TRƯỜNG ĐH Sư PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC
NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN
HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT HỌC TRÒ
VÀ THẾ GIỚI THIÊN NHIÊN TRONG
ĐƯỜNG VÈ VỚI MẸ CHỮ CỦA VI HÔNG
KHÓA LUÂN TỐT NGHIÊP ĐAI HOC
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC THIẾU NHI
Ngưòi hướng dẫn khoa học
TIẾN SĨ: NGUYỄN THỊ NHÀN
Hà Nội, 2016
1
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, giúp đỡ của các thầy, cô giáo ttong
khoa Giáo dục Tiểu học trong quá trình làm khóa luận này. Đặc biệt tôi xin bày
tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến cô TS. Nguyễn Thị Nhàn - người đã hướng dẫn
trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình để tôi có thể hoàn thành khóa luận.
Trong quá trình thực hiện đề tài khóa luận, dù đã rất cố gắng song do thời gian
và năng lực có hạn nên khóa luận vẫn còn nhiều thiếu sót, hạn chế. Tôi rất
mong nhận được sự tham gia đóng góp ý kiến của các thầy cô và các bạn.
Hà Nội, tháng 5 năm 2016
Sinh viên
Nguyễn Thị Thanh Huyền
Đe tài khóa luận: “Hình tượng nhân vật học ttò và thế giới thiên nhiên
trong Đường về với Mẹ chữ của Vi Hồng” được tôi thực hiện dưới sự hướng
dẫn của cô TS. Nguyễn Thị Nhàn. Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của riêng cá nhân tôi. Kết quả thu được trong đề tài là hoàn toàn trung thực
và không trùng vói kết quả nghiên cứu của các tác giả khác.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 5 năm 2016
Sinh viên
Nguyễn Thị Thanh Huyền
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài...........................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề............................................................................................. 2
3. Mục đích nghiên cứu .................................................................................. 4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................................. 5
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 5
6. Phưcmg pháp nghiên cứu ........................................................................... 5
7. Giả thuyết khoa học ......................................................................................5
8. Cấu trúc khóa luận ........................................................................................6
NỘI DUNG
CHƯƠNG I. THẾ GIỚI HÌNH TƯỢNG HỌC TRÒ VÀ THIÊN NHIÊN
TRONG TÁC PHẨM ĐƯỜNG VỀ VỚI MẸ CHỮ ..........................................7
1.1. Khái niệm hình tượng nhân vật............................................................... 7
1.2. Thống kê nhân vật trong ......................................................................... 9
1.3. Hình tượng nhân vật học trò .................................................................. 10
1.3.1. Hình tượng những học trò hiếu học .....................................................10
1.3.2. Hình tượng những học trò giàu nghị lực...............................................17
1.3.3. Hình tượng những học trò dũng cảm ....................................................22
1.3.4. Hình tượng những học trò với tính cách đa dạng .................................25
1.4.
Hình tượng thiên nhiên trong tác phẩm ................................................31
1.4.1. Hình tượng thiên nhiên hùng vĩ ............................................................31
1.4.2. Hình tượng thiên nhiên dữ dội ..............................................................34
CHƯƠNG II. NGHỆ THUẬT KHẮC HỌA HÌNH TƯỢNG HỌC TRÒ VÀ
HÌNH TƯỢNG THIÊN NHIÊN .....................................................................37
2.1..........................................................................................................
Tính chất tự truyện ........................................................................................... 37
2.2. Nghệ thuật khắc họa hình tượng học trò................................................. 39
2.2.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình............................................................. 39
2.2.2. Nghệ thuật miêu tả hành động............................................................. 41
2.2.3. Nghệ thuật miêu tả nội tâm.................................................................. 42
2.2.4. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ.............................................................. 44
2.2.4.1. ..................................................................................................
Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ người kể chuyện.............................................. 44
2.2.4.2. ..................................................................................................
Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ nhân vật........................................................... 46
2.3. Nghệ thuật miêu tả hình tượng thiên nhiên ........................................... 49
2.3.1. Nghệ thuật miêu tả cảnh ...................................................................... 49
2.3.2. Nghệ thuật miêu tả con vật ................................................................... 50
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 53
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 54
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trong nền văn học Việt Nam, mảng văn học các dân tộc miền núi chiếm
một vị trí không nhỏ và đạt được nhiều thành tựu quan trọng.Nó góp phần làm
nên diện mạo mới cho nền văn học dân tộc. Vì vậy việc nghiên cứu mảng văn
học thiểu số miền núi là một việc cần thiết.
Trong đội ngũ các nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, Vi Hồng
là một trong những tên tuổi xuất sắc của văn xuôi viết về đề tài miền núi. Ông
đã để lại một sự nghiệp khá đồ sộ ở nhiều thể loại khác nhau. Với nhiều sáng
tác khác nhau, Vi Hồng đã đề cập đến nhiều mặt khác nhau của con người và
cuộc sống các dân tộc thiểu số. Nổi bật lên trong đó chính là tinh thần hiếu học
của các học trò Cao Bằng.
1.2. Hơn bốn mươi năm cần cù, bền bỉ, sáng tạo không ngừng,nhà văn đã để
lại một khối lượng tác phẩm đáng kể và đa dạng về thể loại: thơ, tiểu thuyết,
truyện ngắn, truyện cho thiếu nhi... Trong đó, những năm cuối đòi của mình,
ông lại dành thòi gian viết truyện cho thiếu nhi nhiều hơn. Truyện viết cho
thiếu nhi của Vi Hồng phong phú về thể loại, phong cách thể hiện, nhung bao
trùm xuyên suốt là ca ngợi tinh thần hiếu học nhưĐường về với Mẹ chữ, Con
nước Eng Nhàn, Người làm mồi bẫy hổ, Thách đổ ...
Tác phẩm Đường về với Mẹ chữ là truyện vừa kể về tám học trò Cao
Bằng vượt đoạn đường dài gần ba trăm cây số để đi học ở trường cấp ba Lương
Ngọc Quyến (Thái Nguyên). Vượt qua bao vất vả, cực nhọc, đối diện vói biết
bao nguy hiểm ừên đường để đi học. “Bởi vậy, tôi viết ra đây mong con cháu
người các dân tộc thiểu số, trước hết là con cháu các dân tộc Cao Bằng hiểu
một phần lớp người đi trước ngày xưa quỷ cái chữ nghĩa như thể nào, vất vả
nhọc nhằn làm sao mới có một ừ chữ trong bụng! ”
1.3.
Lâu nay, việc nghiên cứu tác phẩm Đường về với Mẹ chữ chưa có công
1
trình toàn diện. Việc nghiên cứu tác phẩm sẽ giúp tác giả khoá luận có những
hiểu biết sâu sắc về tinh thần hiếu học của người dân tộc thiểu số Việt Nam, từ
đó khơi dậy tinh thần hiếu học cho học sinh của mình. Với tất cả những lý do
trên, chúng tôi lựa chọn “Hình tượng nhân vật học trò và thế giới thiên nhiên
trong Đường về với Mẹ chữcuả Vỉ Hồng”.
2. Lịch sử vấn đề
Đen nay, các truyện ngắn,truyện vừa, tiểu thuyết của Vi Hồng đã được tìm
hiểu, nghiên cứu khá nhiều, trong khuôn khổ khoá luận, chúng tôi xin điểm một
số công trình tiêu biểu liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến đề tài.
Theonhà nghiên cứu Đào Thủy Nguyên, Dương Thu Hằng trong Văn
xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam trên hành trình hội nhập(20-12-2011), có
viết: “Có thể nói, nguồn suối văn học dân gian đã tắm mát suốt tuổi thơ Vi
Hồng và còn nâng đỡ tinh thần nhà văn suốt cuộc đời dài dặc những đắng cay
và cơ cực.Thành tựu lớn nhất mà Vỉ Hồng để lại cho đồng bào các dân tộc
thiểu số được trầm kết trong các trang văn. Mạch lạc và dứt khoát đôi khi đến
cực đoan trong đời riêng, trái tim nhà văn vẫn không ngừng đập giữa hai dòng
yêu thương và hờn giận. Song trước sau ông vẫn là con người nhân hậu, giàu
lòng yêu thương và luôn khát khao được yêu thương... Là người con nặng lòng
với quê hương xứ sở, hơn ai hết, Vi Hồng thấu hiểu sâu sắc cả “giới hạn” và
“điểm sáng” của con người miền núi. Thâm nhập thật sâu vào “vùng phát
sáng” của dân tộc mình, Vi Hồng còn có những phát hiện tinh tường về sức
sống tiềm tàng âm thầm mà mãnh liệt hầu như chưa bao giờ lụi tắt trong tâm
hồn của những con người nghèo khổ nơi chốn rừng xa. Trong sáng tác của ông,
cuộc đấu tranh giành quyền sống cho con người luôn diễn ra đầy khó khăn,
nhiều thử thách và nhân vật có khi chỉ còn lại hai bàn tay trắng sau bao cố gắng
kiếm tìm và giữ gìn hạnh phúc. Thế nhưng, có một điều không bao giờ mất đi ở
những con người hiền lành và nghèo khổ ấy là niềm tin vào chính mình, vào
2
khả năng chiến thắng của cái thiện trong cuộc đòi. Đứng về phía cái đẹp, cái
thiện để lên án cái xấu, cái ác là sứ mệnh cao cả của người cầm bút mà Vi Hồng
tự nguyện đón nhận về mình: “Các trang viết của tôi là lời tâm tình cùng các
dân tộc miền núi, trước hết với người Tày rằng: hãy yêu thương và biết yêu
thương những cái đẹp, nhất là những con người cao đẹp, cao cả, đồng thời đem
hết sức mình ra diệt trừ cái ác, kẻ ác, trừ khử kẻ phản bội trắng trợn, nguyền
rủa những kẻ “béc kha cải”(đại nịnh hót), khinh bỉ lũ yểu hèn. Tôi cũng cho
rằng đây là sứ mệnh cao cả và muôn đời của mọi nhà văn trên thể giới ”.
