Khoá luận tốt nghiệp
GVHD: ThS. Hồ Nguyên Khoa
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. LỰC LƯỢNG BÁN HÀNG VÀ VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG BÁN
HÀNG:
1.1.1. Khái niệm về lực lượng bán hàng:
- Lực lượng bán hàng có thể định nghĩa là tập hợp những người liên
quan đến công việc bán hàng.
- Lực lượng bán hàng có mặt ở tất cả các tổ chức từ phi lợi nhuận cũng
như các tổ chức lợi nhuận tùy theo chủng loại sản phẩm, đặc tính kỹ thuật sản
phẩm, những dịch vụ cung cấp cho khách hàng mà thuật ngữ bán hàng bao
trùm rất nhiều chức vụ khác nhau trong nền kinh tế của nước ta.
Công việc bán hàng bao gồm rất nhiều các chức năng do những người
khác nhau thực hiện.
+ Người giao hàng: Ở chức vụ này nhân viên bán hàng có nhiệm vụ
chủ yếu là đi giao sản phẩm cho khách hàng.
+ Người tiếp nhận đơn đặt hàng: Ở chức vụ này nhân viên bán hàng
chủ yếu là người tiếp nhận đơn đặt hàng tại chổ (nhân viên bán hàng ở của
hàng và đứng sau quầy) hay người trực tiếp nhận đơn hàng dã ngoại (nhân
viên bán hàng dầu gội đầu đi chào hàng)
+ Kỹ thuật viên: Chức vụ này đòi hỏi nhân viên bán hàng phải có kiến
thức về kỹ thuật để cố vấn cho khách hàng.
+ Người tạo nhu cầu: Chức vụ này đòi hỏi phải có sự sáng tạo trong
việc mua bán sản phẩm vật chất và sự khác biệt (phần mền vi tính, máy hút
bụi chân không,…) hay các dịch vụ (quảng cáo,…)
Hai chức vụ đầu tiên đòi hỏi phục vụ khách hàng và tiếp nhận đơn đặt hàng
mới, hai chức vụ sau đòi hỏi phải tìm kiếm khách hàng tiềm năng và tác động
đến họ để họ mua hàng.
- Quản trị bán hàng là hoạt động quản trị của những người hoặc thực sự
thuộc lực lượng bán hàng gồm những người hỗ trợ trực tiếp cho lực lượng bán
hàng.
SVTH: Nguyễn Ái Nhân
Trang - 1 -
Khoá luận tốt nghiệp
GVHD: ThS. Hồ Nguyên Khoa
- Quản trị lực lượng bán hàng bao gồm các cộng việc: Thiết kế chiến
lược và cấu trúc bán hàng; tuyển mộ và lựa chọn, huấn luyện, chính sách thù
lao, giám sát và đánh giá nhân viên bán hàng của công ty.
1.1.2. Mục tiêu của công tác quản trị lực lượng bán hàng:
Căn cứ vào đặc điểm của thị trường mục tiêu và vị trí mong muốn của
doanh nghiệp trên thị trường đó mà xác định mục tiêu của lực lượng bán
hàng. Thông thường, những mục tiêu này được cụ thể hóa bằng các chỉ tiêu
tăng trưởng về lợi nhuận và doanh số, sau đó được chi tiết hóa theo hệ thống
tổ chức của công ty đến từng định mức cho từng vùng, địa phương. Những
mục tiêu thực hiện có thể được diễn tả theo nhiều cách và tùy thuộc vào từng
công ty, tùy từng ngành kinh doanh khác nhau, nhưng nhìn chung cũng chỉ có
thể chia thành hai mục tiêu:
- Những mục tiêu hướng vào con người:
Để đạt được những mục tiêu về bán hàng thì cần phải có một lượng
lượng bán hàng có chất lượng cao, năng động và nhiệt tình theo đuổi mục tiêu
của họ. Để có được đội ngũ bán hàng như vậy thì đòi hỏi người tuyển chọn
phải tuyển lựa đúng người, bồi dưỡng đào tạo thêm cho các nhân viên và có
cung cách quản lý con người đúng đắn.
- Những mục tiêu hướng vào doanh số hay lợi nhuận:
Mục tiêu thực hiện doanh số được thực hiện như thế nào tùy thuộc vào
từng công ty, từng ngành. Có thể biểu hiện bằng giá trị tiêu thụ, cũng có thể
biểu hiện bằng số sản phẩm bán ra. Dù cho mục tiêu thực hiện về doanh số
được thể hiện theo cách nào đi nữa, bất kỳ nhân viên bán hàng nào muốn
được thăng tiến vào địa vị quản lý bán hàng thì họ phải biết rằng họ phải thể
hiện tinh thần trách nhiệm đối với những cấp trên về quản lý bán hàng, về
việc nắm được doanh số của từng nhân viên bán hàng.
1.2. VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG BÁN HÀNG TRONG KINH DOANH
CỦA DOANH NGHIỆP:
SVTH: Nguyễn Ái Nhân
Trang - 2 -
Khoá luận tốt nghiệp
GVHD: ThS. Hồ Nguyên Khoa
- Theo quan điểm hiện đại hướng đến khách hàng, lực lượng bán hàng
có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- Lực lượng bán hàng là cầu nối giữa doanh nghiệp và khách hàng,
người bán hàng là người quan hệ trực tiếp với khách hàng, thu thập và trao
đỗi thông tin cần thiết về khách hàng và doanh nghiệp, giúp khách hàng hiểu
rõ về công ty, đối với nhiều khách hàng thì cho rằng người bán hàng chính là
công ty đồng thời cũng nhận từ khách hàng những thông tin phản hồi về sản
phẩm dịch vụ của công ty, mối quan hệ này càng chặt chẻ thì hoạt động bán
hàng sẽ mang lại hiệu quả cao.
- Lực lượng bán hàng thu thập thông tin từ thị trường về đối thủ cạnh
tranh, môi trường kinh doanh, giúp doanh nghiệp cải tiến sản xuất và tạo nên
sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu thị trường.
- Lực lượng bán hàng là người tư vấn tiêu dùng đồng thời cũng là
người cung cấp hướng dẫn sử dụng cho khách hàng với những sản phẩm
mang tính năng kỹ thuật và công nghệ cao.
1.3. CÁC HOẠT ĐỘNG TRONG CÔNG TÁC QUẢN TRỊ LỰC LƯỢNG
BÁN HÀNG:
1.3.1. Phân loại lực lượng bán hàng của công ty:
Lực lượng bán hàng của công ty bao gồm tất cả những nhân viên có
trách nhiệm trực tiếp đến hoạt động bán hàng. Lực lượng bán hàng tại công ty
có thể chia thành 2 loại là: Lực lượng bán hàng bên trong và bên ngoài.
1.3.1.1. Lực lượng bán hàng bên trong:
Lực lượng bán hàng bên trong thường tập trung ở một cơ sở văn phòng
và liên hệ với khách hàng chủ yếu thông qua điện thoại. Từng cá nhân nhân
viên bán hàng hiếm khi tiếp xúc trực tiếp với khách hàng. Loại lực lượng bán
hàng này có thể được dùng như lực lượng chính yếu của công ty hoặc là lực
lượng hỗ trợ cho lực lượng bán hàng hoạt động bên ngoài. Với trách nhiệm và
hoạt động chủ yếu mang tính xúc tiến cho hoạt động bán hàng hay theo sau
SVTH: Nguyễn Ái Nhân
Trang - 3 -
Khoá luận tốt nghiệp
GVHD: ThS. Hồ Nguyên Khoa
hoạt động bán hàng, như theo dõi những đơn đặt hàng, kiểm soát dự trữ, tồn
kho, giới thiệu sản phẩm.
1.3.1.2. Lực lượng bán hàng hoạt động bên ngoài công ty:
Lực lượng bán hàng bên trong thông thường được trãi ra theo vùng địa
lý. Người đại diện bán hàng này sẽ có trách nhiệm bán hàng hoặc cung ứng
dịch vụ thông qua giao dịch trực tiếp với khách hàng. Lực lượng bán hàng
hoạt động ở bên ngoài được sử dụng rất rộng rãi trong những doanh nghiệp,
từ những công ty sản xuấ
t hàng tiêu dùng và hàng công nghiệp, công ty dịch vụ như hàng không,
khách sạn, trường học,…đến công ty bán buôn. Lực lượng bán hàng bên
ngoài ấy, hằng ngày trình bày sản phẩm của công ty cho khách hàng và
khách hàng tiềm năng. Ngoài ra, vì là nhân viên của công ty, họ có thể được
hướng dẫn để thực hiện những nghiệp vụ không phải là bán hàng như thu thập
thông tin, cung ứng dịch vụ khách hàng, đào tạo nhân viên bán hàng và giải
quyết những vướng mắc của khách hàng.
1.3.2. Cơ cấu tổ chức lực lượng bán hàng:
1.3.2.1. Cơ cấu lực lượng bán hàng theo lãnh thổ:
Trong một tổ chức bán hàng đơn giản nhất mỗi đại diện bán hàng được
phân công phụ trách một đại bàn riêng và tại đó họ được quyền giới thiệu toàn
bộ chủng loại sản phẩm của công ty. Cơ cấu tổ chức bán hàng này có một số
ưu điểm. Đầu tiên là nó xác định rỏ ràng trách nhiệm của nhân viên bán hàng
vì mỗi nhân viên bán hàng phải chịu trách nhiệm đối với tình hình tiêu thụ ở
địa bàn tùy theo kết quả nổ lực bán hàng của họ. Bên cạnh đó thì trách nhiệm
theo lãnh thổ sẽ khuyến khích các đại diện bán hàng quan tâm đến mối quan
hệ công tác và cá nhân trên địa bàn của mình mà nó sẽ góp phần làm tăng
hiệu quả bán hàng và tạo thuận lợi cho đời sống cá nhân của họ. Việc đi lại
trong một địa bàn nhỏ do đó chi phí tương đối nhỏ.
Với cách tổ chức quản lý này thì mỗi nhà quản trị bán hàng cấp cao
hơn phải gánh vác công việc Marketing và hành chính nhiều hơn so với với
SVTH: Nguyễn Ái Nhân
Trang - 4 -
Khoá luận tốt nghiệp
GVHD: ThS. Hồ Nguyên Khoa
thời gian cho việc bán hàng. Khi thiết kế các địa bàn, công ty phải đảm bảo
được những đặc điểm nhất định của từng địa bàn: Các địa bàn dễ quản lý, có
thể ước tính tiềm năng tiêu thụ của nó, đảm bảo giảm bớt thời gian đi lại và có
đủ khối lượng công việc và tiềm năng tiêu thụ cho từng đại diện bán hàng.
Những đặc điểm này có thể đảm bảo được bằng cách xác định quy mô và
hình dáng của địa bàn.
1.3.2.2. Cơ cấu lực lượng bán hàng theo sản phẩm:
Do sự cần thiết phải am hiểu về sản phẩm của các đại diện bán hàng
cùng với sự phát triển các loại sản phẩm và hệ thống quản trị sản phẩm, nhiều
doanh nghiệp đã lựa chọn cấu trúc lực lượng bán hàng của mình theo loại sản
phẩm. Sự chuyên môn hóa theo sản phẩm có thể là sự cần thiết khi doanh
nghiệp kinh doanh nhiều loại sản phẩm có kỹ thuật phức tạp, hay những sản
phẩm quá khác biệt, ít có liên hệ với nhau. Hạn chế của loại cấu trúc này là có
thể xảy ra trường hợp có nhiều đại diện bán hàng của cùng một doanh nghiệp
đến chào hàng cùng một khách hàng trong cùng thời điểm. Điều này có nghĩa
là chi phí tăng lên và gây nên sự bực mình cho khách hàng.
1.3.2.3. Cơ cấu lực lượng bán hàng theo khách hàng:
Các doanh nghiệp thường chuyên môn hóa lực lượng bán hàng của
mình theo ngành hay theo loại khách hàng. Họ có thể tổ chức những lực
lượng bán hàng riêng rẽ cho các ngành khác nhau, thậm chí cho các khách
hàng khác nhau. Lợi ích rỏ nhất của việc chuyên môn hóa theo khách hàng là
mỗi nhân viên bán hàng có thể hiểu biết cặn kẽ về những nhu cầu đặc biệt của
khách hàng. Nhược điểm chủ yếu của lực lượng bán hàng cấu trúc theo khách
hàng là khi doanh nghiệp có nhiều loại khách hàng khác nhau phân tán khắp
nơi, đòi hỏi nhân viên bán hàng phải đi lại nhiều hơn.
1.3.2.4. Cơ cấu lực lượng bán hàng hỗ hợp:
Khi một công ty bán rất nhiều chủng loại sản phẩm khác nhau cho
nhiều loại khách hàng trên một địa bàn rộng lớn, công ty thường kết hợp một
số cách tổ chức quản lý lực lượng bán hàng. Các đại diện bán hàng có thể
SVTH: Nguyễn Ái Nhân
Trang - 5 -
Khoá luận tốt nghiệp
GVHD: ThS. Hồ Nguyên Khoa
được chuyên môn hóa theo lãnh thổ – sản phẩm, lãnh thổ – thị trường, sản
phẩm – thị trường,…khi đó các đại diện bán hàng có thể trực thuộc một hay
nhiều người quản lý chủng loại sản phẩm và quản lý nhân viên.
1.4. NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÔNG TÁC QUẢN TRỊ BÁN
HÀNG VÀ NHỮNG THÀNH CÔNG, THẤT BẠI TRONG VIỆC XÂY
DỰNG LỰC LƯỢNG NÀY Ở NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN QUA:
1.4.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản trị lực lượng bán hàng:
Có rất nhiều những nhân tố tác động trực tiếp hay gián tiếp đến lực
lượng bán hàng, cùng một lúc chúng có thể tác động cùng hoặc ngược chiều
nhau, mức độ và phạm vi tác động của mỗi nhân tố không giống nhau. Do đó,
trong việc nhận thức và đánh giá tác động của chúng cần có cách nhìn khoa
học và tổng thể. Có nhiều cách phân chia nhân tố theo những tiêu thức khác
nhau song tựu chung lại có thể chia thành một số nhân tố chủ yếu sau:
- Thị trường và hành vi của khách hàng trên thị trường trong mối quan
hệ với những xu thế thay đổi của các lực lượng môi trường vĩ mô:
Theo quan điểm marketing hiện đại thì các doanh nghiệp phải vì thị
trường mà bán và vì bán mà mua. Đối với các doanh nghiệp, tìm được địa
điểm bán, chọn được mặt hàng kinh doanh mới chỉ là những bước đầu của
hoạt động bán hàng. Trên cơ sở lựa chọn đó, doanh nghiệp xác định được khu
vực thị trường mà mình tham gia, khách hàng mà mình phục vụ. Mà thị
trường và nhu cầu của khách hàng là những yếu tố rất phức tạp, luôn có xu
hướng biến động theo thời gian. Nếu doanh nghiệp không thích ứng được
những thay đổi đó thì dần dần hàng hóa sẽ tồn kho, gây ứ đọng vốn kinh
doanh và mọi hoạt động của doanh nghiệp sẽ bị ngừng trệ. Bởi những lý do
đó nên công ty luôn xác định lực lượng bán hàng phải có kỹ năng, nghiệp vụ
chuyên môn, luôn lấy thị trường làm phương hướng, không ngừng tiếp cận,
nghiên cứu để nắm bắt những thay đỗi của môi trường kinh doanh, sự phát
triển của khoa học công nghệ. Bên cạnh đó cần có kỹ năng phân tích, đánh
giá những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới thái độ, hành vi tiêu, xem đối tượng
SVTH: Nguyễn Ái Nhân
Trang - 6 -
Khoá luận tốt nghiệp
GVHD: ThS. Hồ Nguyên Khoa
khách hàng của mình thuộc tầng lấp xã hội nào, bị những yết tố nào chi
phối,... Có như vậy doanh nghiệp mới có những cách thức ứng xử phù hợp về
chiến lược đối với những mặt hàng kinh doanh, sử dụng lực lượng bán hàng
hợp lý.
- Sức ép cạnh tranh của các đối thủ trên cùng thị trường:
Do mục tiêu tối thượng của các doanh nghiệp nói chung là thu được lợi
nhuận, lợi nhuận càng cao càng thúc đẩy, lôi kéo họ tham gia tích cực hơn,
nên nhiều khi họ có thể bắt chấp tất cả, miễn sao đè bẹp được đối thủ cạnh
tranh để giành được thị phần, giành được khách hàng.
Không ai là không thấy được tính khắc nghiệt của cạnh tranh nhưng
cũng không thể phủ nhận được lợi ích mà nó mang lại, đặc biệt là cho khách
hàng, đó là quá trình liên tục, không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng,
giảm chi phí và không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ, chất lượng quản
lý trong các doanh nghiệp,...Tất cả những điều này đều nhằm mục đích lôi
kéo, thu hút khách hàng, tăng thị phần, tăng doanh thu.
Vì những lẽ đó, một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển lâu dài,
bền vững thì các nhà quản trị phải một mặt tìm mọi cách để nắm bắt được
hoạt động của các đối thủ cạnh tranh trên thị trường, đặc biệt là trên thị
trường mục tiêu, từ những nguồn thông tin chính xác, có độ tin cậy cao, từ đó
đề ra những chiến lược kinh doanh đón đầu, hành động trước đối thủ, mặt
khác phải xây dựng được một lực lượng bán hàng đáp ứng yêu cầu của sự
phát triển của xã hội, có một tập thể vững mạnh, đoàn kết, những mặt hàng
của công ty luôn thỏa mãn yêu cầu chất lượng của khách hàng với giá cả phù
hợp trên cơ sở hoạch định và thực hiện mọi công việc sao cho hợp lý, tránh
lãng phí sức lao động, lãng phí nguồn lực, nhất là nguồn lực tài chính.
- Mặt hàng kinh doanh:
Có thể nói, đây là một trong những vấn đề cơ bản nhất mà bất kỳ một
doanh nghiệp nào khi muốn tham gia vào thị trường đều phải nghiên cứu kỹ
SVTH: Nguyễn Ái Nhân
Trang - 7 -
Khoá luận tốt nghiệp
GVHD: ThS. Hồ Nguyên Khoa
lưỡng: kinh doanh cái gì? Nên kinh doanh thêm sản phẩm nào phù hợp thị
trường? Nên tập trung vào một loại hay nhiều loại? Có nên đề nghị nhà sản
xuất cải tiến hay đưa ra sản phẩm mới? Cách thức đưa ra thị trường như thế
nào?
Đối với doanh nghiệp việc lựa chọn đúng mặt hàng kinh doanh có ý nghĩa
to lớn tới sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp như người ta nói “chọn
đúng địa điểm kinh doanh và chọn đúng hàng hóa kinh doanh cho địa điểm đã
chọn đối với nhà kinh doanh coi như thành công một nửa”.
Đối với Công ty Phương Tùng, chuyên kinh doanh mặt hàng tin học,
thiết bị văn phòng, ngoài những thuận lợi hiện có của công ty như: Có uy tín
trên thị trường, có nhiều khách hàng lớn, khách hàng thường xuyên,… để
thực hiện tốt những yêu cầu về kinh doanh, ngoài việc lựa chọn cơ cấu mặt
hàng kinh doanh hợp lý, phong phú về chủng loại, quy cách, mẫu mã, giá cả
phù hợp với nhu cầu của thị trường, thì lực lượng bán hàng có vai trò rất lớn,
họ là người tham gia trực tiếp vào quá trình trao đỗi hàng hoá, công ty luôn
bổ sung, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ bán hàng để phục vụ tốt
hơn nhu cầu của khách hàng và đó cũng là một biện pháp để thu hút và lôi
kéo khách hàng.
Ngoài ra, doanh nghiệp còn phải biết tìm kiếm những nguồn hàng vừa
có giá cả hợp lý, lại vừa có chất lượng đảm bảo vì thế cùng một lúc cần liên
hệ trực tiếp với nhiều nhà sản xuất và tạo được mối quan hệ thường xuyên,
liên tục và đáng tin cậy.
- Cơ cấu tổ chức bộ máy và điều kiện vật chất bán hàng của công ty.
Một cỗ máy muốn vận hành được cần có sự điều khiển và kiểm soát để
liên kết các hoạt động của từng bộ phận, thực hiện nhiệm vụ chức năng của cỗ
máy đó. Trong doanh nghiệp cũng vậy, muốn thực hiện được chức năng
nhiệm vụ của mình cần phải có một cơ cấu tổ chức bao gồm các bộ phận chức
năng chịu sự điều khiển, chỉ đạo của một bộ phận lãnh đạo. Vận hành được
SVTH: Nguyễn Ái Nhân
Trang - 8 -
Khoá luận tốt nghiệp
GVHD: ThS. Hồ Nguyên Khoa
mới chỉ là điều kiện cần, còn vận hành tốt mới là điều kiện đủ. Một doanh
nghiệp muốn vận hành tốt hay thực hiện tốt những mục tiêu đề ra thì mỗi bộ
phận sẽ thực hiện một công việc riêng lẻ, nhưng không tác động tiêu cực hay
phá hoại công việc của nhau, mà cần sự hợp tác đoàn kết cùng tương trợ bổ
sung cho nhau. Điều này chỉ tồn tại khi một doanh nghiệp có cơ cấu tổ chức
hợp lý, hoạt động có hiệu quả, lợi ích của mỗi bộ phận thống nhất với lợi ích
của toàn công ty.
Đối với một doanh nghiệp, thì ngoài một bộ máy hợp lý, một ban lãnh
đạo năng động, cũng cần phải chú ý, quan tâm đến những điều kiện vật chất
của công ty. Những điều kiện vật chất phục vụ cho lực lượng bán hàng là gì?
Đó chính là những thứ cần thiết nhất để công việc bán hàng được thực hiện
tốt như: phương tiện, phòng làm việc, phòng bảo hành, trang thiết bị phục vụ,
…
Đó là những điều kiện tối thiểu mà công ty cần phải tính đến và sắp xếp
sao cho có hiệu quả. Những yếu tố này sẽ ảnh hưởng đến kết quả của doanh
thu mà lực lượng bán hàng mang lại. Nếu doanh nghiệp chuẩn bị tốt thì hoạt
động bán được trôi chảy và có hiệu quả cao.
- Trình độ và kỹ năng của lực lượng bán hàng:
Trong hoạt động kinh doanh hiện nay của công ty, một yếu tố không
thể thiếu là lực lượng bán hàng, đây là những người trực tiếp tiếp xúc với
khách hàng. Hiệu quả của bán hàng có tốt hay không phụ thuộc rất lớn vào
trình độ và kỹ năng bán hàng của nhân viên bán.
Vì vậy, trong quá trình tuyển dụng, cần lựa chọn được những nhân viên
tương lai có trình độ, yêu nghề, còn trong quá trình làm việc phải liên tục đào
tạo để nâng cao nghiệp vụ cho họ. Trong đó, phải đặc biệt quan tâm đào tạo
cho nhân viên bán phong cách giao tiếp với khách hàng, nắm bắt tâm lý của
họ, tìm cách lôi kéo, thuyết phục họ đến với công ty. Mỗi nhân viên bán hàng
phải là một nghệ sĩ với nghệ thuật tổ chức và thuyết phục khách hàng bởi
SVTH: Nguyễn Ái Nhân
Trang - 9 -
Khoá luận tốt nghiệp
GVHD: ThS. Hồ Nguyên Khoa
cùng một lúc họ phải thực hiện nhiều nhiệm vụ như: quảng cáo, tiếp thị, tư
vấn khách hàng...
Không những vậy, trong quá trình làm việc, lãnh đạo trực tiếp cũng
phải quan tâm, theo dõi và tìm các biện pháp để kích thích động viên nhân
viên bán tích cực làm việc và nâng cao năng suất lao động bán hàng.
Trên đây những nhân tố ảnh hưởng cơ bản được trình bày một cách
riêng rẽ nhưng trong thực tế chúng có mối liên hệ, tác động lẫn nhau. Người
quản trị bán hàng trong việc đề ra các biện pháp thúc đẩy tiêu thụ cần có
những cái nhìn tổng thể, toàn diện để có quyết định đúng đắn và hợp lý.
Ngoài ra, đối với mỗi doanh nghiệp và trong mỗi giai đoạn, sự ảnh hưởng của
mỗi nhân tố có thể không giống nhau. Vì thế, điều quan trọng và cần thiết là
phải thấy được nhân tố nào là chủ yếu tác động đến tiêu thụ để có biện pháp
quản lý thích hợp.
1.4.2. Những thành công, thất bại trong việc xây dựng lực lượng bán hàng
trong thời gian qua ở Việt Nam.
Nước ta thực hiện nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa,
có sự quản lý của nhà nước đã qua hơn 20 năm. Có thể nói rằng những gì mà
chúng ta làm được là rất lớn, đưa một nước lạc hậu kém phát triển, tỷ lệ
nghèo đói chiếm tỷ lệ cao, đến nay đất nước chúng ta đang trên đà phát triển
hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là Việt Nam đã gia nhập tổ chức thương mại
thế giới. Từ đó, đặt ra cho nhiều ngành, nhiều lĩnh vực phải có hướng đi cụ
thể, có mục tiêu trước mắt và lâu dài.
Một trong những sự tác động lớn nhất là lĩnh vực kinh tế, trong thời
gian qua rất nhiều doanh nghiệp được thành lập, sản xuất, kinh doanh nhiều
loại mặt hàng khác nhau. Như chúng ta đã biết, mục tiêu của doanh nghiệp là
lợi nhuận, tuy nhiên để mang lại lợi nhuận cao nhất thì phải doanh nghiệp có
chiến lược phát triển, trong đó con người đóng vai trò quyết định, trong đó
đội ngũ lực lượng bán hàng đóng vai trò quan trọng.
SVTH: Nguyễn Ái Nhân
Trang - 10 -
Khoá luận tốt nghiệp
GVHD: ThS. Hồ Nguyên Khoa
Trong những năm qua, nhiều doanh nghiệp ngày càng coi trọng xây
dựng lực lượng bán hàng, từ đó xây dựng thương hiệu của doanh nghiệp, tuy
nhiên việc xây dựng đội ngũ lực lượng bán hàng cũng có những thành công
và thất bại nhất định.
1.4.2.1. Những yếu tố tạo nên thành công trong công tác xây dựng lực lượng
bán hàng:
- Động cơ bẩm sinh:
Nhân viên bán hàng thực thụ là những người có những tính cách, động
lực khác nhau, nhưng tất cả họ sẽ không ngại khó khăn, để giành lấy hiệu quả
của công việc.
- Có phong cách làm việc kỹ luật:
Dù động cơ của họ là gì, nếu nhân viên bán hàng không được tổ chức,
nếu họ không làm việc cần mẫn, họ chẳng thể đáp ứng được nhu cầu ngày
càng cao của khách hàng.
- Khả năng xây dựng quan hệ:
Lực lượng bán hàng giỏi là những người không những giải quyết mọi
vấn đề cho khách hàng mà còn là người xây dựng mối quan hệ với họ.
Hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng tiếp cận và có sự thay
đỗi rất lớn trong việc sử dụng con người, đặc biệt là lực lượng bán hàng. Các
doanh nghiệp ngày càng nhận ra rằng việc chinh phục và giữ vững khách
hàng đòi hõi rất nhiều, chứ không chỉ mỗi việc tạo ra sản phẩm tốt, mà lực
lượng bán hàng sẽ góp phần tạo nên giá trị của nó và đưa sản phẩm đến với
khách hàng một cách thực tế và nhanh nhất.
1.4.2.2. Những yếu tố gây nên sự thất bại:
Như đã nói, trước đây một số doanh nghiệp chưa coi trọng xây dựng
đội ngũ bán hàng, xem nhẹ công tác đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ
cho lực lượng bán hàng, do đó không đáp ứng được yêu cầu ngày cành cao
của xã hội.
SVTH: Nguyễn Ái Nhân
Trang - 11 -
Khoá luận tốt nghiệp
GVHD: ThS. Hồ Nguyên Khoa
Hiện nay, vẫn còn nhiều doanh nghiệp vẫn xem nhẹ việc xây dựng lực
lượng bán hàng, sử dụng lực lượng bán hàng như một cách đơn giản, do đó
khi có sự liên kết, mở rộng thị trường, kinh doanh thêm nhiều mặt hàng thì
đội ngũ không đáp ứng được. Thực tế hiện nay rất nhiều doanh nghiệp đội
ngũ nhân lực vừa thiếu vừa yếu.
Bên cạnh đó, việc dự báo trong nước còn yếu và thường tách Việt Nam
ra khỏi kinh tế thế giới. Hầu hết các doanh nghiệp không có đội ngũ nghiên
cứ thị trường mà lực lượng bán hàng vừa bán, vừa phân tích, vừa tổng hợp
báo cáo. Các viện nghiên cứu không có những nghiên cứu cụ thể, nếu có thì
chất lượng chưa cao, số liệu không được chính xác và cũng chưa được quan
tâm đúng mức, do đó không có những hỗ trợ cụ thể cho các doanh nghiệp
định hướng mục tiêu kinh doanh lâu dài.
1.4.2.3. Một số doanh nghiệp thành công trong công tác xây dựng lực lượng
bán hàng:
Trong những năm qua, rất nhiều doanh nghiệp trong nước đã xây dựng
được thương hiệu, hình ảnh của doanh nghiệp, sản phẩm được ưa chuộng
không những trong nước mà cả quốc tế.
Những doanh nghiệp đó họ chú trọng đến công tác xây dựng đội ngũ
nhân sự, trong đó có lực lượng bán hàng, như: Các doanh nghiệp sản xuất
thực phẩm, các công ty sản xuất kinh doanh hàng điện tử, Sữa Vinamilk, Bia
Tiger, Metro, Big C,…
1.4.3. Những kinh nghiệm trong việc xây dựng đội ngũ lực lượng bán hàng
đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của sự phát triển:
1.4.3.1.Thiết lập và thực hiện chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp:
Doanh nghiệp phải xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn, từ đó có
kế hoạch xây dựng lực lượng bán hàng phù hợp, vì thị trường luôn có chuyển
biến, nó đòi hỏi doanh nghiệp phải mềm dẻo, linh hoạt và luôn có sự đổi mới.
SVTH: Nguyễn Ái Nhân
Trang - 12 -
Khoá luận tốt nghiệp
GVHD: ThS. Hồ Nguyên Khoa
1.4.3.2. Đội ngũ quản lý đứng đầu có một vai trò quyết định thành công của
công ty:
Đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt do toàn cầu hóa mang
lại, các nhà quản lý ngày nay sẽ cần phải quyết đoán, có khả năng đưa ra
những quyết định nhanh chính xác, dứt khoát và khả năng thích nghi.
1.4.3.3. Tìm ra chìa khóa cạnh tranh của doanh nghiệp, và phát triển cùng với
nền kinh tế:
Điều mà doanh nghiệp quan tâm là làm sao doanh nghiệp luôn có một
lực lượng bán hàng đáp ứng nhu cầu của khách hàng và sự phát triển của xã
hội điều đó có nghĩa là nhấn mạnh vào yếu tố “tươi mới”, từ đó xây dựng kế
hoạch chiến lược lâu dài cho doanh nghiệp.
1.4.3.4.Hiểu biết về văn hóa, tạo được sự yêu mến và niềm tin đối với thương
hiệu và sản phẩm của mình:
Kinh nghiệm cho thấy nhiều thương hiệu của nước ngoài đã không thể
vượt qua rào cản về văn hóa mà rào cản về ngôn ngữ là trở ngại đầu tiên mà
các doanh nghiệp cần phải vượt qua. Đội ngũ lực lượng bán hàng phải có
trình độ, chuyên môn, kỹ năng,…để có thể đáp ứng được yêu cầu mở rộng thị
trường, từ đó hiểu và chuyển tải được nội dung cần trình bày.
1.4.3.5. Xây dựng đối tác tin cậy:
Với một mối quan hệ tốt, việc kinh doanh có thể sẽ trở nên dễ dàng hơn
và khả năng thất bại sẽ giảm đi. Sự liên kết mạnh có thể cũng được xây dựng
với khách hàng, nhà cung cấp và các đối tác. Doanh nghiệp phải xây dựng
mối quan hệ tốt đối với khách hàng thông qua nhân viên bán hàng, nhà quản
trị phải làm sao để cho nhân viên bán hàng hiểu họ không những bán hàng
giỏi mà còn tạo ra và làm tăng giá trị.
1.5. CÔNG TÁC TUYỂN DỤNG VÀ LỰA CHỌN NHÂN VIÊN BÁN
HÀNG:
1.5.1. Nhu cầu tuyển dụng:
SVTH: Nguyễn Ái Nhân
Trang - 13 -
Khoá luận tốt nghiệp
GVHD: ThS. Hồ Nguyên Khoa
Việc xác định nhu cầu tuyển dụng là một yếu tố cần thiết trong bước
đầu của kế hoạch tuyển dụng, bằng cách xác định quy mô của lực lượng bán
hàng năm sau theo nhu cầu dự đoán so với quy mô lực lượng bán hàng thực tế
của năm trước.
1.5.2. Nguồn tuyển dụng:
Trên thị trường lao động, một hãng có thể liên hệ tới nhiều nguồn hoặc
có thể sử dụng các nguồn khác nhau cho các vị trí bán hàng khác nhau. Các
nguồn được tập hợp vào bốn loại: Công ty, các định chế giáo dục, nền công
nghiệp và hỗn hợp. Các hãng luôn thích sử dụng các nguồn nào mà chúng có
quá trình tạo ra các nhân viên thành công nhất và trách những nguồn nào mà
chúng đưa ra những người thất bại.
1.5.3. Tiêu chuẩn tuyển dụng:
Tùy theo đặc điểm kinh doanh của từng ngành, từng mặt hàng mà công
ty đang kinh doanh để có thể đưa ra những yêu cầu cấn thiết đối với các ứng
viên. Có thể hỏi khách hàng xem họ muốn và ưa thích những đặc điểm như
thế nào ở các nhân viên bán hàng. Mặt khác ta cũng có thể tìm kiến những
đặc điểm chung của những nhân viên bán hàng thành công nhất trong công ty.
Từ đó, công ty sẽ xác định những yêu cầu mong muốn đối với nhân viên bán
hàng mà công ty sẽ tuyển dụng.
* Nguồn tuyển dụng:
- Những ứng viên bên trong: Doanh nghiệp quản lý thực tế nguồn tài
nguyên nhân sự, đồng thời tìm kiếm bên trong nguồn nhân lực những thành
viên phù hợp với yêu cầu. Điều này mang lại những lợi thế như: Đơn giản hóa
thủ tục, chi phí tuyển dụng thấp, hiểu rõ những ứng viên và làm cho ứng viên
hiueer rõ về doanh nghiệp, văn hóa tổ chức, sản phẩm và khách hàng của
doanh nghiệp,…Nhưng cũng có những khó khăn đối với doanh nghiệp như:
Mâu thuẫn có thể phát sinh do sự thăng tiến bên trong, nguy cơ giúp nhau vì
vụ lợi, sẽ tăng mức thù lao so với những người trẻ có bằng cấp.
SVTH: Nguyễn Ái Nhân
Trang - 14 -
Khoá luận tốt nghiệp
GVHD: ThS. Hồ Nguyên Khoa
- Những ứng viên bên ngoài: Theo chính sách tuyển dụng của mình,
doanh nghiệp sẽ tìm ra những ứng viên đầy đủ về số lượng và chất lượng để
đáp ứng được nhu cầu của họ từ các trường Đại học, các trung tâm nghiên
cứu, nhân viên các hãng khác,…Ưu điểm của người tuyển dụng này là làm
đỗi mới tiềm năng con người của doanh nghiệp, tạo sự thi đua bên trong, làm
tăng giá trị những người hợp tác của doanh nghiệp. Nhưng cũng có những
khó khăn như: Sự hòa hợp của nhân viên mới lâu hơn, đòi hỏi chi phí cao cho
quy trình tuyển chọn, dễ làm nản lòng những nhân viên cũ gắn bó lâu năm với
doanh nghiệp.
* Chọn lựa những ứng viên:
- Giai đoạn này chính là lựa chọn những ứng viên thích ứng với vị trí,
công việc dự định bố trí.
- Sau khi phân loại những ứng viên, những ứng viên mà công ty chọn
sẽ được mời đến phỏng vấn và kiểm tra để đánh giá những kỹ năng, thái độ,
cá tính,…Tóm lại, việc lựa chọn một người bán hàng là một công việc quan
trọng, bởi vì nó là một trong những điều kiện tiên quyết cho sự thành công
của doanh nghiệp. Một người bán tốt sẽ thành công khi bán một sản phẩm tồi,
nhưng một người bán tệ sẽ không làm tròn việc bán một sản phẩm tốt và như
thể sẽ không dự đoán được về nhu cầu của thị trường. Việc tiêu thụ sản phẩm
thông qua những người bán, sự có mặt của họ trên thực địa là một vũ khí cạnh
tranh trong môi trường kinh doanh.
1.5.4. Quá trình lựa chọn:
Quá trình Lựa chọn cũng được xem như một quá trình có thời kỳ. Phần
lớn các phương pháp được áp dụng là kết hợp bảng tóm tắt với phỏng vấn
người xin việc, kiểm tra giấy giới thiệu và phỏng vấn cá nhân với nhiều người
ở hãng. Nguyên tắc chủ đạo là áp dụng chi phí thấp nhất nhưng theo tiêu
chuẩn cho số tuyển dụng lớn nhất và chi phí cao nhất cho số nhỏ nhất.
SVTH: Nguyễn Ái Nhân
Trang - 15 -
Khoá luận tốt nghiệp
GVHD: ThS. Hồ Nguyên Khoa
SƠ ĐỒ QUÁ TRÌNH LỰA CHỌN
Nhóm người tuyển dụng
Bản đánh giá tóm tắt, đơn xin việc
Loại ra
Loại ra
Phỏng vấn lần đầu
Phỏng vấn tiếp theo
Loại ra
Kiểm tra, đánh giá
Loại ra
Lựa chọn quyết định
Loại ra
* Bản đánh giá tóm tắt và hình thức xin việc:
- Bản tóm tắt: Bảng tóm tắt chứa những thông tin căn bản, quan trọng
về một ứng viên như: Mục tiêu làm việc, trình độ văn hóa và quá trình làm
việc. Đây là một công cụ quan trọng đối với các nhà quản trị bán hàng khi
thực hiện quyết định sàng lộc ở giai đoạn đầu tiên.
- Đơn xin việc: Đơn xin việc sẽ giúp cho nhà quản trị nhiều thông tin
hơn bản tóm tắt và thuận lợi hơn cho việc đánh giá công việc chuẩn bị cho
cuộc phỏng vấn sau đó.
- Kiểm tra sự giới thiệu: Có nhiều dạng giới thiệu khác nhau: Từ cá
nhân, từ người chủ trước, …
1.5.4.1. Phỏng vấn cá nhân lần đầu:
Đây là quá trình giao tiếp hai chiều mà ở đó người xin việc nghiên cứu
nhiều về công ty, về công việc như có thể và người phỏng vấn nghiên cứu
nhiều về người xin việc có thể. Trong lần phỏng vấn đầu tiên, người phỏng
SVTH: Nguyễn Ái Nhân
Trang - 16 -
Khoá luận tốt nghiệp
GVHD: ThS. Hồ Nguyên Khoa
vấn đánh giá các đặc tính cá nhân của người dự tuyển như: Ăn mặc, dáng
điệu, các kỹ năng giao tiếp,…
1.5.4.2. Phỏng vấn tiếp theo:
Đây là giao đoạn mà mỗi mức độ phỏng vấn trở nên có cường độ mạnh
hơn, với những người dự tuyển được đánh giá dựa vào các mặt như: Năng lực
hoạt động, kỹ năng giao tiếp, tính cách cá nhân,…
1.5.4.3. Những đánh giá chính thức:
Người xin việc khi đã đến gia đoạn này của quá trình lựa chọn cần
được coi là những ứng viên nghiêm túc và có thể bố trí vào vị trí cần tuyển
dụng. Công ty có thể bỏ qua gia đoạn này, khi trong quá trình có thể sử dụng
các bài kiểm tra trác nghiệm, nhà tư vấn bên ngoài đánh giá, kiểm tra y tế, vì
nó mất thời gian và tốn kém và những quan hệ pháp lý.
1.5.4.4. Quyết định lựa chọn:
Thông thường thì các công ty đang tiến hành tuyển dụng có số người
xin vào nhiều hơn với vị trí đang thiếu nên những người xin việc cần phải yêu
cầu giới hạn và giao việc làm cho họ liên tục.
1.6. CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, HUẤN LUYỆN NHÂN VIÊN BÁN HÀNG:
1.6.1. Nhu cầu đào tạo;
Đánh giá nhu cầu huấn luyện là một quá trình, trong đó một tổ chức
chú ý và xác định rõ nội dung của các chương trình huấn luyện trong tương
lai. Nội dung được chuyên môn hóa, với thời gian cần thiết để có đầy đủ kiến
thức và kỹ năng. Nhằm giải quyết những khó khăn và nâng cao năng lực cho
người bán hàng.
1.6.2. Mục tiêu đào tạo:
Một trong các mục tiêu quan trọng nhất của công ty là có những nhân
viên tốt nhất. Các công ty thường đưa ra các mục tiêu trước mắt như giảm tỷ
lệ người thay thế, cải thiện mối quan hệ với khách hàng,…Các mục tiêu có
thể chia thành 5 loại: Thông tin tăng dần, thực hiện nhiệm vụ càng tăng, tinh
SVTH: Nguyễn Ái Nhân
Trang - 17 -
Khoá luận tốt nghiệp
GVHD: ThS. Hồ Nguyên Khoa
thần nhân viên ngày càng tăng, cải thiện mối quan hệ với khách hàng và cải
thiện năng suất của nhân viên bán hàng.
1.6.3. Tiến trình đào tạo:
1.6.3.1. Xác định nhu cầu đào tạo:
Trước khi tiến hành đào tạo nhân viên thì bản thân doanh nghiệp phải
xác định rõ nhu cầu đào tạo sao cho phù hợp với kế hoạch kinh doanh. Đào
tạo thường được sử dụng nhằm nâng cao năng suất, hiệu quả làm việc cho
nhân viên trong các tổ chức, doanh nghiệp, nên nhu cầu đào tạo thường được
đặt ra khi nhân viên có đủ những kỹ năng cần thiết để thực hiện công việc.
1.6.3.2. Xác định mục tiêu đào tạo:
Các mục tiêu đào tạo có thể rất hạn hẹp và giới hạn vào khả năng của
một chức vụ nào đó và cũng có thể trãi rộng như nâng cao khả năng quản trị
của tất cả các cấp quản lý.
1.6.3.3. Lựa chọn phương pháp thích hợp:
Khi đã xác định mục tiêu đào tạo thì doanh nghiệp phải lực chọn
phương pháp đào tạo sao cho nó phù hợp với mục tiêu đề ra. Tùy vào từng
doanh nghiệp và từng lĩnh vực kinh doanh khác nhau mà họ sẽ lựa chọn cho
mình những phương pháp đào tạo khác nhau.
1.6.3.4. Thực hiện chương trình đào tạo:
Sau khi đã xác định nhu cầu, mục tiêu và phương pháp đào tạo thì công
ty sẽ tiến hành thực hiện chương trình đào tạo với việc xác định nội dung và
cách thức thực hiện phương pháp đào tạo.
1.6.3.5. Đánh giá chương trình đào tạo:
Khi chương trình đào tạo hoàn tất thì người lãnh đạo sẽ đánh giá, công
việc đánh giá không chỉ mang ý nghĩa thẩm định mà còn là một sự công nhận
về khả năng, năng lực và thành tích của nhân viên trong khoảng thời gian họ
tham gia khóa đào tạo.
SVTH: Nguyễn Ái Nhân
Trang - 18 -
Khoá luận tốt nghiệp
GVHD: ThS. Hồ Nguyên Khoa
1.7. CHÍNH SÁCH THÙ LAO ĐỐI VỚI NHÂN VIÊN BÁN HÀNG:
1.7.1. Tầm quan trọng của chính sách thù lạo:
Các đại diện bán hàng muốn có thu nhập đều đặn, tiền thưởng thêm khi
đạt thành tích và trả tiền thỏa đáng cho kinh nghiệm và thâm niên. Mặt khác,
ban lãnh đạo lại muốn đảm bảo quyền kiểm soát, tiết kiệm và đơn giản nhưng
những điều này lại mâu thuẫn với mục tiêu của đại diện bán hàng. Vì vậy,
công ty cần phải xây dựng một chính sách thù lao hợp lý cho các nhân viên
bán hàng.
1.7.2. Cơ sở thiết lập chính sách thù lao:
Ban lãnh đạo phải xác định mức độ và các bộ phận với một chế độ thù
lao có hiệu quả. Mức thù lao phải gắn với “giá thị trường hiện hành” đối với
loại hình bán hàng và năng lực cần thiết. Nếu giá thị trường của nhân viên bán
hàng đã được xác định rõ ràng, thì một công ty riêng sẽ không có cách lựa
chọn nào khác là phải trả thù lao theo mức hiện hành. Nếu trả ít hơn thì không
đảm bảo số người có trình độ mong muốn, còn nếu trả cao hơn thì cũng
không cần thiết. Tuy nhiên giá thị trường của nhân viên bán hàng rất hiếm khi
được xác định rỏ ràng.
1.7.3. Xây dựng chính sách tiền lương:
Công ty cần xác định thành phần của tiền thù lao gồm phần cứng, phần
mềm, công tác phí và phúc lợi phụ. Trong đó, phần cứng có thể là tiền lương
hay một tài khoản rút tiền, nhằm đảm bảo nhu cầu của đại diện bán hàng là có
một khoản thu nhập ổn định. Phần mềm có thể là hoa hồng, tiền thưởng hay
phần chi lợi nhuận, nhằm kích thích và bù đắp những nỗ lực lớn hơn. Công
tác phí nhằm đảm bảo cho các đại diện bán hàng trang trãi những chi phí liên
quan đến chuyện đi lại, ăn ở và giải trí. Phúc lợi phụ bao gồm nghỉ phép có
hưởng lương, trợ cấp ốm đau hay tai nạn, trợ cấp hưu trí và bảo hiểm nhân
trọ, nhằm đảm bảo an tâm và hài lòng với công việc.
SVTH: Nguyễn Ái Nhân
Trang - 19 -
Khoá luận tốt nghiệp
GVHD: ThS. Hồ Nguyên Khoa
1.8. CHÍNH SÁCH ĐỘNG VIÊN ĐỐI VỚI NHÂN VIÊN BÁN HÀNG:
1.8.1. Tầm quan trọng của sự động viên đối với nhân viên bán hàng:
Động viên có thể được xem như là một sự tác động từ bên trong hay
bên ngoài, kích thích con người theo những cách đúng, hướng tới hoàn thành
mục đích.
1.8.2. Mô hình cơ bản về sự động viên:
Động viên
Nỗ lực
Thành tích
Khen thưởng
Hài lòng
Từ mô hình ta thấy càng động viên càng nhiều thì họ càng nỗ lực hơn
trong cộng việc. Càng nỗ lực thì sẽ đạt thành tích cao và sẽ được khen thưởng
nhiều hơn. Khen thưởng càng lớn thì càng hài lòng, càng hài lòng bao nhiêu
thì lại càng tăng thêm sức động viên bấy nhiêu.
1.8.3. Công tác thực hiện động viên:
1.8.3.1. Chính sách động viên:
Các công ty có thể sử dụng nhiều cách khen thưởng khác nhau để thực
hiện động viên với nhân viên bán hàng. Phần thưởng có giá trị cao nhất là
tăng lương, rồi đến sự đề bạc sự trưởng thành cá nhân. Những phần thưởng có
giá trị ít nhất là sự kính nể, sự công nhận.
1.8.3.2. Cơ chế thực hiện:
Nhiều công ty đã đề ra định mức bán hàng chĩ rỏ khối lượng và chủng
loại sản phẩm mà các đại diện bán hàng cần phải bán được trong một năm.
Các định mức này được xây dựng căn cứ vào kế hoạch Marketing hằng năm
để dự báo mức tiêu thụ. Mỗi người quản lý tiêu thụ sẽ được phân bổ định mức
của khu vực cho các đại diện bán hàng.
Các định mức có thể xác định bằng doanh số bán, sản lượng tiêu thụ,
mức lợi nhuận, sự nỗ lực hay tinh thần tích cực bán hàng. Ngoài ra, công ty
có thể tổ chức các hội nghị định kỳ tạo điều kiện cho lực lượng bán hàng gặp
gỡ, trao đỗi và kích thích họ nỗ lực thi đua với nhau trong hoạt động bán
hàng.
SVTH: Nguyễn Ái Nhân
Trang - 20 -
- Xem thêm -