Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khóa luận tốt nghiệp hoàn thiện phương pháp tính lương trong xếp dỡ ở cảng chùa...

Tài liệu Khóa luận tốt nghiệp hoàn thiện phương pháp tính lương trong xếp dỡ ở cảng chùa vẽ

.DOCX
99
166
122

Mô tả:

Khóa Luận Tốt Nghiệp Trường cao đẳng kinh tế và công nghệ thực phẩm Khoa: Kinh tế MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cảng Chùa Vẽ là cảng có lưu lượng hàng hóa thông qua lớn nhất miền Bắc Việt Nam, có hệ thống thiết bị hiện đại và cơ sở hạ tầng đầy đủ, an toàn, phục vụ vận tải, thương mại quốc tế. Chức năng chính là làm công tác xếp dỡ giao nhận, bảo quản hàng hóa thông qua cảng. Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường luôn có sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các doanh nghiệp, để tồn tại và phát triển doanh nghiệp cần phải có những chính sách, những biện pháp thiết thực tìm kiếm thị trường, thu hút nhân tài. Trong lao động và tiền lương có cạnh tranh? Mức tăng lương thế nào là hợp lý? Doanh nghiệp đang trả lương quá thấp hay quá cao và cách nào để chính sách nhân sự là hợp lý những câu hỏi mà bất kỳ doanh nghiệp nào trong đó có cảng cũng cần phải nghiên cứu và trả lời? Đồng thời để trả lời các câu hỏi một cách thỏa đáng thì liệu doanh nghiệp sẽ phát sinh thêm bao nhiêu chi phí ? Chi phí quá cao dẫn tới giá thành tăng thì việc cạnh tranh giá cả có thuận lợi cho doanh nghiệp không? Vì vậy tiền lương là một vấn đề quan tâm của các nhà quản lý cũng như của người lao động cho dù phát sinh chi phí. Đó cũng là vấn đề quan trọng cần phải giải quyết và giải quyết một cách cân nhắc, cẩn thận, rõ ràng thỏa đáng . Vấn đề tiền lương phức tạp và nhạy cảm. Làm thế nào để có thể kích thích người lao động hăng hái sản xuất, nâng cao hiệu quả, chất lượng lao động, giảm chi phí nhân công trong giá thành sản phẩm, tạo cho doanh nghiệp đứng vững trên môi trường cạnh tranh, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh đang là yêu cầu đặt ra đối với các doanh nghiệp trong xu thế hiện nay. Xuất phát từ những yêu cầu trên, là sinh viên chuyên ngành kế toán em xin mạnh dạn nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện phương pháp tính lương trong xếp dỡ ở cảng Chùa Vẽ” với mong muốn tìm hiểu, bổ xung thêm kiến thức chuyên môn cho bản thân và góp một phần nhỏ hoàn thiện hơn cho công tác trả lương hiện nay của cảng. SV: Nguyễn Thị Thu Thủy 1 Lớp: CDKT01A Khóa Luận Tốt Nghiệp Trường cao đẳng kinh tế và công nghệ thực phẩm Khoa: Kinh tế 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài: Xuất phát từ lý do trên, đề tài có mục đích cơ bản sau: - Thứ nhất đề tài đưa ra được tổng quan về cách trả lương hiện nay của các lực lượng trong xếp dỡ ở cảng Chùa Vẽ. Qua đó phân tích đánh giá ưu nhược điểm về cách trả lương của các lực lượng xếp dỡ đó - Thứ hai đề tài đưa ra được một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa phương pháp trả lương hiện nay của các lực lượng xếp dỡ đó. 3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Để đạt được mục đích trên đề tài đi sâu nghiên cứu những vấn đề chính như sau: - Khảo sát, tìm hiểu về cách trả lương của các lực lượng chính trong dây chuyền xếp dỡ đó là công nhân bốc xếp thủ công, bốc xếp cơ giới, giao nhận và cán bộ trực ban, chỉ đạo qua 3 tháng năm 2017. Qua đó phân tích được thực trạng trả lương hiện nay của các lực lượng xếp dỡ đó ở cảng - Từ nghiên cứu đó đưa ra các phương pháp hoàn thiện hơn công tác trả lương cho công nhân xếp dỡ và ban điều hành, chỉ huy các xí nghiệp xếp dỡ trong toàn cảng. 4 Phương pháp nghiên cứu của đề tài Để thực hiện các nôi dung cơ bản nêu trên, đề tài thực hiện các phương pháp nghiên cứu sau: - Thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, đánh giá các số liệu thực hiện qua các tháng đầu năm 2017 để hoàn thiện việc trả lương, thưởng cho lao động xếp dỡ ở cảng Hải Phòng 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn - Đề tài đi vào nghiên cứu tổng quan về phương pháp tính lương, thưởng từ đó cho ta thấy thực trạng công tác trả lương hiện nay đối với công nhân xếp dỡ, giao nhận và ban điều hành, chỉ huy các đội ở cảng qua đó đưa ra được những vấn đề còn bất cập trong công tác đó. SV: Nguyễn Thị Thu Thủy 2 Lớp: CDKT01A Khóa Luận Tốt Nghiệp Trường cao đẳng kinh tế và công nghệ thực phẩm Khoa: Kinh tế - Đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu phương pháp trả lương cho công nhân xếp dỡ, giao nhận và ban điều hành, chỉ huy các đội đề tài đã đưa ra được các giải pháp hữu hiệu hơn khắc phục được nhược điểm của phương pháp tính lương trước đây, giúp hoàn thiện hơn nữa công tác trả lương cho các lực lượng này. Chương 1. NHỮNG LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC TIỀN LƯƠNG 1.1- Khái quát chung về tiền lương 1.1.1- Khái niệm về tiền lương Với nền sản xuất hàng hoá được tiến hành trên cơ sở chế độ công hữu tư liệu sản xuất và kế hoạch hoá tập trung, hàng tiêu dùng cũng trong khuôn khổ kế hoạch của Nhà nước, không coi là tồn tại thị trường sức lao động thì tiền lương là một bộ phận sản phẩm xã hội biểu hiện dưới hình thức tiền tệ mà người lao động với tư cách là chủ sở hữu tư liệu sản xuất nhận được của xã hội để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cá nhân, tiền lương biểu hiện mối quan hệ phân phối sản phẩm xã hội cho tiêu dùng cá nhân giữa toàn xã hội với từng người lao động. Do vậy tiền lương chỉ thuộc phạm vi phân phối, là một phần thu nhập quốc dân được Nhà nước phân phối có kế hoạch cho người lao động theo số lượng và chất lượng lao động. Tiền lương còn có thể gọi là tiền công, thù lao lao động, thu nhập lao động Từ lúc nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường thì Tiền lương được định nghĩa: “ Tiền lương là số tiền trả cho người công nhân viên chức theo số lượng và chất lượng của họ đã đóng góp” (Trang 391- Từ điển thống kê) Ở các nước có kinh tế thị trường, pháp luật lao động quy định Tiền lương bao gồm mọi khoản. Ví dụ: SV: Nguyễn Thị Thu Thủy 3 Lớp: CDKT01A Khóa Luận Tốt Nghiệp Trường cao đẳng kinh tế và công nghệ thực phẩm Khoa: Kinh tế Ở Pháp: Bộ luật Lao động ghi: “ Sự trả công phải được hiểu là Tiền lương hoặc lương bổng cơ bản bình thường hay tối thiểu và mọi thứ lợi ích, phụ cấp khác được trả trực tiếp hay gián tiếp bằng tiền hay hiện vật mà người sử dụng lao động trả cho người lao động theo việc làm của người lao động”. Ở Nhật Bản – Luật tiêu chuẩn ghi: “ Tiền lương nói trong luật này bất luận được gọi là Tiền lương, lương bổng hay tên khác là chi thù lao lao động mà người sử dụng lao động chi trả cho công nhân”. Ở nước ta: Ngay từ năm 1947 vản bản pháp luật của ta (Sắc lệnh số 29/SLĐiều 56, tiết thứ V) có ghi: “ Tiền công nói trong tiết này là Tiền lương chính không kể các khoản phụ cấp mà chủ đã hứa trả hay đã ghi trong khế ước. Không thể lấy cớ phải trả các khoản phụ cấp như phụ cấp thâm niên, phụ cấp gia đình trong sắc lệnh này mà trừ một phần số tiền công đó”. Tóm lại: “Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động là giá cả của yếu tố sức lao động mà người sử dụng (chủ doanh nghiệp, Nhà nước) phải trả cho người cung cấp sức lao động, tuân theo nguyên tắc cung cầu, giá cả thị trường và luật pháp hiện hành của Nhà nước” [6]. Cùng với khái niệm tiền lương có tính chất khái quát là các khái niệm: + Tiền lương danh nghĩa + Tiền lương thực tế + Tiền lương tối thiểu + Tiền lương kinh tế *” Tiền lương danh nghĩa là số tiền mà người lao động nhận được của người sử dụng lao động trả theo hợp đồng lao động ; Tiền lương danh nghĩa chưa thể hiện chính xác mức sinh hoạt của người lao động vì còn phụ thuộc vào giá cả của hàng hoá và dịch vụ” [6]. * “Tiền lương thực tế là khối lượng hàng hoá và dịch vụ mà người lao động có thể mua được bằng tiền lương danh nghĩa của mình sau khi đã đóng các khoản thuế theo quy định của Chính phủ. Tiền lương thực tế phụ thuộc vào 2 yếu tố tiền lương danh nghĩa và giá cả hàng hoá, giá cả dịch vụ. Tiền lương thực tế là SV: Nguyễn Thị Thu Thủy 4 Lớp: CDKT01A Khóa Luận Tốt Nghiệp Trường cao đẳng kinh tế và công nghệ thực phẩm Khoa: Kinh tế yếu tố quan trọng để tính mức thu nhập thực tế và mức sống của người lao động” [6]. * ” Tiền lương tối thiểu là tiền lương thấp nhất, bảo đảm nhu cầu tối thiểu về sinh học, xã hội học trả cho người lao động làm công việc giản đơn nhất, ở mức độ nhẹ nhàng nhất trong môi trường lao động bình thường. Nó đảm bảo cho người lao động có thể mua được những tư liệu sinh hoạt thiết yếu để tái sản xuất sức lao động cho bản thân và có dôi dư một phần để nuôi con và bảo hiểm lúc hết tuổi lao động” [6]. Điều 55 của Bộ luật lao động sửa đổi, bổ sung nước ta cũng quy định: “ mức lương của người lao động không được thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định” [1]. Đối với người làm công ăn lương, mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định là mức lương thấp nhất trong xã hội. Điều 56 của Bộ luật lao động nước ta xác định mức lương tối thiểu là mức lương được ấn định theo giá sinh hoạt, bảo đảm cho người lao động làm công việc giản đơn nhất trong điều kiện lao động bình thường, bù đắp sức lao động giản đơn và một phần tích luỹ tái sản xuất sức lao động mở rộng Mức lương tối thiểu là một chế định quan trọng bậc nhất của pháp luật lao động nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động nhất là trong kinh tế thị trường và trong điều kiện cung lớn hơn cầu về sức lao động. * Tiền lương kinh tế là tiền trả thêm vào mức lương tối thiểu để đạt được yêu cầu cung ứng sức lao động. 1.1.2- Ý nghĩa của tiền lương Trong nền kinh tế thị trường, tiền lương đóng một vai trò quan trọng, là đòn bảy kinh tế, thúc đẩy mạnh mẽ sản xuất phát triển, tăng năng suất lao động, tạo điều kiện cơ bản để tái sản xuất sức lao động. + Đối với doanh nghiệp: Tiền lương là một trong các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, cấu thành nên giá thành sản phẩm. Do đó thông qua các chính sách tiền lương có thể đánh giá được hiệu quả kinh tế của việc sử dụng lao động SV: Nguyễn Thị Thu Thủy 5 Lớp: CDKT01A Khóa Luận Tốt Nghiệp Trường cao đẳng kinh tế và công nghệ thực phẩm Khoa: Kinh tế + Đối với người lao động: Tiền lương là phần thu nhập chủ yếu, là phương tiện để duy trì sự tồn tại và phát triển của họ, ở một mức độ nào đó, tiền lương là bằng chứng thể hiện giá trị, uy tín, địa vị của người lao động và là phương tiện để đánh giá mức đối xử của chủ doanh nghiệp đối với người lao động. + Đối với xã hội: Tiền lương không chỉ mang tính chất là chi phí mà đã trở thành phương tiện tạo giá trị mới. Hay nói đúng hơn là nguồn kích thích nâng cao những năng lực tiềm ẩn của người lao động trong quá trình sản sinh ra các giá trị gia tăng, tạo động lực cho sản xuất kinh doanh đạt kết quả cao. Khi tiền lương hợp lý sẽ tạo khả năng thu hút các nguồn lao động, sắp xếp điều hoà giữa các ngành, các vùng, các lĩnh vực. Ngược lại, nếu tiền lương không hợp lý sẽ làm cho chất lượng nguồn lao động giảm sút hoặc gây ra sự chuyển dịch lao động, chảy máu chất xám và nghiêm trọng hơn nữa sẽ dẫn đến những vấn đề xã hội phức tạp như đình công, bãi công.. Như vậy tiền lương đóng vai trò to lớn trong sản xuất và đời sống. Chính vì vậy, hoàn thiện các chính sách quản lý, điều tiết tiền lương trong các lĩnh vực, nhất là các doanh nghiệp là một trong những nhiệm vụ trọng tâm mà chính phủ cũng như những người quản lý phải chú ý thực hiện. 1.1.3 Chức năng của tiền lương: + Chức năng thước đo giá trị: Tiền lương là cơ sở để điều chỉnh giá cả cho phù hợp mỗi khi giá cả biến động + Chức năng tái sản xuất sức lao động: Nhằm duy trì khả năng làm việc lâu dài và có hiệu quả trên cơ sở tiền lương bù đắp những hao phí lao động đã mất mát, tiêu hao. + Chức năng công cụ quản lý doanh nghiệp: Trong hoạt động sản xuất kinh doanh người lao động bao giờ cũng chịu hai sức ép đó là chi phí hoạt động và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp luôn tìm cách giảm thiểu chi phí, trong đó có chi phí tiền lương của nhà nước về quyền lợi tối thiểu mà doanh nghiệp được hưởng SV: Nguyễn Thị Thu Thủy 6 Lớp: CDKT01A Khóa Luận Tốt Nghiệp Trường cao đẳng kinh tế và công nghệ thực phẩm Khoa: Kinh tế + Chức năng đòn bẩy kinh tế: Thực tế cho thấy khi được trả công xứng đáng thì người lao động sẽ gắn trách nhiệm của mình đối với lợi ích của doanh nghiệp hơn. Một mức lương thoả đáng là nhân tố quyết định để họ phát huy hết khả năng, óc sáng tạo của mình vào sản phẩm, làm qúa trình sản xuất đi vào guồng máy chung của xã hội. + Chức năng điều hoà lao động: Khi một nền kinh tế ngày càng phát triển, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng gay gắt thì những chính sách về tiền lương là không thể tách rời. Sự hấp dẫn với mức lương cao sẽ thu hút lao động nhiều hơn, điều này sẽ cho thấy cơ cấu lao động trong các ngành nghề không đều, mất cân đối. Do đó hệ thống bảng lương sẽ là điều kiện để điều tiết lao động, nó sẽ tạo ra một cơ cấu lao động hợp lý góp phần làm ổn định thị trường lao động từng quốc gia. 1.1.4 Thang lương, bảng lương Thang lương, bảng lương trong các doanh nghiệp do doanh nghiệp tổ chức xây dựng theo các nguyên tắc quy định của Chính phủ Nguyên tắc của việc xây dựng thang lương, bảng lương: - Thang lương, bảng lương được xây dựng cho lao động quản lý, lao động chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ và công nhân trực tiếp sản xuât, kinh doanh theo công việc và ngành nghề được đào tạo. - Bội số của thang lương, bảng lương là hệ số mức lương cao nhất của người lao động có trình độ quản lý, chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ cao nhất so với người có trình độ thấp nhất. - Số bậc của thang lương, bảng lương phụ thuộc vào độ phức tạp quản lý, cấp bậc công việc đòi hỏi. Khoảng cách của bậc lương liền kề phải đảm bảo khuyến khích nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ, các tài năng, tích luỹ kinh nghiệm - Mức lương bậc 1 của thang lương, bảng lương phải cao hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Mức lương của nghề hoặc công việc độc hại, SV: Nguyễn Thị Thu Thủy 7 Lớp: CDKT01A Khóa Luận Tốt Nghiệp Trường cao đẳng kinh tế và công nghệ thực phẩm Khoa: Kinh tế nguy hiểm, và đặc biệt độc hại, nguy hiểm phải cao hơn mức lương của nghề hoặc công việc có điều kiện lao động bình thường. 1.1.4.1 Thang lương Thang lương là những bậc lương làm thước đo chất lượng lao động phân định những quan hệ tỷ lệ trả công lao động khác nhau theo trình độ chuyên môn khác nhau giữa các nhóm người lao động. Để thực hiện và hoàn thành công việc, người lao động phải có trình độ lành nghề tương ứng với mức độ phức tạp của công việc. Đồng thời phải cố gắng về sức lực cơ bắp, căng thẳng về thần kinh, tâm lý, tiêu hao năng lượng trong quá trình lao động. Thang lương bao gồm một số nhất định các bậc và những hệ số tiền lương tương ứng. Mỗi bậc của thang lương thể hiện mức độ phức tạp và mức tiêu hao lao động của công việc. Công việc ít phức tạp và mức tiêu hao năng lượng ít nhất thì bậc thấp nhất – bậc khởi điểm hoặc bậc 1. Trong khu vực sản xuất kinh doanh, bậc khởi điểm là bậc 1. Mức lương bậc 1 có thể cao hơn mức lương tối thiểu. Hệ số lương của mỗi bậc là tỷ số giữa mức lương cơ bản của bậc đó so với mức lương bậc 1, chênh lệch giữa bậc cao nhất và bậc thấp nhất trong một thang lương. Bộ luật lao động của nước ta chỉ quan tâm đến mức lương tối thiểu còn việc dùng lương cho các bậc trên thì theo nguyên tắc thoả thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động. Tuy vậy thang lương, bảng lương tại các cảng do Chính phủ công bố. Điều 57 Bộ luật lao động nước ta ghi: “ Chính phủ công bố thang lương, bảng lương để làm cơ sở tính các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm ytế, tiền lương khi làm đêm, ngừng việc, nghỉ hàng năm và các trường hợp khác của người lao động” [2]. Người sử dụng lao động và người lao động khi ký kết hợp đồng lao động sẽ cùng nhau xác định bậc lương của từng người, căn cứ vào tiêu chuẩn, cấp bậc kỹ SV: Nguyễn Thị Thu Thủy 8 Lớp: CDKT01A Khóa Luận Tốt Nghiệp Trường cao đẳng kinh tế và công nghệ thực phẩm Khoa: Kinh tế thuật, bậc lương theo bậc công nhân tương ứng với mức độ phức tạp của công việc. 1.1.4.2- Bảng lương Thường áp dụng đối với công chức nhà nước, viên chức doanh nghiệp do có những nghề khó phân chia được rõ rệt các mức độ phức tạp hoặc do đặc điểm công việc phải bố trí lao động theo cương vị và trách nhiệm, theo chức danh. Bảng lương cũng có các bậc, từ bậc 1 trở lên. Mỗi chức danh trong bảng lương có các tiêu chuẩn nghiệp vụ, chuyên môn (chức danh, hiểu biết, làm được và yêu cầu trình độ) theo các ngạch nghiệp vụ hoặc ngạch kỹ thuật. Mỗi chức danh trong bảng lương có tiêu chuẩn nghiệp vụ chuyên môn để làm căn cứ xếp lương. Mỗi công chức nhà nước đều phải được xếp vào một bậc nhất định trong bảng lương quy định của nhà nước. 1.1.5- Phụ cấp lương: Khi tồn tại khái niệm tiền lương cơ bản thì cũng tồn tại khái niệm phụ cấp lương. “Phụ cấp lương là phần tiền trả công lao động ngoài tiền lương cơ bản. Nó bổ sung cho lương cơ bản về các yếu tố chưa đề cập hoặc đề cập chưa đầy đủ, các yếu tố không ổn định hoặc vượt quá điều kiện bình thường nhằm đền bù, khuyến khích lao động tốt hơn” [2]. Hiện nay có các loại phụ cấp như: phụ cấp khu vực, lưu động, thu hút, phụ cấp chuyển tải, phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp làm đêm, phụ cấp độc hại, nguy hiểm, phụ cấp chức vụ lãnh đạo. Do mức tiền lương chính trong các thang lương, bảng lương do Nhà nước quy định để áp dụng cho các doanh nghiệp nhà nước đều được xác định bằng hệ số so với mức lương tối thiểu, các loại phụ cấp lương cũng đều được xác định bằng hệ số so với mức lương tối thiểu. Riêng phụ cấp làm đêm thì vẫn được quy định bằng tỷ lệ % so với mức lương chính: Khoản 2 Điều 61 của Bộ luật lao động sửa đổi, bổ sung nước ta quy định: “người lao động làm việc vào ban đêm quy định tại điều 70 của Bộ luật nay thì được trả thêm ít nhất bằng 30% tiền lương SV: Nguyễn Thị Thu Thủy 9 Lớp: CDKT01A Khóa Luận Tốt Nghiệp Trường cao đẳng kinh tế và công nghệ thực phẩm Khoa: Kinh tế tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương của công việc đang làm vào ban ngày” [1]. Cùng với tiền lương ta có thêm một số khái niệm: Tiền công: Dùng để chỉ số tiền mà người mua sức lao động trả cho người bán sức lao động ngoài khu vực nhà nước. Tiền lương: Dùng để chỉ số tiền mà nhà nước trả cho người lao động trong khu vực nhà nước thông qua các thang bảng lương và phụ cấp Thu nhập: gồm tiền lương, phụ cấp và các khoản khác mà người lao ođộng nhận được (thưởng, ăn ca ). 1.1.6- Vai trò của tiền lương Cùng với sự biến đổi không ngừng nói chung, của đất nước nói riêng, vấn đề tiền lương cũng là vấn đề cần xem xét một cách thích đáng để đáp ứng kịp thời với sự phát triển. Nó có vai trò quan trọng trong việc mở rộng, hiện đại hoá quá trình sản xuất, kích thích người lao động làm việc 1.1.6.1- Về kinh tế: Tiền lương đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định và phát triển kinh tế gia đình (ăn, ở, học tập và vui chơi ). Phần còn lại để tích luỹ làm vật đảm bảo cho người lao động yên tâm hơn trong sản xuất và khuyến khích họ cố gắng hơn nữa. 1.1.6.2- Về chính trị xã hội: Tiền lương không chỉ ảnh hưởng đến người lao động mà còn ảnh hưởng đến tình hình chính trị xã hội. Nếu tiền lương cao sẽ ảnh hưởng tích cực đến người lao động. Tiền lương của họ không những nuôi sống cả gia đình mà còn có thể tích luỹ. Khi đó họ sẽ thiết tha với công việc hơn, có niềm tin vào tương lai của mình và cả gia đình điều đó làm cho tình hình an ninh chính trị ngày càng được đảm bảo vững chắc hơn. Ngược lại nếu thu nhập của họ không đủ đảm bảo cuộc sống cho gia đình họ thì chắc chắn gia đình họ sẽ rơi vào khủng hoảng sau đó sẽ là xã hội. Với 1 nền kinh tế rơi vào tình trạng như vậy thì sự mất ổn định về an ninh chính trị tất yếu. SV: Nguyễn Thị Thu Thủy 10 Lớp: CDKT01A Khóa Luận Tốt Nghiệp Trường cao đẳng kinh tế và công nghệ thực phẩm Khoa: Kinh tế Tiền lương phải đảm bảo đủ chi phí để tái tạo ra sản xuất sức lao động. Đây là yêu cầu tối thiểu về tiền lương để nuôi sống và duy trì sức lao động của họ. Đảm bảo được vai trò kích thích của tiền lương, vì sự thúc ép của tiền lương người lao động có trách nhiệm cao hơn trong công việc. Tiền lương tạo ra niềm say mê nghề nghiệp, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ của bản thân về mọi mặt kiến thức, lý luận, kỹ năng kỹ xảo, tự tìm tòi học hỏi và rút kinh nghiệm. Đảm bảo sự điều phối lao động của tiền lương, với tiền lương thoả đáng người lao động tự nhận mọi công việc được giao trong lĩnh vực chuyên môn của mình. Vai trò quản lý của tiền lương thông qua việc trả lương để kiểm tra, giám sát người lao động thực hiện công việc đạt kết quả theo ý muốn của mình. Để phát huy vai trò làm đòn bảy kinh tế của tiền lương, doanh nghiệp cần phải chú ý đến những vấn đề cơ bản sau: - Xác định quỹ lương của toàn doanh nghiệp trong một năm - Xác định mức lương bình quân của một cán bộ công nhân viên trong một năm - Đề ra biện pháp tăng quỹ lương trên cơ sở tăng khả năng tạo nguồn tiền lương. - Xây dựng phương pháp phân phối tiền lương nội bộ, căn cứ vào nguyên tắc phân phối theo lao động đảm bảo vừa kích thích vừa kiểm tra công việc của họ. 1.1.7- Quan hệ giữa lao động và sự phân phối theo lao động Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội XII của Đảng nêu:” Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế Các doanh nghiệp được tự chủ trong việc trả tiền lương và tiền thưởng trên cơ sở hiệu quả của doanh nghiệp và năng suất lao động của mỗi người”. Trong các khâu của quá trình tái sản xuất thì sản xuất có vai trò quyết định. Lý luận cũng như thực tiễn đã chứng minh vai trò của phân phối có ảnh hưởng trở lại không nhỏ đối với sản xuất: nó có thể thúc đẩy năng suất tăng nhanh, cũng có SV: Nguyễn Thị Thu Thủy 11 Lớp: CDKT01A Khóa Luận Tốt Nghiệp Trường cao đẳng kinh tế và công nghệ thực phẩm Khoa: Kinh tế thể kìm hãm sự phát triển của sản xuất. Phân phối hợp lý, công bằng thì tác động tích cực đến sản xuất, đến cách mạng kỹ thuật công nghệ, cải thiện đời sống người lao động. Trên cơ sở đẩy mạnh sản xuất để tiến hành phân phối; ngược lại phải có chính sách phân phối đúng đắn để tác động trở lại sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng năng suất lao động, tạo sự phấn khởi sản xuất có hiệu quả của người lao động. Doanh nghiệp phải quán triệt nguyên tắc phân phối theo lao động trong việc phân phối cho tiêu dùng cá nhân. Phân phối theo lao động lấy kết quả lao động làm thước đo để phân phối tức là căn cứ trực tiếp vào số lượng, chất lượng lao động, năng suất, hiệu suất lao động của mỗi người đã đóng góp vào việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, không phân biệt tuổi tác, giới tính, dân tộc, tôn giáo nhưng có phân biệt giữa lao động lành nghề và lao động không lành nghề, ai làm tốt, làm nhiều thì hưởng nhiều. Chính vì vậy, làm cho mọi người lao động quan tâm đến kết quả lao động của mình, kích thích mọi người phải ra sức học tập văn hoá, khoa học kỹ thuật, tuân thủ ký luật lao động, rèn luyện kỹ năng nghề để trở thành người lao động lành nghề trong sản xuất và công tác, nâng cao mức thu nhập từ lao động. Khi nhấn mạnh và chú trọng nguyên tắc khuyến khích lợi ích vật chất mà cụ thể là vấn đề trả lương làm cho người lao động quan tâm đến kết quả lao động của mình, thì đồng thời cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải đẩy mạnh giáo dục chính trị tư tưởng; nếu không sẽ dẫn đến hậu quả tiêu cực như làm ẩu, làm bừa, gian lận, cạnh tranh không lành mạnh, chạy theo lợi ích cá nhân, lợi ích cực bộ, thiếu sự đoàn kết tương trợ giữa những người lao động với nhau. Thực hiện được phân phối theo lao động thì đồng thời chống được phân phối bình quân. Trong quan hệ lao động, tiền lương là giá trị, giá cả sức lao động. Đối với người sử dụng lao động, tiền lương là một yếu tố của chi phí sản xuất. Đối với người lao động, tiền lương là nguồn sống chính để nuôi sống bản thân và gia đình. Tiền lương thoả đáng là một công cụ, đòn bảy kinh tế quan trọng góp phần khuyến khích người lao động chăm lo học tập văn hoá, khoa học kỹ thuật, nâng SV: Nguyễn Thị Thu Thủy 12 Lớp: CDKT01A Khóa Luận Tốt Nghiệp Trường cao đẳng kinh tế và công nghệ thực phẩm Khoa: Kinh tế cao trình độ lành nghề, có thái độ lao động đúng đắn, gắn bó lâu dài với doanh nghiệp, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển mạnh mẽ. 1.1.8 Phân loại tiền lương 1.1.8.1- Lương năm: Là tiền lương tính và trả theo năm. Biện pháp này thường được áp dụng ở các nước phát triển cho một số nhân viên công vụ đặc biệt là cấp cao. 1.1.8.2- Lương tháng: Là tiền lương được trả theo tháng, áp dụng phổ biến nhất là đối với doanh nghiệp Nhà nước. Đối với công nhân viên chức ở nước ta các quy định về tiền lương thường quy định theo các mức lương tháng. 1.1.8.3- Lương ngày: Là tiền lương được tính và trả theo ngày, áp dụng cho công nhân làm việc không theo tính chất công việc thường xuyên, chỉ làm việc một số ngày nhất định theo yêu cầu của công việc. Cách trả lương này không áp dụng cho công nhân làm việc trong biên chế hay theo hợp đồng lao động. Tiền lương ngày được xác định trên cơ sở tiền lương tháng chia cho số ngày tiêu chuẩn trong tháng theo quy định của pháp luật mà doanh nghiệp lựa chọn, nhưng tối đa không quá 26 ngày. Số ngày làm việc trong tháng xác định theo công thức: Số ngày làm việc trong tháng = 52 x n 12 12 là 12 tháng; 52 là 52 tuần; n là số ngày làm việc trong tuần theo quy định của doanh nghiệp. Trong trường hợp không ấn định trước mức lương ngày mà chỉ ấn định mức lương tháng, thì việc tính lương ngày từ mức lương tháng theo công thức V ngµy  V th¸ng x12 52 x n hoặc Lngày = Ltháng /26 ngày Tiền lương ngày khắc phục được nhược điểm của tiền lương tháng vì người hưởng lương ngày thì làm việc ngày nào chấm công ngày đó để trả lương theo số SV: Nguyễn Thị Thu Thủy 13 Lớp: CDKT01A Khóa Luận Tốt Nghiệp Trường cao đẳng kinh tế và công nghệ thực phẩm Khoa: Kinh tế ngày làm việc thực tế, nên người lao động phải đảm bảo đủ số ngày công trong tháng để đạt được mức lương tháng đã thoả thuận trong hợp đồng lao động. 1.1.8.4- Lương giờ: Là tiền lương trả theo giờ cho một ngày làm việc. Tiền lương giờ được xác định trên cơ sở tiền lương ngày chia cho số giờ tiêu chuẩn hàng ngày hoặc tiền lương tuần chia cho số giờ tiêu chuẩn hàng tuần theo quy định của doanh nghiệp về thời giờ làm việc theo ngày hoặc theo tuần. 1.1.8.5- Lương tuần: Là tiền lương trả cho một tuần làm việc. Tiền lương tuần được xác định trên cơ sở tiền lương tháng nhân với 12 chia cho 52 tuần: V th¸ng x 12 Vtuần = 52 1.1.9- Tiền thưởng: Điều 64 của Bộ luật lao động sửa đổi, bổ sung năm 2012 quy định “ căn cứ vào kết quả sản xuất, kinh doanh hàng năm của doanh nghiệp và mức độ hoàn thành công việc của người lao động, người sử dụng lao động thưởng cho người lao động làm việc tại doanh nghiệp” [1]. Nghị định 114/2012/NĐ-CP ngày 31/12/2012 của Chính phủ quy định:” Đối với doanh nghiệp nhà nước, căn cứ vào kết quả sản xuất, kinh doanh hàng năm và mức độ hoàn thành công việc của người lao động, doanh nghiệp trích lập Quỹ khen thưởng từ lợi nhuận sau thuế để thưởng cho người lao động làm việc tại doanh nghiệp, tối đa không quá 50% quỹ tiền lương thực hiện của doanh nghiệp. Mức trích lập Quỹ khen thưởng thực hiện theo hướng dẫn của Bộ tài chính. Đối với doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác, căn cứ vào kết quả sản xuất, kinh doanh hàng năm và mức độ hoàn thành công việc của người lao động, người sử dụng lao động thưởng cho người lao động làm việc tại doanh nghiệp trên cơ sở hợp đồng thoả thuận, thoả ước lao động tập thể mà hai bên đã thoả thuận. SV: Nguyễn Thị Thu Thủy 14 Lớp: CDKT01A Khóa Luận Tốt Nghiệp Trường cao đẳng kinh tế và công nghệ thực phẩm Khoa: Kinh tế Quy chế thưởng do người sử dụng lao động quyết định. Điều 11 của Bộ luật Lao động sửa đổi, bổ sung năm 2006 cũng nêu rõ:”Nhà nước khuyến khích việc quản lý lao động dân chủ, công bằng, văn minh trong doanh nghiệp và mọi biện pháp, kể cả việc thưởng trích từ lợi nhuận của doanh nghiệp làm cho người lao động quan tâm đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp , nhằm đạt hiệu quả cao trong quản lý lao động, sản xuất của doanh nghiệp”[1] Tiền thưởng là một hình thức khuyến khích vật chất, làm tăng thêm thu nhập cho người lao động nhằm xác nhận sự đóng góp tích cực có hiệu quả cụ thể của người lao động vào kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, khuyến khích người lao động gắn bó với doanh nghiệp, đã nỗ lực càng tiếp tục nỗ lực hơn, có lợi cho bản thân và cho doanh nghiệp. Có nhiều loại tiền thưởng để doanh nghiệp lựa chọn, tuỳ theo hướng nỗ lực của người lao động vào những chỉ tiêu nào của hoạt động sản xuất, kinh doanh: thưởng tăng năng suất lao động cá nhân, thưởng nâng cao chất lượng sản phẩm, thưởng cải tiến kỹ thuật, công nghệ, thưởng tiết kiệm nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu; thưởng sáng kiến, phát minh, sản phẩm mới, mẫu mã mới; thưởng ngày công, giờ công cao; thưởng thi đua (vừa tặng danh hiệu lao động tiên tiến chiến sĩ thi đua, bàn tay vàng vừa khen thưởng vật chất); thưởng đơn vị hoặc cá nhân ngoài doanh nghiệp có quan hệ hợp đồng kinh tế đã hoàn thành tốt các điều kiện của hợp đồng, có đóng góp nhiều cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp . Nguồn tài chính làm tiền thưởng của doanh nghiệp còn có thể trích trực tiếp từ phần giá trị làm lợi của việc tiết kiệm, áp dụng các sáng kiến, phát minh vào sản xuất, kinh doanh; từ phần lợi nhuận còn lại sau khi đã làm đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước. Doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu còn có thể có nguồn tiền thưởng xuất khẩu. Doanh nghiệp phải xây dựng và quyết định quy chế thưởng và phải công bố công khai cho mọi người trong doanh nghiệp biết để phấn đấu đạt các chỉ tiêu và điều kiện khen thưởng. SV: Nguyễn Thị Thu Thủy 15 Lớp: CDKT01A Khóa Luận Tốt Nghiệp Trường cao đẳng kinh tế và công nghệ thực phẩm Khoa: Kinh tế Quy chế khen thưởng được xây dựng theo nguyên tắc là căn cứ vào kết quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và mức độ hoàn thành công việc (mức hiệu quả, năng suất, chất lượng đạt được) của mỗi người lao động, việc chấp hành nội quy kỷ luật lao động. Nếu thưởng từ lợi nhuận thì còn có thể xét tính đến thời gian làm việc tại doanh nghiệp lâu hơn thì được thưởng nhiều hơn, công việc phức tạp khó khăn thì được thưởng nhiều hơn bình thường. Tiêu chuẩn xét thưởng phải cụ thể, rõ ràng để người lao động dễ phấn đấu và việc bình chọn được chính xác, công bằng. Nên tập trung vào những tiêu chuẩn chủ yếu từng thời kỳ, phù hợp với yêu cầu nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường, khắc phục những hạn chế và điểm yếu của doanh nghiệp. Chỉ tiêu số lượng phải kèm thưo điều kiện về chất lượng, chỉ tiêu chất lượng phải kèm theo điều kiện về thời gian hoàn thành, ví dụ : thưởng tăng năng suất lao động với điều kiện bảo đảm đúng chất lượng sản phẩm với điều kiện hoàn thành định mức lao động hoặc nhiệm vụ được giao. Mức thưởng có thể theo phân hạng A, B, C bằng số tiền tuyệt đối hoặc theo mức tiền lương (nhât là trong thưởng từ lợi nhuận); theo giá trị làm lợi, bằng một số % giá trị làm lợi về tiết kiệm vật tư, áp dụng sáng kiến, cải tiến, phát minh hoặc của giá trị thu hồi về tiền tham ô, lãng phí được phát hiện hoặc của giá trị vượt chỉ tiêu nhận khoán sau khi đã nộp đủ sản phẩm theo chỉ tiêu hợp đồng giao khoán sản xuất nội bộ Kỳ phân phối tiền thưởng tuỳ theo loại tiền thưởng, nói chung là phải kịp thời; có thể khen thưởng tức thời thì người lao động có thành tích được xác nhận hoặc khen thưởng theo tháng cuối năm. Việc thưởng cuối năm nên làm vào dịp trước Tết âm lịch khoảng một tháng hoặc ít nhất nửa tháng, giúp cho người lao động có thêm khoản thu nhập để chi tiêu trong dịp Tết tạo niềm phấn khởi bước vào công việc của năm mới. 1.2- Những nguyên tắc cơ bản của tiền lương Nội dung cơ bản của tổ chức tiền lương là xác định chế độ và phụ cấp lương cũng như tìm được các hình thức trả lương phù hợp nhằm nâng cao năng SV: Nguyễn Thị Thu Thủy 16 Lớp: CDKT01A Khóa Luận Tốt Nghiệp Trường cao đẳng kinh tế và công nghệ thực phẩm Khoa: Kinh tế suất lao động, phát triển sản xuất và cải thiện đời sống vật chất tinh thần của người lao động. Khi tổ chức lao động cần đạt những yêu cầu cơ bản sau: - Bảo đảm tái sản xuất sức lao động và không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người lao động. - Làm cho năng suất lao động không ngừng nâng cao - Đảm bảo tính đơn giản, rõ ràng, dễ hiểu. Để phản ánh đầy đủ những yêu cầu trên, khi tổ chức tiền lương đảm bảo những nguyên tắc: 1.2.1- Phù hợp với quy luật phân phối theo lao động: Quy luật này đòi hỏi xác định chính xác lượng lao động hao phí và xác định chính xác tiền lương bù đắp cho lượng lao động hao phí đó. Lượng lao động hao phí có thể xác định bằng thời gian lao động hay bằng năng suất tiêu hao trong quá trình lao động và tiền lương có thể tính toán bằng nhiều cách nhưng phải phù hợp với lượng lao động đã hao phí. 1.2.2- Tiền lương phải đảm bảo tái sản xuất sức lao động thể hiện trước hết ở mức lương tối thiểu. Mức lương tối thiểu được xây dựng trước hết căn cứ vào mức sống tối thiểu của quốc gia. Mức sống tối thiểu được hiểu là mức độ thoả mãn nhu cầu tối thiểu của người lao động trong một thời kỳ nhất định. Nó được biểu hiện qua hai mặt: hiện vật và giá trị. Về hiện vật: Nó thể hiện qua cơ cấu chủng loại, các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất đơn giản sức lao động như ăn, mặc, ở, đi lại, trang bị đồ dùng sinh hoạt, giao tiếp xã hội, bảo vệ sức khoẻ Về giá trị: Nó thể hiện qua giá trị của các tư liệu sinh hoạt và các dịch vụ sinh hoạt cần thiết. 1.2.3- Trả lương ngang nhau cho những người lao động như nhau: SV: Nguyễn Thị Thu Thủy 17 Lớp: CDKT01A Khóa Luận Tốt Nghiệp Trường cao đẳng kinh tế và công nghệ thực phẩm Khoa: Kinh tế Nguyên tắc này bắt nguồn từ nguyên tắc phân phối theo số lượng và chất lượng lao động. Nó thể hiện ở chỗ khi phân phối lương, thưởng, phụ cấp và các hình thức vật chất khác không phân biệt tuổi tác, giới tính, dân tộc, hễ lao động như nhau thì được trả lương ngang nhau. Trong cơ chế thị trường, nguyên tắc phân phối theo lao động vẫn giữ nguyên giá trị. Tuy nhiên trong cạnh tranh, hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp không giống nhau, lợi nhuận thu được rất khác nhau. Vì vậy nguyên tắc phân phối theo lao động không thể đúng khi xét với nhiều doanh nghiệp mà chỉ đúng trong phạm vi một doanh nghiệp, một đơn vị cụ thể. Tiền lương trong cơ chế thị trường không chỉ tuân theo nguyên tắc phân phối theo lao động mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. 1.2.4- Đảm bảo năng suất lao động tăng nhanh hơn tiền lương bình quân Đây là nguyên tắc quan trọng khi tổ chức lao động tiền lương vì có như vậy mới tạo cơ sở cho giảm giá thành, tăng tích luỹ và giành được ưu thế trên thị trường. Tiền lương bình quân tăng lên dựa vào các yếu tố chủ quan: Do nâng cao trình độ lành nghề, tổ chức và phân công lao động hợp lý tạo điều kiện giảm bớt tổn thất về thời gian lao động. Năng suất lao động tăng không chỉ do các nhân tố trên mà còn trực tiếp phụ thuộc vào các nhân tố khách quan, như áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến vào trong sản xuất. Như vậy tốc độ tăng năng suất lao động có quan hệ mật thiết với tốc độ tăng tiền lương bình quân. Bởi khi năng suất lao động tăng lên, sản phẩm sản xuất ra ngày càng nhiều, chất lượng tăng lên và giá thành rẻ hơn thì doanh thu sẽ tăng lên kéo theo đó tổng quỹ lương cũng tăng lên và tiền lương bình quân cũng sẽ tăng theo, và ngược lại khi tiền lương bình quân tăng thì sẽ có tác động thúc đẩy tăng năng suất lao động. Trong mối quan hệ này thì năng suất lao động giữ vai trò chủ đạo quyết định, còn tiền lương bình quân giữ vai trò bổ xung. Khi quy định tốc độ tăng tiền lương bình quân giữa các ngành kinh tế quốc dân phải xét đến ý SV: Nguyễn Thị Thu Thủy 18 Lớp: CDKT01A Khóa Luận Tốt Nghiệp Trường cao đẳng kinh tế và công nghệ thực phẩm Khoa: Kinh tế nghĩa kinh tế của mỗi ngành đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân trong từng thời kỳ nhất định. 1.2.5- Đảm bảo mối quan hệ hợp lý về tiền lương bình quân giữa những người lao động làm các nghề khác nhau trong nền kinh tế quốc dân. Quy định giữ vững mối quan hệ hợp lý về tiền lương giữa những người lao động làm cac nghề khác nhau trong các ngành kinh tế quốc dân, là một trong những nguyên tắc quan trọng của tổ chức tiền lương. Nguyên tắc này do nhiều nhân tố khách quan quy định: - Trình độ lành nghề bình quân của người lao động ở mỗi ngành, mỗi xí nghiệp khác nhau đòi hỏi tiền lương bình quân cũng khác nhau. - Điều kiện làm việc giữa các ngành, các xí nghiệp khác nhau cụ thể là: những người lao động trong điều kiện nặng nhọc tổn hao nhiều năng lượng hơn do đó phải trả lương cao hơn so với những người lao động trong điều kiện bình thường đề bù đắp lại lượng lao động đã hao phí. - Ý nghĩa kinh tế của mỗi ngành trong nền kinh tế quốc dân, trong từng thời kỳ xây dựng kinh tế là khác nhau. Các ngành chủ yếu quyết định sự phát triển nền kinh tế quốc dân cần được bảo đảm lương cao hơn. - Mức sinh hoạt ở các nền kinh tế khác nhau, các ngành sản xuất phân bố ở các khu vực khác nhau dẫn đến lương bình quân cũng khác nhau. 1.2.6- Đảm bảo mối quan hệ hợp lý giữa tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế Do sức lao động cũng là hàng hoá, nó chịu sự điều tiết của quy luật giá trị. Tiền lương là giá trị của sức lao động vì vậy nó cũng chịu sự tác động của quy luật này. Mặt khác tiền lương thực tế được thể hiện bằng số lượng tư liệu sinh hoạt và dịch vụ mà người lao động mua được bằng tiền danh nghĩa, nếu giữa chúng không có sự phù hợp thì có nghĩa là tự phá vỡ mối quan hệ cung cầu, nó sẽ kìm hãm sự phát triển của sản xuất xã hội. 1.3- Các hình thức trả lương SV: Nguyễn Thị Thu Thủy 19 Lớp: CDKT01A Khóa Luận Tốt Nghiệp Trường cao đẳng kinh tế và công nghệ thực phẩm Khoa: Kinh tế Người sử dụng lao động có quyền chọn các hình thức trả lương phù hợp với đặc điểm, tính chất của từng loại công việc trong doanh nghiệp và phải thông báo cho người lao động biết cũng như phải duy trì hình thức trả lương đã chọn trong một thời gian. 1.3.1- Lương theo thời gian: Trả lương theo thời gian là hình thức trả lương cho người lao động theo thời gian làm việc thực tế, căn cứ vào mức lương trong hợp đồng lao động hoặc mức lương cấp bậc được xếp theo thang lương, bảng lương của doanh nghiệp. Hình thức này thường được áp dụng trong trường hợp công việc của người lao động không tính và không thống kê được số lượng sản phẩm như: công việc của đại bộ phận viên chức doanh nghiệp, công việc của những người lao động điều khiển thiết bị tự động. Đơn vị thời gian có thể tính theo tháng, ngày, giờ cũng có nơi tính theo tuần (một số nước phát triển tính theo năm cho Tổng thống, Phó Tổng thống, Chủ tịch Thượng viện, Hạ viện, Chánh án Toà án tối cao, Bộ trưởng) - Tiền lương tháng là tiền lương trả cố định hàng tháng. Các quy định về tiền lương của nước ta đều quy định mức lương tháng, chưa có quy định mức lương giờ như một số nước. Trong sản xuất kinh doanh, trả lương tháng tuy bảo đảm tiền lương ổn định, nhưng nhiều trường hợp không khuyến khích sự chuyên cần, không phản ánh năng suất lao động khác nhau giữa những người cùng làm một công việc. Vì vậy, thường một số doanh nghiệp áp dụng lương thời gian có thưởng, tức là kết hợp với khen thưởng hoặc bình điểm về bảo đảm ngày công, giờ công cao, mức độ phức tạp của công việc, tinh thần trách nhiệm đối với công việc, chất lượng hoàn thành công việc. 1.3.2- Lương theo sản phẩm Trả lương theo sản phẩm là hình thức trả lương cho người lao động căn cứ vào số lượng và chất lượng sản phẩm mà họ đã làm ra. Lương theo sản phẩm có tác dụng tích cực, khuyến khích tăng năng suất lao động, phản ánh tương đối chính xác lượng lao động thực tế bỏ ra, phân biệt được năng lực khác nhau giữa SV: Nguyễn Thị Thu Thủy 20 Lớp: CDKT01A
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan