Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khóa luận Đầu tư phát triển và giải pháp cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam...

Tài liệu Khóa luận Đầu tư phát triển và giải pháp cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam

.DOCX
36
347
79

Mô tả:

Bùi Quốốc Trung - CQ534214 ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN VÀ GIẢI PHÁP CHO NGÀNH CÔNG NGHIỆP ÔTÔ VIỆT NAM. Họ tên: Bùi Quốc Trung MSV: CQ534214 Lớp: KTĐT 53A. Giáo viên hướng dẫn: Cô Trần Mai Hoa. Đầầu tư phát triển và giải pháp phát triển cho ngành cống nghiệp ố tố Việt Nam Page 1 Bùi Quốốc Trung - CQ534214 I. PHẦN MỞ ĐẦU: 1. Tính cấp thiết của đề tài: Từ năm 1994, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được tạo ra và triển khai, mặc dù chưa có định hướng cụ thể rõ ràng nhưng cũng góp một phần quan trọng vào nền công nghiệp của nước ta. Kể từ đó ngành công nghiệp ô tô có cơ hội được phát triển và mở rộng. Với những bước đi chập chững ban đầu, ngành công nghiệp có rất nhiều cơ hội phát triển nhưng cũng đầy thách thức trước một nền kinh tế còn non trẻ và chưa có định hướng rõ ràng. Dựa vào những thách thức và khó khăn đó, ngành công nghiệp ô tô đã có những định hướng và lối đi cho riêng mình. Đây là một đề tài rất quan trọng mà nhiều cơ quan chính phủ đang nghiêm cứu và tìm hiểu nhằm đem đến một góc nhìn mới cho ngành. Chính vì vậy em chọn đề tài này với hy vọng góp phần tìm hiểu thực trạng ngành công nghiệp ô t ô Việt Nam và giải pháp phát triển cho ngành. 2. M ục đích nghiên cứu: T ìm hiểu thực trạng của ngành công nghiệp ôtô v à qúa trình hình thành và phát triển , phân tích những khó khăn tồn tại cũng như những cơ hội và thách thức đối với việc xây dựng và phát triển trong thời gian tới, từ đó có cái nhìn đúng đắn hơn về hiện tại v à tương lai của ngành nhằm khuyến khích sự đóng góp của các tổ chức cho sự phát triển của ngành công nghiệp ô tô. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là các vấn đề liên quan đến ngành công nghiệp ô tô và những định hướng phát triển trong thời gian tới của chính phủ. 4. Phương pháp nghiên cứu: Để làm rõ nội dung trên người viết sử dụng phương pháp tổng hợp thống kê, so sánh, phân tích bài quy nạp diễn giải. 5. Kết cấu khoá luận: Đầầu tư phát triển và giải pháp phát triển cho ngành cống nghiệp ố tố Việt Nam Page 2 Bùi Quốốc Trung - CQ534214 Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của khoá luận bao gồm: Chương 1: Lý thuyết đầu tư, đầu tư phát triển và nội dung của đầu tư ngành công nghiệp ô tô Việt Nam. Chương 2: Thực trạng đầu tư vào ngành công nghiệp ô tô tại Việt Nam. Chương 3: Giải pháp. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo- Thạc sĩ Trần Thị Mai Hoa đã giúp đỡ em trong quá trình thực hiện bài đề án này. Sinh viên thực hiện: Bùi Quốc Trung II. PHẦN NỘI DUNG. CHƯƠNG I: LÝ THUYẾT VỀ ĐẦU TƯ, ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN, VÀ NỘI DUNG CỦA ĐẦU TƯ VÀO NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ô TÔ. Đầầu tư phát triển và giải pháp phát triển cho ngành cống nghiệp ố tố Việt Nam Page 3 Bùi Quốốc Trung - CQ534214 1. Lý luận chung về đầu tư phát triển. Trên thực tế hiện nay, khái niệm đầu tư và đầu tư phát triển vẫn còn nhiều sựu nhầm lẫn từ các chuyên gia kinh tế đến những người dân. Vì vậy vấn đề chung cần làm rõ là hiểu rõ khái niệm đầu tư và đầu tư phát triển, từ đó hiểu rõ vấn đề, nội dung và sự cần thiết trong đầu tư phát triển như thế nào. Đầu tư là một hoạt động kinh tế của đất nước; một bộ phận của hoạt động sản xuất kinh doanh của cơ sở, một vấn đề trong cuộc sống được mọi gia đình, mọi cá nhân quan tâm khi có điều kiện nhằm tăng thu nhập và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của bản thân và gia đình. Bản chất thuật ngữ “đầu tư” là sự bỏ ra, sự chi phí, sự hy sinh và hoạt động đầu tư là sự bỏ ra, sự hy sinh sự chi phí các nguồn lực (tiền, của cải vật chất, sức lao động,...) để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm đạt