cố sôi động, V.Huygô đã có mãnh lực thu hút áp đảo độc giả
trên nhiều lĩnh vực khác nhau của văn chương nghệ thuật và cường độ sáng
tạo hiếm hoi trong lịch sử văn học xưa nay. Huygô là hiện thân của chủ nghĩa
lãng mạn.
Sự nghiệp sáng tác của Huygô bao trùm lên cả ba thể loại văn học là
thơ, kịch, tiểu thuyết. Dù ở thể loại nào ông cũng đạt được những thành tựu
lớn lao. Trong hơn 60 năm sáng tác, ông đã để lại mười vở kịch, mười tiểu
thuyết lớn và truyện vừa, mười lăm tập thơ, ngoài ra còn hàng trăm bài chính
luận, lý luận văn chương, hàng nghìn bức thư tình, vài ba nghìn tranh vẽ. Sự
phong phú trong sáng tác của Huygô bắt nguồn từ mối quan hệ của ông với
đời sống nhân dân, sự tham gia trực tiếp vào các phong trào chính trị và văn
hóa tiến bộ.
Neu như ở thế loại thơ ca, tiếu thuyết, V.Huygô được mệnh danh là nhà
thơ lớn, nhà tiểu thuyết vĩ đại thì ở thể loại kịch, với nhiều vở kịch tiêu biểu
như Crômoen (1827), Hecnani (1830% Mariông Đơlormơ (1831), Ruy Blas
(1838)... đã đưa tên tuổi của V.Huygô trở thành người đứng đầu tao đàn lãng
mạn. Ở lĩnh vực này, Huygô đã khẳng định được tên tuổi của mình, ghi lại
dấu ấn thành công trước chủ nghĩa cố điến khi mà ảnh hưởng của trào lưu này
còn khá sâu đậm trong văn học đương thời.
rJLiìti ^Ĩlĩi 7Ị(>ồiuf
2
DChtìa Q(í/Ũ ồiuf
10
~Klioa (ìltịữ 0Oătt
nó “nhân vật chính là người dẫn dắt người đọc vào một thế giới riêng của đời
sống trong một thời kỳ lịch sử nhất định” [5, 126].
Tính cách của nhân vật mang vai trò hết sức quan trọng đối với cả nội
dung và hình thức của tác phẩm văn học.
về nội dung: nhân vật với tính cách của nó là phương tiện để nhà văn
thế hiện tư tưởng của tác phấm, nó có nhiệm vụ cụ thế hóa sự thực hiện của
chủ đề tác phấm, tức là thông qua hành động và mối liên hệ giữa các tính
cách, người đọc sẽ có những khái quát đầu tiên về mặt nhận thức tư tưởng.
v ề hình thức: nhân vật với tính cách của nó quyết định phần lớn các
yếu tố như kết cấu, ngôn ngữ, các biện pháp thể hiện...về luận điểm này
Hêghen đã từng nói “tính cách là điểm trung tâm của mối liên hệ giữa nội
dung và hình thức”. Như vậy, tính cách ở một phương diện nào đó đã trở
thành cầu nối giữa hai mặt nội dung và hình thức của tác phẩm văn chương.
Tuy nhiên, tính cách nhân vật mang tính chất lịch sử, tức là mỗi thời
đại khác nhau tính cách được đề cao hay coi nhẹ phụ thuộc vào nhận thức và
quan điểm lịch sử, có thể cùng một tính cách trong thời kỳ này được tôn sùng,
ca ngợi thì đến sau không hẳn được đánh giá như vậy.
Đó là những vai trò, chức năng của nhân vật trong tác phẩm văn
chương. Với những vai trò như thế, chúng ta có thể khắng định nhân vật là
yếu tố không thế thiếu trong tác phẩm văn chương, góp phần tạo nên sự hấp
dẫn và sức sống bền lâu cho tác phấm văn chương.
1.1.3. Các loại nhân vật văn học cơ bản
Nhân vật văn học là hiện tượng hết sức đa dạng. Các nhân vật thành
công thường là những sáng tạo độc đáo, không lặp lại. Nhà văn trong quá
trình sáng tác, muốn xây dựng nhân vật theo phong cách riêng của mình vì thế
nhân vật văn học rất phong phú. Nhưng nhìn tổng thể trong lịch sử văn học từ
trước tới nay, các nhà nghiên cứu lí luận văn học đã chia thế giới nhân vật
rJLiìti ^Ĩlĩi 7Ị(>ồiuf
11
DChtìa (ìltịữ 0Oătt
thành các kiểu loại khác nhau để người đọc dễ tiếp nhận, dễ phân tích và
khám phá theo tiêu chí như: nội dung, cấu trúc, chức năng của nhân vật.
Thứ nhất, dựa trên vai trò của nhân vật đối với cấu trúc và cốt truyện
của tác phẩm có nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật trung tâm. Nhân vật
chính là nhân vật đóng vai trò chủ chốt, xuất hiện nhiều, giữ vị trí then chốt
của cốt truyện hoặc tuyến cốt truyện. Đó là con người liên quan đến các sự
kiện chủ yếu của tác phấm, là cơ sở đế tác giả triển khai đề tài cơ bản của
mình. Trong các nhân vật chính lại có thế nhận thấy nối lên nhân vật trung
tâm xuyên suốt tác phẩm từ đầu đến cuối về mặt ý nghĩa. “Đó là nơi quy tụ
các mối mâu thuẫn của tác phẩm, là nơi thể hiện vấn đề trung tâm của tác
phẩm” [13, 71]. Trong tác phẩm văn chương, ngoài nhân vật chính còn lại là
nhân vật phụ mang các tình tiết, sự kiện, tư tưởng có tính chất phụ trợ, bổ
sung.
Thứ hai, dựa trên phương diện hệ tư tưởng, về quan hệ đối với lí tưởng
nhân vật lại có thế chia ra làm nhân vật chính diện (nhân vật tích cực) và nhân
vật phản diện (nhân vật tiêu cực). Hai kiểu nhân vật này cũng mang tính lịch
sử. Nhân vật chính diện mang lí tưởng, quan điểm tư tưởng, đạo đức tốt đẹp
của tác giả, của thời đại mà tác giả khẳng định và đề cao như những tấm
gương về phấm chất tốt đẹp của con người một thời. Trái lại, nhân vật phản
diện mang những phấm chất xấu xa trái với đạo lí và lí tưởng, đáng lên án,
phủ định.
Ngoài hai cách chia phố biến như vậy về nhân vật. Dựa vào kiếu cấu
trúc nhân vật, người ta lại có thể nói tới nhân vật chức năng, nhân vật loại
hình, nhân vật tính cách và nhân vật tư tưởng. Trong phạm vi có hạn của khóa
luận, chúng tôi xin không bàn sâu về những loại nhân vật này. Việc phân chia
nhân vật thành các kiểu loại khác nhau như trên, tất nhiên đều mang tính chất
tương đối và ở bình diện nào đó còn mang tính chất lịch sử. Nhưng tựu chung
rJLiìti ^Ĩlĩi 7Ị(>ồiuf
12
DChtìa (ìltịữ 0Oătt
lại, điều cần chú ý nhất vẫn là khả năng phản ánh và tác động đến cuộc sống,
khả năng hấp dẫn, lôi cuốn người đọc của nhân vật.
1.1.4. Nhân vật trong tác phấm kịch
Nói như nhà nghiên cứu văn học Huỳnh Lý: “Chúng ta không giảng
dạy kịch với tư cách là một loại hình nghệ thuật mà chỉ giảng dạy kịch về
phương diện văn học” [3, 239] thì nhân vật kịch chúng ta xem xét cũng không
phải là diễn viên trên sân khấu được hóa trang, diễn xuất theo sự chỉ đạo của
đạo diễn mà là nhân vật của kịch bản văn học, chính xác hơn là một nhân vật
văn học bởi kịch bản văn học cũng là một loại văn.
Ở mỗi loại văn khác nhau thì đặc trưng nhân vật cũng khác nhau. Neu
nhân vật trong tác phẩm tự sự được miêu tả một cách tỉ mỉ, mang nhiều màu
sắc thẩm mĩ, nhân vật trong tác phẩm trữ tình thiên về khám phá cảm xúc,
tình cảm thì nhân vật kịch lại có những nét khu biệt đặc thù. Với mục đích
viết để diễn trên sân khấu, kịch bản văn học chịu sự chi phối của không gian,
thời gian do đó buộc nhân vật cũng có những đặc điếm phù họp với thế loại.
Đặc điểm nổi bật thứ nhất: Nhân vật kịch xuất hiện vào lúc dòng chảy
của cuộc đời đang cao trào, sôi động nhất. Bởi vì, trong truyện, tiểu thuyết
không hạn định về không gian, thời gian nên nhà văn có thế đề cập đến nhân
vật một cách tỉ mỉ, kỹ lưỡng theo ý đồ chủ quan của nhà văn, những mối xung
đột của các nhân vật được xem xét từ trạng thái manh nha, âm ỉ rồi đến giai
đoạn đối lập, đấu tranh xung đột... Nhưng kịch do hạn định của không gian,
thời gian nên khi nhân vật xuất hiện trong tác phấm cũng là lúc hoàn cảnh,
mâu thuẫn của cốt truyện kịch đã phát triển tới chỗ xung đột, đòi hỏi phải giải
quyết. Đó chính là lúc dòng chảy của cuộc đời không êm ả mà đã có dòng
xoáy bắt đầu dữ dội. Trong hoàn cảnh cam go ấy, các nhân vật mới có cơ hội
tự bộc lộ mình rõ ràng và chính xác nhất.
rJLiìti ^Ĩlĩi 7Ị(>ồiuf
13
~Klioa (ìltịữ 0Oătt
Đặc điểm riêng biệt thứ hai của nhân vật trong tác phẩm kịch: Nhân vật
kịch là loại nhân vật hành động. Neu trong tác phấm trữ tình mọi tác động của
môi trường sống đều làm cho nhân vật nảy sinh tình cảm, cảm xúc rung động
thì trong tác phẩm kịch lại dẫn đến nhân vật hành động (tất nhiên không phải
bất cứ sự tác động nào của hoàn cảnh sống cũng dẫn đến nhân vật hành động).
Bởi nhân vật kịch có hành động thì mới đi tới giải quyết mâu thuẫn, xung đột
và cũng qua hành động là cơ sở đế nhân vật tự bộc lộ tính cách của mình.
Chúng ta cần hiếu hành động ở đây bao gồm cả hành vi cử chỉ, việc làm, cả
hành động ngôn ngữ (tức lời nói của nhân vật). Lời nói của nhân vật trong
kịch mang tính hành động khá rõ nét, thông qua ngôn ngữ ta có thể thấy hành
động tấn công - phản công, thăm dò - lảng tránh, chất vấn - chối cãi, thuyết
phục - phủ nhận, đe dọa - coi thường, cầu xin - từ chối... cố t truyện của kịch
rất tập trung, lại diễn ra theo một nhịp độ rất gấp rút nên những hành động
cũng dồn dập, cô đúc hơn, liên tiếp hành động nọ làm nảy sinh hành động kia.
Các hành động ở những mức độ khác nhau tùy từng tính cách và mức độ căng
thẳng của mâu thuẫn, xung đột.
Nét đặc trưng thứ ba của nhân vật kịch đó là: nhân vật kịch có sự biến
đối số phận dễ dàng, nhanh chóng cũng vẫn do tính quy phạm của không
gian, thời gian trong kịch, buộc nghệ sỹ phải thế hiện được tất cả các mâu
thuẫn, xung đột cùng với việc giải quyết các mâu thuẫn, xung đột ấy trong
một thời gian nhất định. Cho nên cùng với mỗi lần mâu thuẫn, xung đột được
giải quyết lại là một lần số phận nhân vật thay đổi. Trong thơ trữ tình, do cảm
xúc đóng vai trò chủ yếu nên biến đổi trong thơ chủ yếu là biến đổi về tâm
trạng, không có biến đối số phận cũng như con đường đời của nhân vật.
Do đặc điếm cốt lõi của kịch là những mâu thuẫn, xung đột nên nhân
vật kịch thường được khắc họa tính cách rất nổi bật. Mỗi nhân vật kịch
thường mang ít phẩm chất thẩm mĩ nhưng phẩm chất đó phải nổi trội.
rJLiìti ^Ĩlĩi 7Ị(>ồiuf
14
DChtìa (ìltịữ 0Oătt
Timôphêép đã từng giải thích: “Hình tượng kịch phản ánh những mâu
thuẫn của cuộc sống đã chín muồi gay gắt nhất và đã được xác định. Chính vì
vậy nó đã được xác định trên cơ sở nhấn mạnh trong tính cách con người sự
cảm xúc phiến diện do các mâu thuẫn trên quy định” [13, 254]. Từ sự nổi bật
về tính cách như thế, các nhân vật dễ dàng đứng thành các tuyến riêng trong
mỗi tuyến, nhân vật có những đặc điếm chung nào đó, cũng đối lập mâu thuẫn
với tuyến khác nhưng tính cách nối bật và tính cách ít phấm chất thấm mĩ của
nhân vật kịch không có nghĩa rằng nhất nhất mọi hàng động, suy nghĩ của
nhân vật đều đơn giản, một chiều, mà xoay quanh nét nổi bật còn có những
tính cách khác vừa tương quan, vừa tương phản làm cho gương mặt nhân vật
sinh động và đa dạng hơn.
Như vậy, từ những đặc điểm chung về nhân vật, vào kịch đã có những
nét riêng, đặc thù mang màu sắc thể loại. Nhà văn là người cần nhạy cảm đối
với điều đó đế xây dựng nhân vật trong tác phẩm của mình sao cho phù hợp
với thế loại.
1.2. Lý luận về nghệ thuật xây dựng nhân vật kịch
Như đã trình bày ở trên, nhân vật ngoài chức năng quan trọng là
phương tiện đế nhà văn gửi gắm ý tưởng nghệ thuật của mình, còn có vai trò
quyết định tới phần lớn những yếu tố hình thức của tác phấm văn chương. Vì
thế qua mỗi yếu tố hình thức của tác phẩm, ta sẽ thấy được cụ thể nghệ thuật
xây dựng nhân vật của tác giả.
Cũng giống như các tác phấm tự sự, trữ tình, các tác phẩm kịch cũng
phải cần đến các biện pháp nghệ thuật thể hiện nhân vật. Đe xây dựng được
nhân vật trong tác phấm kịch một cách sinh động, hấp dẫn, các tác giả sử
dụng các thủ pháp nghệ thuật sao cho nhân vật hiện lên trước mắt người đọc
càng cụ thể, càng rõ nét thông qua càng nhiều các giác quan càng tốt. Các
phương thức thể hiện nhân vật kịch hết sức đa dạng, trong đó phải kể đến bốn
rJLiìti ^Ĩlĩi 7Ị(>ồiuf
15
DChtìa (ìltịữ 0Oătt
yếu tố nghệ thuật sau : Biện pháp đối thoại, biện pháp độc thoại, biện pháp tạo
xung đột kịch tính, biện pháp tương phản. Việc sử dụng các biện pháp nghệ
thuật này “gắn liền với việc xây dựng hình tượng nhân vật toàn vẹn và sinh
động” [13,27].
1.2.1. Biện pháp đối thoại
Theo “Từ điển Tiếng Việt” của Viện ngôn ngữ do Hoàng Phê chủ biên
thì “Đối thoại là hình thức nói chuyện qua lại giữa hai hay nhiều người với
nhau” [16, 86].
Cuốn “Lý luận văn học”, NXBGD, H, 1987 do Phương Lựu chủ biên,
cũng chỉ ra rằng: “Đối thoại trong văn chương là hình thức nhà văn để các
nhân vật trò chuyện, trao đổi, thậm chí tranh luận gay gắt với nhau về một vấn
đề nào đó”. Các mối quan hệ giữa các nhân vật càng đa dạng, các nhân vật
đối thoại càng nhiều thì càng bộc lộ được những đặc điểm thuộc về tính cách,
cá tính, nghề nghiệp, giai cấp, lứa tuổi, giới tính...của mình. Sự bộc lộ đó qua
cả nội dung lời đối thoại, qua cả cách (hình thức) nhân vật đối thoại. Chẳng
hạn, trong vở kịch Hamlet của Secxpia, ta có thể thấy được những đặc điểm
về tính cách của nhân vật Hamlet và Clôđiut qua đoạn đối thoại ở hồi V,
cảnh 1.
Vua : Chao ôi ỉ Chao ôi! Hamlet...
H a m le t: Một gã lẩy con bọ đã xơi thịt vua làm mồi câu cá rồi lại ăn
con cá đã xơi mồi bọ.
Vua : Nhà ngươi nói thế có ỷ gì ?
H a m le t: Có nghĩa gì đâu, chang qua cũng chỉ muốn nói cho ngài hay
một ông vua đã ngự giả chu du như thế nào trong bao tử của một anh chàng
hành khất.
Ở màn đối thoại này, Hamlet dùng một thứ ngôn ngữ sắc nhọn, lạnh
lùng, lột trần ngay chân tướng của Clôđiut. Hamlet như muốn vạch mặt chỉ
rJLiìti ^Ĩlĩi 7Ị(>ồiuf
16
DChtìa (ìltịữ 0Oătt
tên kẻ thù, đã gọi Clôđiut là “một thằng sát nhân, một gã đê tiện, một tên vô
lại...m ột tên vua hề, một tên ăn cắp ngai vàng và quyền uy, xoáy trộm vương
miện trên giá cao đút vào túi áo”. Qua đối thoại, Hamlet luôn thế hiện một
con người đấu tranh - con người tiên tiến - lý tưởng của thời đại Phục Hưng.
Có thế nói, đối thoại là một biện pháp nghệ thuật quan trọng trong việc
thế hiện nhân vật kịch. Arixtôt đã từng nói “Kịch sẽ trở nên vô nghĩa nếu
không có xung đột và càng vô nghĩa hơn nếu ở đó không có các nhân vật đối
thoại với nhau”. Vì vậy, đối thoại trong kịch nhiều về số lượng và quan trọng
về chất lượng, khả năng thể hiện nội dung của biện pháp đối thoại là rất lớn.
Với ngôn ngữ đối thoại của mỗi nhân vật, biện pháp thể hiện nghệ thuật này
có tác dụng cá biệt hóa các nhân vật, làm cho mỗi nhân vật có một đặc điểm
riêng, không nhân vật nào giống nhân vật nào.
1.2.2. Biện pháp độc thoại
Theo “Từ điển thuật ngữ văn học” thì “Độc thoại (hay độc thoại nội
tâm) là lời phát ngôn của nhân vật nói với chính mình, thế hiện quá trình tâm
lý, nội tâm, mô phỏng hoạt động, cảm xúc suy nghĩ của con người trong dòng
chảy trực tiếp của nó” [7, 122].
Trong cuốn “150 thuật ngữ văn học”, tác giả Lại Nguyên Ân cho
rằng: “Độc thoại nội tâm là phát ngôn của nhân vật nói với bản thân mình,
trực tiếp qua trình phản ánh tâm lý bên trong, kiếu độc thoại thầm (hoặc “lấm
bấm”) mô phỏng hoạt động suy nghĩ, xúc cảm của con người trong dòng chảy
trục tiếp của nó” [1, 126].
Trong cuốn “ 7%i pháp tiểu thuyết Lep T ô n xtô r, giáo sư Nguyễn Hải
Hà đã đưa ra một định nghĩa về độc thoại nội tâm: “Độc thoại nội tâm là tiếng
nói bên trong tâm hồn nhân vật, là ý nghĩ thầm kín, là lời tự nhủ thầm hoặc
nhân vật nói to lên với mình. Độc thoại nội tâm bộc lộ đời sống tinh thần của
nhân vật, làm hiện rõ con người bên trong của nó” [6, 87].
rJLiìti ^Ĩlĩi 7Ị(>ồiuf
17
DChtìa (ìltịữ 0Oătt
Trong tác phẩm kịch, biện pháp này thường được sử dụng khi nhân vật
rơi vào những hoàn cảnh éo le, nhiều kịch tính xung đột, rơi vào trạng thái cô
lập, đòi hỏi nhân vật phải băn khoăn trăn trở đế đưa ra quyết định cuối cùng.
Vở kịch Hamlet của Secxpia nổi tiếng với những đoạn độc thoại nội tâm
“Sống hay không sống”. “Sống hay không sống đó là vấn đề, chịu tất cả
những viên đá, mũi tên của số mệnh phũ phàng hay là cầm vũ khí đứng lên
mà chống lại với sóng gió của bể khổ, chống lại để mà tiêu diệt chúng đi,
đằng nào quý hơn ?” (hồi III, cảnh 1). Lời độc thoại nội tâm của Hamlet chính
là câu hỏi xoáy sâu vào mỗi con người chân chính ở mọi thời đại và buộc họ
phải suy nghĩ. Hamlet trở thành bất tử một phần từ chính những độc thoại nội
tâm này bởi nó đã thể hiện một thế giới nội tâm phong phú, một cuộc giằng co
quyết liệt trong một con người về quan niệm làm người.
Như vậy, cùng với những biện pháp thể hiện nhân vật, biện pháp độc
thoại nội tâm hoàn thiện nhân vật ở mức độ sâu hơn: đó là chiều sâu tâm hồn
nhân vật. Đây cũng chính là ưu thế của văn chương so với tất cả các loại hình
nghệ thuật khác. Neu như hội họa, điêu khắc chỉ nhấn mạnh về ngoại hình,
vóc dáng của đối tượng, âm nhạc tác động trực tiếp vào thính giác để người
tiếp nhận tự suy ra hoàn toàn cái hồn của đối tượng thì nhờ độc thoại nội tâm,
văn chương có khả năng vượt trội trong miêu tả đời sống tâm lý - cái trừu
tượng, khó nắm bắt của đối tượng. Những suy nghĩ, tình cảm tinh tế của nhân
vật sinh động, tùy thuộc vào khả năng sáng tạo của nhà văn chứ không bị hạn
chế như việc sáng tạo trong các ngành nghệ thuật khác.
1.2.3. Biện pháp tạo xung đột kịch tính
Biện pháp tạo xung đột kịch tính là biện pháp không thế thiếu trong các
tác phấm kịch. Dù ở bất kì thời đại nào, tính xung đột kịch tính cũng là yêu
cầu quan trọng để tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm kịch.
rJLiìti ^Ĩlĩi 7Ị(>ồiuf
18
DChtìa (ìltịữ 0Oătt
Cuốn “Lý luận văn học” NXBGD, H, 1987 do Phương Lựu chủ biên
đã chỉ ra rằng “Biện pháp tạo xung đột kịch tính là việc nhà văn đặt nhân vật
vào tình huống mang tính kịch, tức nó có vấn đề. Hoàn cảnh đó có thế được
tạo dựng một cách đa dạng, đó là một trạng thái tình cảm cao độ, một nghịch
lý ngang trái, một tình cảnh éo le, trớ trêu của cuộc sống mà dẫn đến mâu
thuẫn” [13,400].
Mâu thuẫn xung đột có thế từ trong chính bản thân nhân vật, có thế
giữa các nhân vật với nhau, hoặc giữa nhân vật với hoàn cảnh. Qua cách nhân
vật đối diện với tình huống ấy và giải quyết tình huống để thoát khỏi xung
đột, chúng ta nhìn nhận được bình diện nào đó tính cách nhân vật.
Biện pháp nghệ thuật này triệt để sử dụng mâu thuẫn làm nguyên tắc
xây dựng các mối quan hệ tương tác giữa các nhân vật. Trong tác phẩm kịch
thì việc xây dựng các mâu thuẫn, xung đột, là không thể thiếu bởi nó là linh
hồn, là cốt lõi của vở kịch. Biện pháp này ngoài tác dụng làm tăng tính kịch
cho tác phấm, làm cho nhân vật hiện lên rõ nét còn kích thích hứng thú và sự
hiếu kì của bạn đọc trong việc dõi theo nhân vật tìm lối ra.
1.2.4. Biện pháp tương phản
Theo “Từ điển Tiếng Việt”, NXB Khoa học xã hội, 1994 do Hoàng
Phê chủ biên thì “Tương phản là từ chỉ những sự vật có tính chất trái ngược,
đối chọi nhau rõ rệt”.
Trong cuốn “Phong cách học và đặc điểm tu từ Tiếng Việt”, tác giả
Cù Đình Tú định nghĩa cụ thế hơn: “Tương phản là phép tu từ dùng từ ngữ đế
biểu thị những khái niệm đối lập nhau, cùng xuất hiện trong một văn cảnh
nhằm mục đích làm rõ hơn đặc điếm của đối tượng được miêu tả” [17, 94].
Các tác giả Lê Anh Hiền, Cù Đình Tú, Nguyễn Thái Hòa trong cuốn
“Phong cách học Tiếng Việt” chỉ ra rằng “Phép tương phản (hay phép đối
rJLiìti ^Ĩlĩi 7Ị(>ồiuf
19
DChtìa (ìltịữ 0Oătt
lập) là cách sử dụng các từ ngữ biếu thị các khái niệm trái ngược nhau trong
cùng một văn cảnh” [18, 86].
Có thể thấy, tương phản là một thủ pháp nghệ thuật được sử dụng nhiều
trong các ngành nghệ thuật. Trong hội họa, trong âm nhạc, sự tương phản về
màu sắc và các nốt nhạc sẽ gây cảm giác mạnh mẽ tạo nên ấn tượng sâu sắc.
Đặc biệt trong văn học, tương phản là một trong những biện pháp tu từ được
sử dụng rộng rãi ở tất cả các cấp độ khác nhau của ngôn ngữ và trong mọi thế
loại văn học. Trong thế loại kịch cũng vậy, các tác giả cũng triệt đế sử dụng
biện pháp tương phản để xây dựng nhân vật cho tác phẩm của mình. Đặc biệt
trong hài kịch, các tác giả đã sử dụng biện pháp tương phản giữa hình thức và
nội tâm, giữa cái quý phái và cái lố bịch để tạo nên chân dung những nhân vật
hề để qua sự tương phản đó tạo nên tiếng cười trào phúng như trong hài kịch
của Môlie với các vở: Trưởng giả học làm sang, Lão hà tiện, Tactuyt...Còn
trong chính kịch thì các tác giả lại sử dụng biện pháp tương phản chủ yếu vào
việc khắc họa chân dung tính cách, phấm chất của nhân vật thông qua việc đặt
nhân vật thông qua việc đặt nhân vật vào thế tương phản giữa vị thế xã hội
với tính cách hoặc đơn giản là tương phản giữa các nhân vật với nhau để qua
đó làm nối bật lên hình tượng nhân vật trung tâm của tác phấm.
Tóm lại, các biện pháp nghệ thuật trên là những yếu tố quan trọng trong
việc xây dựng nhân vật kịch. Mỗi biện pháp này được sử dụng tất cả hay
không, đậm hay nhạt phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: loại nhân vật, ý đồ
nghệ thuật của nhà văn. Với sự phân tích bốn yếu tố nghệ thuật trên: biện
pháp đối thoại, biện pháp độc thoại, biện pháp tạo xung đột kịch tính, biện
pháp tương phản, chúng tôi thấy mỗi yếu tố đều góp phần vào việc xây dựng
nhân vật cho tác phấm. Vì vậy, khi xem xét nghệ thuật xây dựng nhân vật
trong tác phẩm kịch của V.Huygô, chúng tôi sẽ đi xem xét ở bốn yếu tố này.
rJLiìti ^Ĩlĩi 7Ị(>ồiuf
20
DChtìa (ìltịữ 0Oătt
- Xem thêm -