Nhà nghiên cứu Vân Thanh trong tiểu luận “Một thiên tự sự chân thực
và cảm động: Đường về với Mẹ chữ của Vi Hồng, 1998”, đã viết: “Truyện của
Vi Hồng bao giờ cũng đậm chất ly kỳ, đôi khi có chút bí hiểm. Tác giả đưa các
em vào một cuộc hành trình, có không ít hồi hộp, lên vùng cao - miền núi, nơi
vẫn còn nhiều phong tục lạc hậu,những chuyện kỳ lạ,nhưng bao giờ cũng đằm
thắm tình người. Con người miền núi qua bút pháp của Vi Hồng, tuy chỉ đôi nét
phác hoạ,vẫn nổi lên tính cách trung thực, đôn hậu và có sức chịu đựng dẻo dai
trước mọi khó khăn của hoàn cảnh. Đường về với Mẹ chữ vẫn tiếp tục mạch
nhận thức và khám phá ấy.” Khi cảm nhận về tác tác phẩm, tác giả cũng nhận
định: “Đọc Đường về với Mẹ chữ, tôi vừa thú vị về những hồi hộp, vừa rưng
rưng vì cảm động. Tôi càng tìm được sự chia sẻ với nhà thơ trẻ Dương
Thuấn,khi anh viết về Vi Hồng -người thầy đáng kính cuả mình: Tôi đã học với
thầy ở trường Đại học - thầy căn dặn học trò: người miền xuôi cố một thì ngưòi
miền núi phải cố mười. Đọc Đường về với Mẹ chữ càng hiểu thêm lời dạy của
thầy”.
Nhà nghiên cứu Cao Duy Sơn (Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật
các dân tộc thiểu số Việt Nam)trong tiểu luận “Văn xuôi các dân tộc thiểu số hành trình cùng bạn bè ”, có viết: “Khu vực Việt Bắc xuất hiện một đội ngũ
khá hùng hậu, được tiếp nhận nguồn cảm hứng từ lớp nhà văn đàn anh như Vi
3
Hồng. Khoảng chục năm ốm yếu,sức khoẻ suy kiệt, duy nhất sở hữu đôi mắt
sáng đầy nghị lực và trí tuệ kiên cường,Vi Hồng đã cho xuất bản 11 tiểu thuyết,
2 tập truyện ngắn, 4 tập truyện vừa, 4 tập sách thể loại nghiên cứu sưu tầm.
Thành tựu ông để lại không chỉ có số lượng tác phẩm, còn là ngọn cờ tiên
phong đổi mới tư duy sáng tạo. Từ truyện ngắn đến tiểu thuyết,từng bước ông
tự làm mới quyết liệt và táo bạo. Bứt khỏi lối viết đon giản một chiều, trực diện
những vấn đề nóng bỏng của xã hội, những nhức nhối về đạo đức con người,
những thật giả, tốt xấu,thiện ác trong mối quan hệ trí thức, quan chức đến
thường dân được thể hiện sinh động,chân thực và cuốn hút. Tiêu biểu như tiểu
thuyết Vào hang, Gã ngược đời, Người trong ổng, Chồng thật vợ giả... Qua mỗi
trang tác phẩm thấy rõ cảm xúc của người viết bấy lâu như bị dồn nén,né
tránh,lựa chiều nay như được vượt thoát, tâm thê hân hoan.Nội dung và tư
tưởng của tác phẩm luôn được nâng lên ở cấp độ mới, đỉnh điểm là tập truyện
Đường về với Mẹ chữ. Có thể nói Đường về với Mẹ chữ là tác phẩm xuất sắc
trong loạt tác phẩm Vi Hồng để lại cho văn học Việt Nam hiện đại. Nhà văn Vi
Hồng là tấm gương của thế hệ cầm bút dân tộc thiểu số hôm nay .Những nhà
văn Việt Bắc coi ông là người thầy, người bạn lớn, là tấm gương ý chí, nghị
lực, tình yêu vô hạn với núi rừng xứ sở”.
Nhưvậy, nhiều ý kiến của giới nghiên cứu đã khái quát, đã gợi ý nhiều
vấn đền về nội dung và nghệ thuật của Đường về với Mẹ chữ của Vi Hồng.
Khóa luận của chúng tôi sẽ kế thừa và khảo sát toàn diện hai loại hình tượng
con người và thiên nhiên trong tác phẩm.
3. Mục đích nghiền cứu
Nghiên cứu đề tài này giúp tác giả khoá luận hiểu sâu hơn về truyện Vi
Hồng viết cho thiếu nhi. Nghiên cứu tác phẩm cũng giúp chúng tôi hiểu sâu
sắc hơn về hình tượng nhân vật học trò, hình tượng thiên nhiên cũng như nghệ
thuật miêu tả nhân vật học trò,hình tượng thiên nhiên trong tác phẩm. Khóa
4
luận góp phần giáo dục nhân cách cho học sinh.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hình tượng nhân vật học trò trong Đường về với Mẹ chữ.
- Thế giới thiên nhiên trong Đường về với Mẹ chữ.
- Nghệ thuật khắc họa hình tượng nhân vật học trò trong Đường về với
Mẹ chữ.
- Nghệ thuật khắc họa hình tượng thiên nhiên trong Đường về với Mẹ
chữ.
5. Đối tượng và phạm vỉ nghiên cứu
5.1.
Đối tượng nghiên cứu
- Hình tượng nhân vật học trò và hình tượng thiên nhiên trong Đường
về với Mẹ chữ
5.2.
Phạm vi tư liệu nghiên cứu
Truyện ngắn Đường về với Mẹ chữ, Nhà xuất bản Kim Đồng, 1997
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp loại hình.
- Phương pháp hệ thống.
- Phương pháp so sánh.
7. Giả thuyết khoa học
Việc phát hiện ra những nét đặc sắc về hình tượng nhân vật và thế giói
thiên nhiên trong Đường về với Mẹ chữsẽ giúp tác giả khoá luận nâng cao được
hiệu quả dạy học ừong môn Văn học, đặc biệt là rèn luyện và nâng cao năng
lực cảm thụ văn học của học sinh và khơi dậy tinh thần hiếu học trong mỗi học
sinh.
8. Cấu trúc khoá luận
Ngoài phàn mở đầu và kết luận, nội dung khóa luận gồm hai chưcmg:
Chương 1: Thế giới hình tượng học trò và thiên nhiên ttong Đường về với Mẹ
5
chữ
Chương2: Nghệ thuật thể hiện hình tượng nhân vật học trò và thế giói
thiên nhiên ttongĐường về với Mẹ chữ
6
NỘIDUNG
CHƯƠNG 1
THẾ GIỚI HÌNH TƯỢNG HỌC TRÒ VÀ THIÊN NHIÊN TRONGTÁC
PHẨM ĐƯỜNG VÈ VỚI MẸ CHỮ
1.1. Khái niêm hình tương nhân vât
Chúng ta đều biết văn học là một loại hình nghệ thuật, phản ánh đời sống
bằng hình tượng. Trong tác phẩm văn học, nhân vật đóng vai trò hết sức quan
trọng và là thành phần không thể thiếu để cấu thành nên tác phẩm.Do đó vai trò
đầu tiên và quan trọng nhất của nhân vật là phương tiện để nhà văn khái quát
hiện thực. Nhân vật chính là những người đầu tiên dắt người đọc vào một thế
giới riêng trong một thời kì lịch sử nhất định.
Tính cách nhân vật mang vai trò hết sức quan trọng đối với cả nội dung và
hình thức tác phẩm văn học.
về
nội dung,nhân vật mang tính cách của nó là
công cụ,là phương tiện để nhà văn thể hiện tư tưởng của tác phẩm, tức là thông
qua hành động và mối quan hệ giữa các tính cách, người đọc sẽ có khái quát đầu
tiên về tư tưởng,
về
hình thức,nhân vật cùng tính cách của nó sẽ quyết định
phần lớn các yếu tố như kết cấu,ngôn ngữ, các biện pháp nghệ thuật có trong tác
phẩm. Có thể khẳng định nhân vật là yếu tố không thể thiếu góp phần tạo nên sự
hấp dẫn và sức sống lâu bền cho tác phẩm đồng thời bộc lộ tư tưởng, chủ đề tác
phẩm.
Văn học phản ánh hiện thực qua hình tượng. Nói cách khác, hình tượng là
lăng kính nhà văn phản ánh cuộc sống . Với các tác phẩm trữ tình, hình tượng là
cảm xúc trữ tình, các hình ảnh thơ, còn đối với tác phẩm tự sự, hình tượng chính
là nhân vật, sự kiện. Vậy nhân vật là gì? Vai trò của nó ra sao? Có nhiều tác giả
7
đã đưa ra các khái niệm khác nhau về nhân vật.
Theo Lại Nguyên Ân [1, tr.249], Nhân vật văn học là hình tượng nghệ
thuật về con người, một trong những dấu hiệu về sự tồn tại, toàn vẹn của con
người trong nghệ thuật ngôn từ. Bên cạnh con người, nhân vật văn học là
phương thức nghệ thuật nhằm khai thác hết những nét thuộc tính con người,
nhân vât cỏ ỷ nghĩa trước hết ở các loại hình văn học tự sự và kịch. Các thành tố
tạo nên nhân vật gồm: hạt nhân tinh thần của cá nhân, tư tưởng, lợi ích đời
sổng, tính xúc cảm, ý chí và các ý thức hành động. Nhân vật văn học là một đơn
vị nghệ thuật, nó mang tỉnh ước lệ không thể bị đồng nhất với con người thực,
ngay cả khi tác giả xây dựng nhân vật với những nét gần gũi với nguyên mẫu có
thật. Nhân vật văn học là sự thể hiện quan niệm trọng tâm để xem xét sáng tác
của một nhà văn, một khuynh hướng, một trường phái hay phong cách.
Theo Phương Lựu [5, tr.109], Nhân vật là yểu tổ cơ bản trong tác phẩm
văn học, tiêu biểu để bộc lộ chủ đề, tư tưởng chủ đề và đến lần lượt mình nó lại
được các yểu tố có tính chất hình thức của tác phẩm tập trung khắc hoạ. Nhân
vật do dó là nơi tập trung các giá trị tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm văn học.
Từ điển thuật ngữ văn học của nhiều tác giả cho rằng: “Nhân vật văn học
là con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học. Nhân vật văn học có
thể có tên như (Tẩm, Cám, chị Dậu, anh Pha...) cũng có thể không có tên riêng
như “thằng bán tơ”, “một mụ nào đó” trong Truyện Kiều” [6, tr.235].
1.2. Thống kê nhân vật trong Đường về với Mẹ chữ
Khi khảo sát Đường về với Mẹ chữcủa Vi Hồng, chúng tôi chia thành hai loại
nhân vật là nhân vật chính và nhân vật phụ. Sau đây là bảng thống kê nhân vật
trong tác phẩm:
8
Loại nhân vật
STT
Tên nhân vật
Nhân
vật
phụ
chính
1
Tôi (Vi Hồng)
Đặc điểm
Nhân vật
Là học sinh, ở huyện Hoà An
✓
Là học sinh, ở Hà Quảng,
2
Phan Soong
người nhỏ thó, ẻo lả như cô
•/
gái, có giọng kim
Là học sinh, ở Trùng Khánh,
3
Phan Văn Hỏn
s
cao 2m, nặng 80 kg
4
Đặng Lư
s
Là học sinh,ở Hoà An
Là học sinh, trán cao, dô, rất
5
Trần Bằng Tập
thông minh, mặt vuông,mắt
sáng
Là học sinh, nói tiếng hơi
6
Trần Lạng
•/
7
Lê Văn Hoảnh
•/
thô nhưng vang xa, đen như
gốc cây cháy dở trên nương
Là học sinh, có mái tóc dễ
tre
9
Là học sinh, con ngưòi củ mỉ
8
Bế Tâm
cù mì,ăn nói rủ rỉ như thầm
thì
9
Người trong bản
ự
10
mường
Bố mẹ các học sinh
11
Ông bà chủ trọ
V
12
13
Hai tên cướp
ự
Anh giao thông
ự
14
Ông chủ quán cơm
ự
15
Phường đi săn
ự
16
17
Bác chủ trọ
ự
Vài tên buôn lậu
V
V
Người Hoa kiều tốt bụng
1.3. Hình tượng nhân vật học trò
1.3.1. Hình tượng những học trò hiếu học
Tác phẩm Đường về với Mẹ chữ được giải A cuộc vận động sáng tác cho
thiếu nhi - 1996-1997 của Nhà xuất bản Kim Đồng. Cùng với những tiểu thiết
mà Vi Hồng viết cho người lớn về đề tài miền núi, Đường về với Mẹ chữ đã để
lại cho văn học thiếu nhi một thiên tự sự chân thực và cảm động.
Trước khi viết Đường về với Mẹ chữ , Vi Hồng đã là tác giả của không ít
truyện viết cho thiếu nhi, như các truyện trong Con nước Eng Nhàn (in chung
ưong tập Con đương ngầm và những chuyển xe đêm, Nhà xuất bản Kim Đồng,
1972), Người làm mồi bẫy hổ (Kim Đồng, 1990, tái bản lần 2), Thách đổ (Kim
Đồng, 1995).
Truyện của Vi Hồng bao giờ cũng đậm chất ly kỳ, đôi khi có chút bí hiểm. Tác
giả đưa các em vào một cuộc hành trình, có không ít hồi hộp, lên
10
vùng cao - miền núi, nơi vẫn còn phong tục lạc hậu, những chuyện kỳ lạ,nhưng
bao giờ cũng đằm thắm tình người. Con người miền núi qua bút pháp của Vi
Hồng, tuy chỉ đôi nét phác hoạ, vẫn nổi lên tính cách trung thực, đôn hậu và có
sức dẻo dai trước mọi hoàn cảnh .Đường về với Mẹ chữ vẫn tiếp tục mạch nhận
thức và khám pháấy.
Thiên truyện đã mô tả lại quá trình gian khổ và đầy ý chí của nhóm học
sinh tỉnh Cao Bằng, trong đó có tác giả đến học tập tại trường Lương Ngọc
Quyến. Biết bao là khó khăn và nguy hiểm trên chặng đường đi bộ xuyên rừng
suốt chín ngày đêm về ôn thi nhưng lại bị hoãn thi. Đường đi chui dưới mái đại
ngàn âm u, ánh sáng mờ mờ ảo ảo như men theo bờ vực thẳm của địa ngục. Họ
phải đi bộ nhiều ngày,rách giầy nhưng họ vẫn tiếp tục đi, khi không gặp bản thì
họ phải ngủ rừng. Họ phải đối đàu vói hổ, rết, chó sói, cướp.. .đói và rét và nếu
đi xe đạp xuyên rừng thì khó khăn cũng chẳng kém. Đi bộ xuyên rừng là điều có
thể hiểu, còn đi xe đạp qua bao đèo dốc thì đâu dễ hình dung.Nhưng họ đã vượt
qua tất cả để đến với cái chữ và dạt được nhiều thành công nhờ vào sự cố gắng
học tập không mệt mỏi của chính mình.Mười phần của văn bản như mười mẩu
chuyện ngắn kể lại một kỷ niệm trên hành trình đi tìm Mẹchữ.
Đường về với Mẹ chữ,cái tên truyện nghe lạ và ngộ nữa.Nhưng sau khi đọc
xong thấy không có tên truyện nào hợp hơn thế. Sao lại “Mẹ chữ”?Tác giả giải
thích tên truyện như sau: Với những gì quý giá và có vẻ như sinh sôi nảy nở được
người Tày chúng tôi đều gọi là “mẻ” (mẹ)... Không chỉ có người và động vật,
mọi vật đều có thể được gọi là mẹ. Ngày nay, người Tày vẫn nói mẹ Đá, mẹ
Nước. Trường học, “nơi sinh ra cái chữ” cho mọi học trò gom nhặt lẩy, người
Tày gọi là mẹ Chữ. Vì thể chúng tôi rong ruổi đường dài chẩy học cũng gọi theo
các già xưa nói rằng mình đang đi tìm Mẹ chữ[7, tr.801].
Tác giả không đặt tên truyện là “Đường đến với Mẹ chữ” mà lại đặt là
Đường về với Mẹ chữ cho ta thấy rằng Mẹ chữ là cách nói ẩn dụ diễn tả việc đi
11
học cái chữ ở miền xuôi. “Mẹ” là hình ảnh chỉ những điều lớn lao, gàn gũi, thân
thiết với mọi người,khi về với mẹ ta luôn có cảm thấy bình yên. Đi học chữ như
đi về với mẹ gợi lên sự thiêng liêng,gàn gũi, sự trân trọng cái chữ của tác giả
cũng như của các học trò Cao Bằng.
Chỉ cần nghe mấy câu hát lượn này của ngưòi Tày,ta đã thấy ngay đây là
một dân tộc có truyền thống hiếu học:
“Đời nghèo anh vẫn cố học Nghèo com thì khỏ
nhọc chân tay Nghèo chữ hồn lay lắt như ngọn
đèn trước gió Ngưòi giỏi chữ rộng đường suy
nghĩ Người mù chữ nghĩ bí lỗ chôn kim”
Nhưng khi dân tộc Tày có nhà văn Vi Hồng (1936 - 1997) viết tác phẩm
Đường về với Mẹ chữ, ta mới thấy cụ thể hành trình chiếm lĩnh tri thức của các
học trò Tày diễn ra vất vả, gian lao như thế nào.Khi đọc Đường về với Mẹ chữ
của Vi Hồng, chúng ta thấy nổi bật lên đó là những học trò hiếu học.
Lê - Nin từng nói “Học, học nữa, học mãi ”, cho ta thấy kiến thức mà
chúng ta biết chỉ là giọt nước, còn những điều ta chưa biết là biển cả. Chỉ có học
tập mới giúp ta thoả mãn sựhiểu biết và tò mò của con người và học chính là con
đường ngắn nhất để đến với tri thức, để tiếp thu những kinh nghiệm, những sáng
tạo của nhân loại vào vốn tri thức của chúng ta. Tám học trò trong truyện ngắn
đều nhận thấy giá trị của sự học. Học không chỉ để có thêm kiến thức mà họcđể
thoát nghèo mà còn thoát khỏi hủ tục của người dân tộc Tày: “Dốt chữ dốt nghĩa
bồ chật thóc Giỏi chữ giỏi nghĩa bồ rỗng tuếch” [3, tr.22].
Nên khi “Các mẹ chữ ở Cao Bằng chúng ta đã được học hết”[3, tr.7].Họ
không muốn dừng ở đây mà họ vẫn muốn tiếp tục sự nhiệp học hành “Nhưng
chúng ta muốn học nhiều chữ nữa” [3, tr.7]. Muốn lên lớp 7 (lớp 9 bây giờ) phải
cuốc bộ hoặc đi xe đạp (nếu có) về Thái Nguyên khoảng 250 km,300 km tuỳ
huyện gần, huyện xa. Qua những từ ngữ đó ta thấy được tinh thần hiếu học của
12
các học ttò Cao Bằng.
Tám học trò trong truyện ngắn đó là: Vi Hồng (nhân vật tôi), Phan Soong,
Đặng Lư, Trần Bằng Tập, Trần Lạng, Lê Văn Hoảnh, Bế Tâm. Họ đều là những
người con Cao Bằng đi học cấp III đầu tiên ở Thái Nguyên. Ở lúc đó, trường học
không nhiều như bây giờ nên việc đi học xa là việc phổ biến. “Những năm năm
mươi tất cả các tỉnh miền núi ở miền Bắc chỉ có mỗi một trường phổ thông cấp
III hoàn chỉnh, đó là trường Lương Ngọc Quyến, đặt tại thị xã Thái Nguyên”[3,
tr.5]. Tám học trò băn khoăn không biết nên chọn trường nào. “ Trường Hùng
Vương thì xa xôi, ở tận Phú Thọ. Còn trường phổ thông cấp III Ngô SĨ Liên ở
Bắc Giang thì cũng có thể.Nhưng lại là trường ở nơi đồng rộng sợ không
quen.Hơn nữa có thể đi xa hơn, chúng tôi lại không hề biết tí gì về con đường từ
Cao Bằng đến thị xã Bắc Giang” [3, tr.6].Và cuối cùng họ chọn trường cấp III
Lương Ngọc Quyến ở thị xã Thái Nguyên bỏi “Với Thái Nguyên thì người Cao
Bằng quen lắm. Con cháu Cao Bằng cảm thấy xử Thái và con đường về với xử
Thái gần gũi như đã quen thân. Vì thế bọn chúng tôi quyết định tìm đường về vói
Mẹ chữ Lương Ngọc Quyến ở xử Thải” [3, tr.6].
Khi đến được trường cấp III Lương Ngọc Quyến, các học trò rất phấn khỏi
và tích cực ôn thi để đỗ vào trường. Việc con em các dân tộc thiểu số đi học và
có trình độ văn hoá hết cấp III là rất hiếm. Chỉ những gia đình có điều kiện mới
cho con đi học nên đa số họ chỉ học hết cấp I, cấp II. Cho nên tám học trò ở Cao
Bằng đi học xa nhà ngày ấy trở thành hiện tượng trong tỉnh bàn ra tán vào, kẻ
khen ngưòi chê, kẻ khinh,ngưòi trọng.Để có số tiền lớn đủ cho con ăn học ba
năm xa nhà xa quê thì không còn cách nào khác là phải bán trâu, bán ruộng
.Nhưng những người Tày Nà (Tày làm ruộng) lại thường cho rằng “Bán ruộng là
bán cái sống để tìm cái chết, bán ruộng là bán máu, bán thịt mình” [3, tr.21].Ông
bà dám bán cả máu thịt của mình để cho con đi học lấy cái chữ cái nghĩa, chúng
tôi thấy ghê gớm thật đấy. Chúng tôi xin chắp tay bái phục các ông bà” [3,
13
tr.21].Cững có nhiều người chê rằng “Học lắm, chữ đầy bụng chỉ tổ nghèo đói
thôi” [3, tr.22]!
Khi những hủ tục đã chiếm phần lớn trong suy nghĩ của người Tày Nà, họ
chỉ cần no cái bụng, họ chỉ cần biết những chữ đơn giản để giao tiếp trong cuộc
sống hàng ngày mà không càn phải học cao hơn, học giỏi hơn. Họ cho rằng việc
cha mẹ bán ruộng, bán trâu lấy tiền cho con đi học là một việc không cần thiết vì
trong tư tưởng của họ thì chữ nghĩa không quan trọng, cái qua trọng đó chính là
làm ra lúa gạo để được no cái bụng còn chữ nghĩa thì không ăn được.
Bên cạnh những người chê thì cũng có những người cảm thông cho việc
làm của cha mẹ các học sinh: “Ái dà dà! Cái chữ cái nghĩa thì quý. Nhân bất học
bất tri lý, nhưng bán trâu bán mộng cho con đi học thì gan to mật lớn quá! Thật
là những con người ít thấy” [3, tr.22] !
Những lòi bàn ra tán vào của những người dân trong bản mường càng là
động lực để các học trò phấn đấu và để chứng minh cho mọi người thấy rằng:
việc cha mẹ bán trâu, bán mộng cho họ đi học không phải là việc vô ích mà còn
chứng tỏ đólà việc làm đúng đắn. Chính vì thế mà: “Trong tám con cháu Cao
Bằng chúng tôi đi thi vào cấp
in rớt chỉ có một người. Còn một người khác đã
thi được, nhưng không đi học được vì gia đình không có tiền” [3,tr.20]. Để
không phụ lòng các bố mẹ cùng họ hàng - những người đã trực tiếp gom góp
từng đồng tiền cho chúng tôi đi học tận xứ Thái nên các học trò học hành rất
chăm chỉ. “Chúng tôi chỉ có một cách là phải chăm chỉ học tập cho thật giỏi” [3,
ữ. 22]! Với tinh thần học tập như vậy nên “Cả sáu,bảy con cháu Cao Bằng học
với Mẹ chữ Lương Ngọc Quyến ngày ấy rất đỗi chăm chỉ” [3, tr.22], và họ đều là
những học sinh giỏi hoặc khá của trường Lương Ngọc Quyến, và đều được
phong vua ở các môn học “Tràn Lạng và Phan Soong giữ ngôi vua môn Toán.
Be Tâm giữ ngôi vua môn Vật lý. Trần Bằng Tập giữ ngôi vua môn Sử. Còn tôi
thỉnh thoảng cũng lên ngôi vua môn Văn” [3, tr.26].
14
Các học trò luôn cố gắng chăm chỉ học hành để trả được cái ơn lớn đối với
bố mẹ và họ hàng đã đã vất vả để dành dụm từng đồng tiền cho họ đi học nên
“Mỗi lần được điểm chín điểm mười trong các bài tập chúng tôi đều thấy thanh
thản và nhẹ nhõm” [3, tr.26] .Nhiều lúc,khi đêm đến, tiếng côn trùng ri rỉ,tỉ tê, có
lúc lại ran ran làm cho khung cảnh quê nhà hiện lên trước mặt các học trò, nơi có
gia đình và người thân ở đó. Những tiếng côn trùng này cứ lặp đi lặp lại như một
khúc nhạc giục giã những kẻ tha phương nhớ nhà.Muốn học được cái chữ, muốn
làm cho cha mẹ tự hào về con mình và cũng muốn xoá đi cái hủ tục lạc hậu
không cần học nhiều của người Tày Nà thì các học trò của chúng ta phảiđi học.
Xa quê,xa gia đình nên nỗi nhớ quê hương, gia đình, người thân và sự học luôn
đấu tranh giằng co trong mỗi học trò,nhiều lúc đến đau đớn. Chúng ta có thể hiểu
được nỗi giằng co trong mỗi học trò bởi họ còn rất trẻ, có người mười bảy tuổi,
người mười chín tuổi, thêm vào đó họ cũng chưa phải xa gia đình của mình bao
giờ. Học tập trong hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn cộng thêm với nỗi nhớ nhà
dường như đã làm chùn ý chí học của các học trò. Nhưng không ý chí quyết tâm
học cho giỏi của các học trò đã chiến thắng tất cả.
Được nghỉ Tết, các học trò lại tiếp tục đi bộ vượt rừng chín ngày để về nhà
ăn Tết. Tết với người miền núi rất thiêng liêng. Những người lớn, người già đi
công tác ở xa còn tìm đường về ăn Tết, huống chi các học trò của chúng ta còn
nhớ bố mẹ, nhớ anh em nhiều lắm. Các học trò đã xin nhà trường cho nghỉ thêm
mưòi ngày nữa nên các học ừò có hai mươi ngày nghỉ Tết. Tết là dịp để sum họp
gia đình vui vầy đón xuân. Nhưng cũng có một yêu cầu có khi còn quan trọng
hơn mọi mục đích khác, chẳng mấy ai nói ra mồm ra miệng đó là tục lệ học vào
lúc giao thừa.“Đó là cái phút giao thừa thiêng liêng đến nghẹt thở, những đứa
con muốn học giỏi, muốn tu được nhân, tích được đức thì phải dậy thắp hương
lên bàn thờ vào lúc giao thừa”[3, tr.36].Mọi người khác có thể đốt pháo, nói
chuyện, canh chừng chảo trâu (vạc lớn) bánh chưng... nhưng những người con
15
trai thông minh lịch sự, trụ cột của dòng họ, của gia đình thì“phải ngồi trước bàn
thờ, mũ áo nghiêm chỉnh và học bài vở, làm toán, viết vài câu văn, ôn vài dòng
lịch sử... Có như vậy thì mới hòng học giỏi, và mọi sự học hành được may mắn
suốt năm” [3, tr.36].
Các bậc cha mẹ,ông bà tin rằng tục lệ này của người Tày truyền lại từ xa
xưa rất thiêng liêng, rất có tác dụng đối với việc học hành của những ngưòi con
trai. Vào cái giờ phút giao thừa và cả ngày Mùng một Tet,ngưòi Tày kiêng kị
làm bất cứ việc gì. Người Tày tin rằng ngày Mùng một Tết mà đã làm việc thì cả
năm sẽ vất vả nhọc nhằn. “Duy chỉ có việc học là phải duy trì từ lúc giao thừa và
cả ngày Mùng một vẫn tiếp tục học càng tốt” [3, tr.37]. Các già trong bản mường
và các bậc cha mẹ thường khuyên dạy con cháu rằng: “Học hành kiên trì suốt
mọi ngày tháng, suốt năm,không lúc nào ngơi nghỉ thì mới thành tài được” [3,
tr.37].
Tinh thần hiếu học đã giúp cho các học trò vượt qua mọi khó khăn, vất vả,
những lời bàn tán của người dân bản mường để học thật chăm chỉ, học thật giỏi
để trở thành vua của các môn học và trở thành những người thành công trong các
lĩnh vực khác nhau: “Phan Văn Hỏn - nay mang tên mới Phan Chu Minh, thượng
ta bác sĩ Viện trưởng Viện quân y 91; Ông Đặng Đình
Lư,Giám đốc mỏ thiếc Cao Bằng; Ông Trần Bằng Tập, Giám đốc Sở thuỷ lợi
Cao Bằng; Ông Lê Văn Hoảnh, Tổng công trình sư ở Tây Nguyên; Ông Bế Tâm,
Giám đốc xưởng dược Cao Bằng; Ông Tràn Lạng vì những lý do cá nhân đã về
nghỉ tại quê nhà từ lâu; Ồng Vi Hồng, nhà văn dạy Khoa văn trường Đại học Sư
phạm Việt Bắc”[3, tr.3]. Những thành công này đã chứng minh cho mọi người
thấy tinh thần hiếu học của bảy học ttò Cao Bằng đi học ở trường cấp III Lương
Ngọc Quyến. Sự thành công của các học trò đã trở thành tấm gương sáng cho
con cháu Cao Bằng sau này học tập và noi theo. “ít nhất cũng là để làm gương
cho con cháu chứng ta chăm học hơn. Bởi vậy, tôi viết ra đây mong lớp con cháu
16
- Xem thêm -