được những kết quả lớn hơn (các chi phí đã bỏ ra) trong tương lai (như thu về được số tiền lớn hơn số tiền đã bỏ ra, có thêm nhà máy, trường học, bệnh viện, máy móc thiết bị, sản phẩm được sản xuất ra,... tăng thêm sức lao động bao gồm cả số lượng và trình độ chuyên môn nghiệp vụ và sức khoẻ). Còn về vấn đề đầu tư phát triển, xét về bản chất chính là đầu tư tài sản vật chất và sức lao động trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tăng thêm hoặc tạo ra tài sản mới cho mình đồng thời cho cả nền kinh tế, từ đó làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động sản xuất khác, là điều kiện chủ yếu tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đó chính là việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì hoặc tăng thêm tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại, bổ sung tài sản và tăng thêm tiềm lực của mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước. 2. Đặc điểm của đầu tư phát triển. Đầầu tư phát triển và giải pháp phát triển cho ngành cống nghiệp ố tố Việt Nam Page 4 Bùi Quốốc Trung - CQ534214 Từ những vấn đề chung của đầu tư phát triển ở mục 1, chúng ta sẽ tìm hiểu thêm về đặc điểm của đầu tư phát triển. - Đầu tư phát triển yêu cầu một nguồn vốn, lao động, vật tư chuẩn bị cho quá trình phát triển thường rất lớn. Nguyên nhân là vốn đầu tư nằm khê đọng lâu dài, số lượng lao động sử dụng cho toàn dự án thường rất lớn. - Thời kỳ đầu tư kéo dài, thời gian đầu tư dụ án được tính từ lúc dự án khởi công xây dựng đến lúc dự án hoàn thành và đi vào sử dụng. Có những dự ánđầu tư phát triển có thời gian kéo dài hàng chục năm và có thể nhiều hơn. - Thời gian vận hành kết quả đầu tư kéo dài. Thời gian này được tính từ lúc công trình được đưa ra sử dụng đến lúc công trình hết hạn sử dụng và được đào thải. Trong quá trình vận hành, công trình đầu tư chịu những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của các yếu tố tự nhiên, chính trị, văn hoá,.. - Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển mà thường là các công trình xây dựng luôn phát huy tác dụng ở ngay nơi nó được xây nên, do đó , quá trình đầu tư phát triển luôn chịu ahr hưởng lớn từ các nhân tố chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội… - Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao: Do quy mô đầu tư lớn, thời gian kéo dài, thời gian vận hành kết quả đầu tư cũng kéo dài nên mức độ rủi ro cao…Rủi ro đầu tư có nhiều nguyên nhân trong đó nguyên nhân quan trọng là sự chủ quan của nhà đầu tư, quản lý yếu kém trong khâu tổ chức nhân sự, hành chính,…chất lượng sản phẩm không đạt yêu cầu đề ra. Cùng với các nguyên nhân đó là giá nguyên nhiên liệu tăng do thời gian kéo dài. Công suất sản xuất không đạt hiệu quả bằng công suất thiết kế. 3. Nội dung của đầu tư phát triển ngành công nghiệp ô tô. a. Đầu tư vào tài sản cố định. + Đầu tư vào tài sản vô hình. Tài sản vô hình là tài sản không có hình thái vật chất cụ thể. Ngày nay quyền sở hữu trí tuệ, thương hiệu, bản quyền, bí quyết kĩ thuật, thương hiệu, uy tín... là những tài sản vô hình phổ biến của doanh nghiệp. Có thể phân biệt được một cách rõ Đầầu tư phát triển và giải pháp phát triển cho ngành cống nghiệp ố tố Việt Nam Page 5 Bùi Quốốc Trung - CQ534214 ràng một tài sản cố định vô hình của doanh nghiệp hay không thì phụ thuộc vào các đặc tính của tài sản đó. Uy tín của công ty có thể coi là một tài sản không xác định vì nó luôn gắn liền với sự tồn tại của công ty chừng nào công ty còn tồn tại. Tuy nhiên nếu công ty kí kết hợp đồng sử dụng bằng phát minh sáng chế của một công ty khác và không có ý định kéo dài hiệu lực của hợp đồng thì công ty chỉ được sử dụng bằng phát minh sáng chế này trong một thời hạn xác định. Khi đó bằng phát minh sáng chế trở thành một tài sản vô hình của công ty. Mặc dù tài sản vô hình không có hình thái vật chất cụ thể như các trang thiết bị máy móc nhà xưởng khác của công ty nhưng nó lại rất có giá trị đối với công ty và có thể trở thành nhân tố quan trọng trong sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Ví dụ một công ty như Toyota khó có thể đạt được vị trí như hiện tại nếu không có sự hỗ trợ tích cực của các nhãn hiệu. Nhãn hiệu này dù không có hình thái vật chất cụ thể để có thể cầm nắm được song nó lại được thừa nhận, được nhiều người biết đến, và có tác động tích cực đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, làm tăng doanh số bán hàng trên phạm vi toàn cầu. Chính vì thế việc sở hữu một nhãn hiệu mạnh là điều rất có ý nghĩa đối với các công ty lớn như Toyota, BMW,.. Để có một thương hiệu với danh tiếng phát triển trên toàn thế giới, các doanh nghiệp sản xuất ô tô phải mất một thời gian phát triển lâu dài cùng với tiềm lực tài chính, kinh tế và nhân lực vô cùng lớn. Ngoài ra còn có sự kết hợp với các cơ quan ban ngành, chức năng, nhà nước, các doanh nghiệp đưa ra định hướng phát triển, đầu tư,.. Sau đây là bảng xếp hạng giá trị thương hiệu của 10 hãng ô tô hàng đầu thế giới: STT Thương hiệu Giá trị (tỷ USD) Đầầu tư phát triển và giải pháp phát triển cho ngành cống nghiệp ố tố Việt Nam Page 6 Bùi Quốốc Trung - CQ534214 1 2 3 Toyota BMW Mercedes- 29,6 25,7 21,5 Honda Ford Nissan Volkswagen Audi Chevrolet Hyundai 14,1 11,8 11,1 8,4 7,1 4,9 4,6 Benz 4 5 6 7 8 9 10 Qua số liệu trên có thể thấy được rằng, để đầu tư phát triển mộ thương hiệu ô tô thành công chúng ta cần phải đầu tư năng lực tài chính, nhân sự, và nhiều yếu tố khác cấu thành nên. + Đầu tư vào tài sản hữu hình. Tài sản cố định hữu hình là những tài sản có hình thái vật chất do doanh nghiệp nắm giữ để sử dụng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh phù hợp với tiêu chuẩn ghi nhận tài sản cố định do Bộ Tài chính quy định. Đó là loại tài sản tham gia nhiều lần vào quy trình sản xuất chuyển một phần giá trị vào sản phẩm và vẫn giữ nguyên hình thái vật chất của nó. b. Đầu tư vào phát triển nguồn lực. + Đầu tư dạy nghề. Việt Nam có sô dân khoảng 90 triệu người, là nước đông dân thứ 13 thế giới và thứ 3 Đông Nam Á với nguồn nhân lực dồi dào và chiếm khoảng 65% dân số trong độ tuổi lao động. Trong đó mới chỉ có 27.5% nhân lực đã qua đào tạo( khoảng 20 triệu người). Nguồn nhân lực chất lượng cao còn thiếu và phân bố không đồng đều trong các ngành nghề. Riêng trong lĩnh vực khoa học công nghệ số lượng lao động đã qua làm việc và đào tạo còn thiếu và yếu. Số lượng nhân lực hoạt động trong ngành Đầầu tư phát triển và giải pháp phát triển cho ngành cống nghiệp ố tố Việt Nam Page 7 Bùi Quốốc Trung - CQ534214 công nghiệp ô tô hàng năm là rất ít do cơ chế riêng của ngành yêu cầu một nguồn nhân l ực có chât lượng cao. Với số lượng nhân lực của bảng số liệu về nhân công hoạt động trong các doanh nghiệp liên doanh trong số liệu của bảng cho thấy như vậy chưa xứng tầm với số tiền đầu tư hàng năm của các doanh nghiệp nội địa và liên doanh hàng năm. Ngành công nghiệp sản xuất ô tô, số lượng nhân lực cần thiết là vô cùng lớn và yêu cầu trình đỗ kỹ thuật, kinh nghiệm, trình độ ngoại ngữ yêu cầu cao. Vì vậy để phát triển ngành công nghiệp ô tô cần phải đầu tư phát triển nâng cao tay nghề, kỹ năng, trình độ cho các công nhân. Đầầu tư phát triển và giải pháp phát triển cho ngành cống nghiệp ố tố Việt Nam Page 8 Bùi Quốốc Trung - CQ534214 Nguồn nhân lực giỏi ở đâu? Ngoài việc lựa chọn lao động từ các trường đại học, trường dạy nghề và công nhân kỹ thuật, thì một trong những đối tượng tuyển chọn của các DN ôtô trong nước lại chính là những người đang làm việc tại các công ty liên doanh hoặc công ty nước ngoài. Điều này là không thể tránh khỏi - một chuyên gia ôtô khẳng định - họ không nhắm vào đối tượng là các nhân viên đang làm việc tại các công ty liên doanh thì chẳng biết nhắm vào ai. Điều mà các DN đang cần là những người có trình độ, có kinh nghiệm mà tại Việt Nam thì những người này chủ yếu đang làm việc tại các công ty liên doanh. Chẳng hạn khi nhìn vào thông báo tuyển dụng giám đốc nhà máy sản xuất - lắp ráp ôtô của một số DN, có thể thấy tiêu chuẩn tuyển chọn của họ tương đối cao: tốt nghiệp đại học chính quy, am hiểu sâu sắc về lĩnh vực sản xuất - lắp ráp ôtô, quản lý tài chính kế toán - quản lý kinh doanh - nhân sự... Và quan trọng hơn là có trên 7 năm kinh nghiệm quản lý, điều hành sản xuất tại các nhà máy sản xuất - lắp ráp ôtô, ưu tiên các ứng viên đã từng làm việc ở các công ty ôtô nước ngoài, liên doanh; đã từng làm giám đốc/phó giám đốc tại các công ty liên doanh... Tiêu chuẩn cao thì mức lương cho các vị trí này cũng tương xứng, trên 2.000 USD/tháng và hàng loạt ưu đãi khác như thưởng cuối năm, được mua cổ phần ưu đãi... Sau chức vụ giám đốc nhà máy là hàng loạt vị trí quan trọng khác đối với lĩnh vực ôtô như giám đốc trung tâm bảo hành và dịch vụ kỹ thuật, trưởng phòng bảo hành, trưởng phòng dịch vụ kỹ thuật, trưởng phòng đào tạo, trưởng phòng kinh tế tài chính, giám đốc các chi nhánh, nhân viên giám sát và phát triển đại lý, nhân viên hỗ trợ đại lý bán ôtô cho các dự án... Nhân lực, nhất là những vị trí quan trọng trong các công ty liên doanh đang mạnh hơn nhiều so với các công ty trong nước. Tuy nhiên, với chính sách đãi ngộ hấp dẫn Đầầu tư phát triển và giải pháp phát triển cho ngành cống nghiệp ố tố Việt Nam Page 9 Bùi Quốốc Trung - CQ534214 như hiện nay của hàng loạt DN ôtô trong nước, việc chuyển đổi nguồn nhân lực sẽ diễn ra quyết liệt. Hiện đang có hai luồng tư tưởng khác nhau về vấn đề này. Người thì vẫn thích làm việc tại các liên doanh, nhưng nhiều người khác lại thích nhảy sang làm việc cho các DN trong nước. Một trong những yếu tố then chốt để thúc đẩy sự chuyển đổi này không phải là vấn đề lương bổng, thu nhập (vì hầu hết các chức vụ này dù làm ở công ty ôtô trong nước hay liên doanh đều tương đối giống nhau) mà là các chế độ đãi ngộ, môi trường làm việc, cơ hội thăng tiến và sự "hợp gu" trong định hướng và cách thức làm việc. Trong tương lai khi ngành công nghiệp ôtô phát triển cao hơn nữa, chắc chắn nguồn nhân lực lại càng khan hiếm hơn và cuộc cạnh tranh nhân lực giữa các DN lại càng quyết liệt hơn. + Đầu tư cải thiện môi trường làm việc. Môi trường làm việc tại các nhà máy sản xuất, các khu công nghiệp Việt Nam đang còn hạn chế về chế độ vệ sinh, đảm bảo về an toàn lao động, thời gian làm việc quá với bộ luật lao động của thế giới,.. Để cải thiện môi trường làm việc trong ngành công nghiệp ô tô của Việt Nam đầu tiên cần phải đảm bảo về chế độ thời gian làm việc, bảo hộ an toàn lao động, phụ cấp lao động trong môi trường làm việc độc hại,.. c. Đầu tư cho nghiên cứu và triển khai khoa học công nghệ. + Đầu tư cho R&D Về định hướng phát triển, đối với xe tải và xe khách từ 10 chỗ trở lên, chú trọng phát triển dòng xe tải nhỏ đa dụng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, nông thôn; chú trọng phát triển các loại xe khách tầm trung và tầm ngắn chạy liên tỉnh, huyện, nội đô... phù hợp với điều kiện địa hình, hạ tầng giao thông trong nước với giá Đầầu tư phát triển và giải pháp phát triển cho ngành cống nghiệp ố tố Việt Nam Page 10 Bùi Quốốc Trung - CQ534214 thành hợp lý, an toàn và tiện dụng; tập trung đầu tư cải tiến, nâng cấp công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm, hoàn thiện hệ thống dịch vụ bán hàng, nâng cao năng lực cạnh tranh, đáp ứng phần lớn nhu cầu trong nước, từng bước tham gia xuất khẩu. Đối với xe đến 9 chỗ, tập trung định hướng tiêu dùng vào dòng xe cá nhân kích thước nhỏ, tiêu thụ ít năng lượng, phù hợp với mức thu nhập dân cư và khả năng đáp ứng của hạ tầng giao thông; xác định rõ đối tác chiến lược, khuyến khích đầu tư các dự án đủ lớn để tạo dựng thị trường cho công nghiệp hỗ trợ. Khuyến khích sản xuất dòng xe thân thiện môi trường (xe tiết kiệm nhiên liệu, xe hybrid, xe sử dụng nhiên liệu sinh học, xe chạy điện...). Đối với xe chuyên dùng, lựa chọn sản xuất, lắp ráp một số chủng loại xe có nhu cầu cao cho thị trường trong nước (xe chở bê tông, xe xitec, xe đặc chủng phục vụ an ninh, quốc phòng...); khuyến khích sản xuất xe nông dụng nhỏ đa chức năng (kết hợp vận tải hàng hoá với một hay nhiều tính năng như làm đất, bơm nước, phát điện, phun thuốc sâu...) để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng ở nông thôn và miền núi. Đối với công nghiệp hỗ trợ, tăng cường hợp tác giữa các doanh nghiệp trong nước với các hãng ô tô lớn trong sản xuất, chế tạo phụ tùng, linh kiện cho lắp ráp xe thành phẩm, tiến tới sản xuất phục vụ xuất khẩu. Trong đó, ưu tiên tham gia chế tạo các chi tiết, linh kiện quan trọng như bộ truyền động, hộp số, động cơ, thân vỏ xe...; hình thành một số trung tâm/cụm liên kết công nghiệp ô tô tập trung trên cơ sở tổ chức, sắp xếp lại sản xuất. Đẩy mạnh hợp tác - liên kết giữa các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô, các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, các cơ sở nghiên cứu phát triển và các cơ sở đào tạo thuộc mọi thành phần kinh tế để nâng cao hiệu quả đầu tư và tăng cường khả năng chuyên môn hoá. Đầầu tư phát triển và giải pháp phát triển cho ngành cống nghiệp ố tố Việt Nam Page 11 Bùi Quốốc Trung - CQ534214 Bên cạnh đó, sẽ phát triển mở rộng các khu công nghiệp cơ khí và ô tô tại 3 vùng kinh tế trọng điểm: Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam với quy mô 200 - 1.000 ha, ưu tiên cho các dự án sản xuất có quy mô lớn và công nghiệp hỗ trợ cho ngành sản xuất ô tô; xây dựng danh mục các dự án ưu tiên kêu gọi, thu hút đầu tư. Đặc biệt là các dự án khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực sản xuất ô tô thân thiện với môi trường (xe tiết kiệm nhiên liệu, xe chạy bằng năng lượng điện, xe hybrid, xe sử dụng nhiên liệu sinh học...). + Đầu tư cho dây chuyền công nghệ. Theo các chuyên gia công nghiệp ôtô vốn được coi là xương sống của ngành công nghiệp. Bởi công nghiệp ôtô hàm chứa rất nhiều những công nghệ cơ bản như chế tạo máy, luyện kim, đúc, khuôn mẫu, vật liệu và điện tử... Những công nghệ này hoàn toàn có thể áp dụng sang các lĩnh vực sản xuất khác và công nghiệp ôtô phát triển sẽ thúc đẩy những ngành công nghiệp như điện tử, luyện kim, hoá chất, nhựa... cùng phát triển theo. Bên cạnh đó, ngành công nghiệp ôtô phát triển sẽ tạo ra hàng triệu việc làm với sự tham gia của nhiều doanh nghiệp. Theo tính toán với quy mô thị trường khoảng 500.000 xe/năm thì công nghiệp ôtô sẽ tạo ra khoảng hơn 1 triệu việc làm với sự tham gia của hàng nghìn doanh nghiệp. Điều quan trọng nữa khi sản xuất đáp ứng được nhu cầu trong nước, thậm chí là xuất khẩu sẽ làm thay đổi cán cân thương mại. Theo tính toán của các chuyên gia Nhật Bản thuộc Viện Nghiên cứu chính sách quốc gia Nhật Bản, với nhu cầu về ôtô tăng mạnh, nếu Việt Nam không có một ngành công nghiệp ôtô thì vào năm 2020 Đầầu tư phát triển và giải pháp phát triển cho ngành cống nghiệp ố tố Việt Nam Page 12 Bùi Quốốc Trung - CQ534214 mỗi năm sẽ phải chi khoảng 3 tỷ USD để nhập xe. Như vậy có thể nói không riêng gì chúng ta mà nhiều quốc gia trên thế giới mong muốn có một ngành công nghiệp ôtô mạnh. Nền tảng của các doanh nghiệp ôtô trong nước là những doanh nghiệp cơ khí lớn trước kia làm công việc sửa chữa đại tu xe, nay được bổ sung, nâng cao năng lực sản xuất. Các doanh nghiệp này hầu hết được tổ chức theo hướng chuyên môn hoá một số chủng loại xe (xe tải, xe khách, xe chuyên dùng) với dây chuyền sản xuất đơn giản là gò, hàn, sơn, lắp ráp... thiếu sự hợp tác lẫn nhau. Trang thiết bị phần lớn lạc hậu. Trừ một vài doanh nghiệp có đầu tư lớn như Xuân Kiên, Trường Hải... còn lại tổng giá trị tài sản mỗi doanh nghiệp không vượt quá 20 tỷ đồng. Với các doanh nghiệp FDI ôtô, trừ Công ty Hino sản xuất xe tải nặng, còn lại đều có thể tổ chức sản xuất bất kỳ sản phẩm nào. Các doanh nghiệp này đại diện cho những nhà sản xuất lớn với bí quyết công nghệ khác nhau nên hầu như ít phối hợp, mà cạnh tranh lộn xộn. Hầu hết các liên doanh chỉ mới thực hiện phương thức lắp ráp với dây chuyền công nghệ gần giống nhau như hàn lắp khung xe, tẩy rửa sơn... Tỷ lệ nội địa hoá của các liên doanh cao nhất không quá 25% (Toyota Việt Nam cho biết chiếc xe Vios mới ra mắt cuối tháng 9/2007 có tỷ lệ nội địa hoá đạt 25%), thấp nhất là 2%. Việc đào tạo nhân lực và chuyển giao công nghệ cũng mới chỉ đáp ứng cho công đoạn lắp ráp ôtô. Theo các chuyên gia, có 3 điều kiện để có được ngành công nghiệp ôtô là thị trường, con người và kỹ thuật. Trong 3 điều kiện đó Việt Nam có 2 là thị trường và con người. Theo tính toán thị trường ôtô rất tiềm năng với mức tiêu thụ có thể đạt 1 triệu xe/năm. Con người người Việt Nam được cho là khéo tay có đầu óc sáng tạo. Đầầu tư phát triển và giải pháp phát triển cho ngành cống nghiệp ố tố Việt Nam Page 13 Bùi Quốốc Trung - CQ534214 Chúng ta thiếu vấn đề kỹ thuật, nếu có chính sách đúng về khuyến khích đầu tư, chuyển giao công nghệ thì sẽ thành công. Để ngành công nghiệp ôtô phát triển, mấu chốt vẫn là vấn đề nội địa hoá. Muốn thế phải có hàng nghìn doanh nghiệp tham gia sản xuất linh kiện chứ không phải chỉ khoảng 100 doanh nghiệp như hiện nay với những sản phẩm là kính, ghế ngồi, dây điện... là đủ. Hiện nay, các vật liệu như thép tấm thép hình, thép đặc biệt... để làm phụ tùng nội địa hoá, trong nước chưa chế tạo được. Các vật liệu khác cũng tương tự, đều không có nhà cung cấp. Khi chưa có hệ thống các nhà cung cấp nguyên vật liệu, sản xuất linh kiện hùng hậu thì công nghiệp ôtô khó tránh khỏi cảnh lắp ráp giản đơn. Lắp ráp giản đơn có được coi là có ngành công nghiệp ôtô? Một câu hỏi nữa được đặt ra là chỉ tập trung cho sản xuất xe tải, xe khách liệu có được cho là có ngành công nghiệp ôtô? Hiện nay các nhà hoạch định chính sách vẫn cho rằng các doanh nghiệp Việt Nam nên tập trung sản xuất xe tải, xe buýt và xe chuyên dụng đó là những sản phẩm không đòi hỏi công nghệ cao, vừa tầm với họ, còn xe du lịch thì để cho các doanh nghiệp FDI thực hiện. Nhưng hiện nay các doanh nghiệp FDI thì chỉ lắp ráp là chính còn với việc sản xuất xe tải và xe khách có làm nên ngành công nghiệp ôtô mạnh, đến nay vẫn chưa có thực tế nào kiểm nghiệm. Các nước có ngành công nghiệp ôtô phát triển trên thế giới từ trước đến nay chưa có nước nào chỉ tập trung cho xe tải hay xe khách mà thành. Chỉ có sản xuất xe du lịch đòi hỏi tập trung công nghệ hiện đại tiên tiến mới có ngành công nghiệp ôtô mạnh. Đầầu tư phát triển và giải pháp phát triển cho ngành cống nghiệp ố tố Việt Nam Page 14 Bùi Quốốc Trung - CQ534214 d. Đầu tư cho phát triển sản phẩm ra thị trường. + Thương hiệu. Để có một ngành công nghiệp ô tô phát triển và cạnh tranh với ngành ô tô trên toàn thế giới, ngành ô tô Việt Nam cần phải xây dựng một thương hiệu ô tô nội địa Việt Nam có đủ điều kiện phát triển. Đầu tư vào thương hiệu cần phải có một chiến lược dài hơi trong đầu tư, cùng với sự hỗ trợ của các kênh truyền thông, nhà nước và sự đồng lòng của các doanh nghiệp sản xuất ô tô trong nước. + Marketing. Hiện nay các doanh nghiệp ô tô đang đẩy mạnh hoạt động marketing thương hiệu nhằm đem đến một cái nhìn khác cho ngành xe hơi. Các doanh nghiệp xe hơi tập trung hai phương pháp đó là marketing online và marketing offline. Các hoạt động marketing ofline như tổ chức các buổi triễn lãm xe hơi, cannaval, diễu hành, các hoạt động tài trợ, chương trình nhằm đem đến một cái nhìn thưc tế nhất. Song hành với ofline là marketing online. Với sự phát triển của khoa học công nghệ, internet và điện thoại thông minh đang được phổ biến rộng rã, các doanh nghiệp đang dần chuyển từ kênh truyền thống qua kênh này. Tuy nhiên cùng với những thuận lợi là chi phí đầu tư cũng vô cùng cao. Điển hình như ngành công nghiệp ô tô của Mỹ hàng năm phải chi tiêu trung bình cho hoạt động marketing 3,24 tỷ USD. Sau đây là số liệu chi phí bỏ ra của ngành công nghiệp ô tô Mỹ ( theo Emarketer) Đầầu tư phát triển và giải pháp phát triển cho ngành cống nghiệp ố tố Việt Nam Page 15 Bùi Quốốc Trung - CQ534214 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ VÀO NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ô TÔ VIỆT NAM 1. Khái quát chung về ngành công nghiệp ô tô tại Việt Nam. Ngành công nghiệp ô tô Việt Nam là ngành sinh sau đẻ muộn, ra đời sau các nước trong khu vực từ 40-50 năm. Tuy nhiên, Nhà nước Việt Nam, với mục đích thu hút đầu tư và xây dựng một ngành công nghiệp ô tô để theo kịp các nước trong khu vực, cho nên gần 15 năm qua, kể từ khi ra đời vào năm 1992 đến nay, ngành công nghiệp ô tô của Việt Nam được coi là ngành trọng điểm và là ngành luôn luôn được ưu đãi nhất trong số các ngành công nghiệp. Sự ưu ái rất đặc biệt này thể hiện qua những chính sách thuế quan của Bộ Tài chính, với chính sách thuế ưu đãi về tỷ lệ nội địa hóa, thuế nhập khẩu cho linh kiện lắp ráp và thuế thu nhập doanh nghiệp. Đầầu tư phát triển và giải pháp phát triển cho ngành cống nghiệp ố tố Việt Nam Page 16 Bùi Quốốc Trung - CQ534214 Kết quả của chính sách ưu đãi đối với ngành công nghiệp ô tô của Việt Nam là giá xe sản xuất trong nước cao gấp 2 đên 3 lần so với nhiều nước. Lý giải về nguyên nhân của hiện trạng này, Bộ Tài chính đã thẳng thắn tuyên bố trong báo cáo về chính sách đối với ngành công nghiệp ô tô từ năm 2004 là: “Nguyên nhân của tình trạng này là do doanh nghiệp lắp ráp ô tô ỷ lại sự bảo hộ của Nhà nước nên đưa ra giá bán cao để thu lãi cao”. Trong khi đó một số doanh nghiệp lắp ráp ô tô lại cho rằng nguyên nhân là ở chỗ thị trường ô tô Việt Nam có dung lượng chỉ bằng 1/10 thị trường của các nước trong khu vực (ví dụ như Thái Lan) nên họ không thể giảm giá. Sự thật hiển nhiên ở đây là các doanh nghiệp sản xuất và lắp ráp ô tô đã không thực hiện đúng các cam kết trong giấy phép đầu tư của mình là tăng tỷ lệ nội địa hóa lên 30 đến 40% trong vòng 10 năm. Với sự “thất hứa” này nên tính đến thời điểm hiện nay, tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm của các doanh nghiệp ô tô ở Việt Nam chỉ đạt từ 2 đến 12% và việc nội địa hóa lại chỉ dừng lại ở các công đoạn giản đơn trong quy trình sản xuất và lắp ráp (sử dụng các linh kiện nội địa có giá trị thấp như săm, lốp, ắc-quy, dây điện, ghế...). Vấn đề ở đây là tại sao các nhà đầu tư đã không thực hiện được cam kết? Và định hướng chiến lược phát triển ngành ô tô nội địa và đi kèm theo nó là chính sách ưu đãi thuế quan nói trên để thực hiện mục tiêu nội địa hóa ngành ô tô có phải là sai lầm không? Theo chúng tôi, ngành công nghiệp ô tô Việt Nam hơn 10 năm qua đã dẫm chân tại chỗ vì chiến lược phát triển ngành này chỉ quy tụ vào biện pháp đóng thuế nhập khẩu kinh kiện, thuế nhập khẩu xe nguyên chiếc để làm áp lực những nhà đầu tư thực hiện nội địa hóa sản phẩm linh kiện. Đây là việc “không tưởng” vì các hãng ô tô, ngay tại chính hãng, cũng chỉ sản xuất chiều sâu được 36-45% các chi tiết của một chiêc xe, phần còn lại được những nhà sản xuất linh kiện cung cấp. Với thị trường nhỏ bé mà Việt Nam lại muốn điều phối tỷ lệ nội địa hóa chỉ thông qua Đầầu tư phát triển và giải pháp phát triển cho ngành cống nghiệp ố tố Việt Nam Page 17 Bùi Quốốc Trung - CQ534214 chính sách ưu đãi thuế nói trên, thì không có nhà đầu tư nào muốn đầu tư sản xuất linh kiện thật sự. Một sai lầm của các cơ quan hoạch định chính sách đối với ngành công nghiệp ô tô trong thời gian qua là họ không thấu hiểu được sự phức tạp của ngành công nghiệp ô tô. Vốn đầu tư trong ngành công nghiệp ô tô rất cao vì đó là ngành cơ khí chính xác, độ an toàn, chất lượng, kỹ thuật cao. Ví dụ: dây belt trong xe ô tô gía trị chỉ từ 3-6 USD, nhưng nếu bị hư thì làm hư nguyên cả engine (máy ô tô), và nhiều ví dụ khác nữa... nên những nhà sản xuất ô tô có thương hiệu chỉ mua những linh kiện mà họ tin tưởng vào chất lượng để không ảnh hưởng đến thương hiệu của họ. Trong thời gian qua chúng ta đã thấy nhiều nhà đầu tư (điện thoại, ô tô...) phải trả phí tổn cực kỳ to lớn (có thể lên đến vài trăm triệu hay hàng tỉ USD) khi họ phải recall (thu hồi và hủy bỏ) sản phẩm chỉ vì 1 chi tiết, linh kiện bị lỗi. Một chiếc điện thoại trị giá hàng nghìn USD phải thu hồi khi pin bị lỗi, nhiều hãng xe ô tô nổi tiếng cũng đã phải recall sản phẩm của mình... Nguyên nhân làm cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam không phát triển đựoc và giá bán xe trong nước cao hơn nhiều so với xe trong khu vực là ngành công nghiệp sản xuất linh kiện phụ trợ kém. Cần phải phát triển ngành công nghiệp phụ trợ thì ngành ô tô mới có thể cạnh tranh được. Tại Hội thảo “Phương tiện giao thông và công nghiệp phụ trợ” tổ chức bên lề Vietnam AutoExpo 2007, PGS-TS Phan Đăng Tuất, Viện trưởng Viện Nghiên cứu chính sách chiến lược công nghiệp, Bộ Công thương cho biết: “Một chiếc xe ô tô có từ 20.000-30.000 chi tiết và để sản xuất ra nó cần tới hàng ngàn nhà cũng cấp linh kiện. mỗi doanh nghiệp lắp ráp cần tối thiểu 20 nhà cung cấp, trong khi ở Việt Nam, hiện chỉ có khoảng 40 nhà cung cấp linh kiện trên tổng số 50 nhằ lắp ráp”. Đầầu tư phát triển và giải pháp phát triển cho ngành cống nghiệp ố tố Việt Nam Page 18 Bùi Quốốc Trung - CQ534214 Sở dĩ công nghiệp phụ trợ của Việt Nam không phát triển được, ngoài lý do mà chúng tôi nêu ở trên còn có lý do mà một số nhà đầu tư đưa ra là dung lượng thị trường ô tô của Việt Nam quá nhỏ bé. Vì nhỏ bé nên các nhà đầu tư không muốn lao vào sản xuất linh kiện phụ trợ cung cấp cho các doanh nghiệp trong nước. Họ lại càng không thể mơ đến việc cạnh tranh Trung Quốc, Thái Lan, Đài Loan... trong việc xuất khẩu linh kiện ô tô. Thái Lan có tới trên 1.500 doanh nghiệp phụ trợ. Với tỷ lệ nội địa hóa đạt tới 70%-80%. Đài Loan cũng có khoảng trên 2.000 nhà đầu tư sản xuất linh kiện phụ tùng thay thế. Về vấn đề này, cũng tại hội thảo nói trên, đại diện Bộ Tài chính (Tổng cục Thuế) cũng lý giải thêm rằng: “Theo đánh giá chung, việc bảo hệ quá mức đối với ngành công nghiệp ô tô hiện nay thường dễ làm cho giá bán ô tô trong nước quá cao, tạo nên sức ì cho doanh nghiệp. Chính sách thuế hiện hành vẫn mang tính bảo Đầầu tư phát triển và giải pháp phát triển cho ngành cống nghiệp ố tố Việt Nam Page 19 Bùi Quốốc Trung - CQ534214 hộ cao do vậy giá xe ô tô vẫn ở mức cao. Thuế phụ túng không hợp lý, có phụ tùng trong nước không sản xuất được nhưng vẫn duy trì ở mức thuế suất cao”. Tuy nhiên, “cái vòng luẩn quẩn của ngành công nghiệp ô tô Việt Nam”, theo như cách gọi của một quan chức của một Bộ, là Nhà nước một mặt kêu gọi phát triển công nghiệp phụ trợ để giảm giá xe, nhưng mặt khác lại đề ra chính sách hạn chế sử dụng ô tô bằng cách áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt. Trong khi công nghiệp phụ trợ muốn phát triển thì dung lượng thị trường phải lớn, lượng tiêu dùng phải cao. Lý do phổ biến nhất để hạn chế tiêu dùng ô tô, mà các nhà hoạch định chính sách đưa ra là “đường sá chât hẹp, ô nhiễm môi trường, tai nạn giao thông...”. Rõ ràng luận cứ này không có sức thuyết phục. Cần biết, số lượng xe ô tô ở Việt Nam mới chỉ đạt 8 xe/1.000 dân, trong khi ở Trung Quốc là 24 xe/1.000 dân, Thái Lan 152 xe/1.000 dân, Hàn Quốc 228 xe/1.000 dân, Mỹ 682 xe/1.000 dân... Xin cung cấp thêm số liệu sau đây để chúng ta hiểu thêm: CHLB Đức và Việt Nam có diện tích gần như nhau (khoảng 330.000 km 2), dân số gần như nhau (khoảng 83 triệu dân), nhưng số lượng ô tô ở Việt Nam là khoảng 670.000 chiếc và 18 triệu xe gắn máy, diện tích mặt bằng sử dụng 8 xe gắn máy bằng 1 xe ô tô, nhưng họ vẫn có chỗ đậu xe, và giao thông đâu có ùn tắc hay ô nhiễm! Dĩ nhiện việc so sánh giữa một nước đang phát triển như nước Đức là khập khiễn, nhưng cần nhớ là Việt Nam đang phấn đầu đến năm 2020, tức là chỉ 13 năm nữa, phải trở thành một nước phát triển cơ mà! Như đã nói ở trên, ngành công nghiệp ô tô xe máy là ngành cơ khí chính xác, Việt Nam không đồng hành với các nước, nhưng không thể “đi tắt, đón đầu” được. Chỉ có một cách hiệu quả nhất mà Việt Nam nên làm và phải làm là “bắt họ phải cõng mình đi”. “cõng” bằng cách nào? bằng cách áp dụng tiêu chuẩn kỹ thuật cao mà các nước phát triển đang áp dụng. Tiêu chuẩn này có lợi cho quốc gia và xã hội Đầầu tư phát triển và giải pháp phát triển cho ngành cống nghiệp ố tố Việt Nam Page 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan