KHÓ KHĂN CỦA DOANH NGHIỆP: VẤN ĐỀ VÀ GIẢI PHÁP
KHÓ KHĂN CỦA DOANH NGHIỆP: VẤN ĐỀ VÀ GIẢI PHÁP
TS. Nguyễn Đình Cung
Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TƯ
Sau nhiều năm liên tục bất ổn kinh tế vĩ mô, lạm phát cao, Chính phủ đã thể hiện
quyết tâm kiềm chế bằng được lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô bằng Nghị quyết số
11/NQ-CP ngày 24 tháng 2 năm 2011của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu tập trung
kiềm chế kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội. Sự quyết
tâm cao độ đó của Chính phủ nhận được sự ủng hộ của Đảng (kết luận số 02/KL-TW
ngày 16 tháng 3 năm 2011 của Bộ Chính trị về tình hình kinh tế - xã hội năm 2011), của
dân chúng và của các tổ chức quốc tế. Nghị quyết số 11 đã được triển khai quyết liệt và
đã thu được những kết quả tích cực trên lĩnh vực vĩ mô. Lạm phát đã giảm mạnh và đang
được kiềm chế; tỷ giá ổn định, thâm hụt cán cân thương mại thu hẹp đáng kể, thậm chí
gần mức cân bằng; dự trữ ngoại tệ có cải thiện đáng kế; thâm hụt ngân sách có giảm và
trong phạm vi kế hoạch v.v… Tuy vậy, bên cạnh đó, sản xuất có dấu hiệu đang bước vào
thời kỳ suy giảm, tín dụng suy kiệt, tăng trưởng kinh tế đạt thấp hơn nhiều so với kế
hoạch và là mức thấp nhất trong 10 năm nay; số doanh nghiệp giải thể, phá sản và tạm
ngưng hoạt động gia tăng; khu vực doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, sản xuất đình trệ
kéo dài. Bài viết này xin điểm lại những khó khăn chủ yếu của doanh nghiệp trong giai
đoạn hiện nay và thử thảo luận về kiến nghị một số giải pháp hỗ trợ doanh 37.
I. Những khó khăn đối với doanh nghiệp
1. Số mới thành lập giảm, số doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động gia tăng
Trong năm 2011, tổng số doanh nghiệp thành lập mới trên cả nước là 77.548 doanh
nghiệp, giảm 7,2% so với cùng kỳ năm 2010. Tổng số vốn đăng ký của các doanh nghiệp
thành lập mới trong năm là 513.700 tỷ đồng, tăng 4,9% so với năm 2010. Như vậy, năm
2011 lần đầu tiên kể từ khi Luật Doanh nghiệp 1999 có hiệu lực, số lượng doanh nghiệp
thành lập mới có sự giảm sút đáng kể so với cùng kỳ năm trước. Cùng với đó, tình trạng
doanh nghiệp hoạt động khó khăn phải giải thể hoặc ngừng hoạt động đã tăng mạnh so
với các năm trước đây, cụ thể, năm 2011, tổng số doanh nghiệp phải giải thể, ngừng hoạt
động là 53.972, tăng 24,8% so với năm 2010. Trong đó, số doanh nghiệp đã chính thức
giải thể là 7.611, tăng gần 15% so với năm 2010; số doanh nghiệp phải đăng ký tạm
ngừng hoạt động hoặc không đăng ký nhưng ngừng thực hiện nghĩa vụ thuế là 46.361,
37
Các số liệu trong báo cáo này chủ yếu lấy từ Điều tra khảo sát về hiện trạng hoạt động kinh doanh và
khó khăn mà doanh nghiệp đang phải đối mặt trong những tháng đầu năm 2012.
219
tăng 26,6% so với năm 201038.
Theo điều tra của Tổng cục thống kê, thì đến đầu tháng 5/2012 khoảng 8.3% số
doanh nghiệp đã phải giải thể hoặc tạm ngừng hoạt động. Trong đó, xét về thành phần
kinh tế, có 2,7% số doanh nghiệp nhà nước, 9,1% số doanh nghiệp ngoài nhà nước và
2,2% số doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Xét về vùng kinh tế, thì khu vực Đồng bằng
sông Cửu Long có tỷ lệ số doanh nghiệp giải thể cao nhất 13,6% tiếp đến là Tây Nguyên
9,9%, Đông Nam Bộ 8,7%, Bắc Trung Bộ và duyên hải miền trung 8,2%, trung du và
miền núi phía bắc 7,5% và cuối cùng là vùng sông Hồng 6%.
Trong 8 tháng đầu năm, cả nước có hơn 46 nghìn doanh nghiệp mới thành lập với
tổng số vốn đăng ký trên 320 ngàn tỷ đồng, giảm 11,5% về số lượng doanh nghiệp và
tăng 0,2% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm ngoái. Số doanh nghiệp thành lập mới
trong tháng 8 đã tăng hơn so với tháng 7, nhất là vốn đăng ký mới trong tháng 8 đã tăng
thêm khoảng 60% so với tháng 7 năm 2012.
2. Doanh nghiệp khó gặp khó khăn toàn diện
Giảm cầu trong nước là khó khăn đầu tiên, phổ biến đối với phần đối với hơn 2/3
số doanh nghiệp; tiếp đến là 53.6% số doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiếp cận vốn;
49,2% gặp khó khăn trong việc mua nguyên liệu đầu vào; những bất ổn vĩ mô đã gây khó
khăn cho 23,6% số doanh nghiệp; nhu cầu thị trường nước ngoài suy giảm gây khó khăn
cho 10 % số doanh nghiệp; khoảng 12% số doanh nghiệp gặp khó khăn trong tuyển dụng
lao động.
Sơ đồ 1. Những khó khăn chủ yếu đối với doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh
Nguồn: Tổng cục thống kê
Nhìn chung, tất cả các doanh nghiệp đều gặp phải khó khăn nói trên, nhưng mức
độ của từng loại khó khăn đối với các thành phần kinh tế khác nhau là không giống nhau.
Khoảng ½ số doanh nghiệp FDI gặp khó khăn do giảm cầu trong nước, thì giảm cầu trong
38
Nguồn: Cục Đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
220
nước đã làm cho gần 70% số doanh nghiệp trong nước gặp khó khăn trong kinh doanh.
Ngược lại, giảm cầu ở thị trường nước ngoài đã gây khó khăn cho gần 54% số doanh
nghiệp FDI gặp khó khăn, thì con số này đối với doanh nghiệp nhà nước là 22,2% và doanh
nghiệp ngoài nhà nước là 7,5%. Điều này phần nào chứng tỏ đại bộ phận doanh nghiệp
trong nước, nhất là doanh nghiệp tư nhân trong nước, chủ yếu hoạt động trên thị trường nội
địa, chỉ một số không nhiều có xuất khẩu hoặc giao dịch với thị trường nước ngoài. Chỉ
22% số doanh nghiệp FDI gặp khó khăn trong tiếp cận vốn, trong khi đó có tới gần 53% số
doanh nghiệp nhà nước và 56% số doanh nghiêp tư nhân trong nước gặp phải khó khăn
này. Hơn 58% số doanh nghiệp nhà nước gặp khó khăn trong mua nguyên liệu, trong khi
đó con số này đối với doanh nghiệp tư nhân trong nước và FDI khoảng 49%. Số doanh
nghiệp nhà nước gặp khó khăn trong bất ổn kinh tế vĩ mô (hơn 33%), cao hơn khá nhiều so
với doanh nghiệp tư nhân trong nước (khoảng 24%) và doanh nghiệp FDI (khoảng 20%).
Gần 27% số doanh nghiệp FDI gặp khó khăn trong tuyển dụng lao động; và con số này đối
với doanh nghiệp nhà nước là 14% và doanh nghiệp tư nhân trong nước khoảng 11%.
Sơ đồ 2 khó khăn đối với doanh nghiệp theo thành phần kinh tế
Nguồn: Tổng cục thống kê
3. Những rào cản trong tiếp cận vốn
Tiếp cận vốn đang là rào cản phổ biến, được nhắc đến hàng ngày trong suốt mấy
năm qua. Trên thực tế, hơn 42% số doanh nghiệp không vay vốn trong hoạt động kinh
doanh. Nói cách khác, số doanh nghiệp này chỉ dựa vào vốn tự có của mình để kinh
doanh và không vay mượn của bất kỳ ai. Trong số 58% số doanh nghiệp có vay vốn từ
221
người khác, thì hơn 58% trong số họ có vay vốn từ ngân hàng thương mại nhà nước, gần
30% có vay vốn từ ngân hàng thương mại cổ phần, gần 39% có vay vốn từ bạn bè, người
thân và 5,5% có vay vốn từ các ngân hàng FDI.
Có khá nhiều rào cản đối với doanh nghiệp trong tiếp cận vốn vay ngân hàng. Đầu
tiên và lớn nhất là lãi suất cao; gần 40% số doanh nghiệp gặp phải rào cản này. Tiếp sau là
thủ tục phiền hà (28,5%), không có thế chấp (gần 19%), phải trả thêm phụ phí (gần 10%) và
cuối cùng là không có vốn đối ứng (khoảng 7%).
Về thành phần kinh tế, điều đáng lưu ý là có đến 62% số doanh nghiệp FDI không
có nhu cầu vay vốn. Như vậy, phần lớn các doanh nghiệp FDI không bị ảnh hưởng bởi lãi
suất và chi phí vay vốn cao. Đó thực sự là một lợi thế trong vượt qua giai đoạn khó khăn
hiện nay của các doanh nghiệp FDI so với các doanh nghiệp trong nước. Và kết quả điều
tra cũng cho thấy tỷ lệ số doanh nghiệp trong nước gặp khó khăn do lãi suất cao gần gấp
đôi so với doanh nghiệp FDI. Điều đáng lưu ý là thủ tục phiền hà, phức tạp gây khó khăn
cho 30,5% số doanh nghiệp tư nhân trong nước, trong khi đó, con số này đối với doanh
nghiệp nhà nước là hơn 19% và doanh nghiệp FDI là khoảng 17%.
Về lãi suất tín dụng, kết quả điều tra của Tổng cục thống kế cho thấy phần lớn
doanh nghiệp đang vay vốn với lãi suất rất cao. 78,5% số doanh nghiệp đã phải trả mức
lãi suất từ 16% trở lên; hơn một nửa số doanh nghiệp phải trả mức lãi suất từ 18% trở lên.
Tuy vậy, theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, số tín dụng mà doanh nghiệp vay và trả
mức lãi suất trên 15% năm đã liên tục giảm trong mấy tuần gần đây, và đến ngày
20.8.2012 đã xuống mức còn 29%.
222
Sơ đồ mức lãi suất tín dụng đối với doanh nghiệp
4. Mức độ khó khăn theo ngành kinh tế
Có thể nói, các khó khăn nói trên đều xuất hiện ở tất cả các ngành, lĩnh vực của nền
kinh tế. Tuy vậy, quy mô và mức độ của từng loại khó khăn ở các ngành khác nhau là
không giống nhau. Có thể nói, khó khăn trong tiếp cận là khá phổ biến đối với các doanh
nghiệp xây dựng (hơn 67%), tiếp đến là khai khoáng (hơn 64%), các doanh nghiệp bán
buôn, bán lẻ (hơn 55%), các doanh nghiệp kinh doanh kho bãi, vận tải (gần 50%), các
doanh nghiệp chế tạo và doanh nghiệp trong lĩnh vực nông lâm, ngư nghiệp (khoảng 46%).
Trên thực tế, cho đến tháng 4 năm 2012, tín dụng cho nhiều ngành kinh tế đã sụt
giảm mạnh so với tháng 12/2011. Cụ thể là, tín dụng cho ngành vui chơi, giải trí giảm đến
gần 71%, cho dịch vụ khoa học, công nghệ giảm hơn 45%, cho xây dựng giảm gần 1,5%,
cho dịch vụ nhà hàng, khách sạn giảm gần 2%, cho nông nghiệp, nông thôn giảm hơn
223
0,5% v.v...
Mức tăng tín dụng theo ngành đến ngày 15 tháng 4 năm 2012
Nhu cầu nội địa giảm đã tác đống hết sức mạnh đến các doanh nghiệp bán buôn,
bán lẻ (gần 74%), kinh doanh dịch vụ nhà hàng, khạch sạn (hơn 75%), vận tải, kho bãi
(hơn 66%); tiếp đến là các doanh nghiệp chế tạo, chế tác và thông tin, truyền thông
(khoảng 62%); 36% số doanh nghiệp trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp cũng gặp khó
khăn do nhu cầu nội địa giảm.
Như trên đã trình bày, các doanh nghiệp Việt Nam bị tác động không nhiều bởi
giảm nhu cầu bên ngoài so với những yếu tố khác. Doanh nghiệp trong ngành thông tin và
truyền thông bị tác động nhiều nhất (gần 29% số doanh nghiệp); tiếp đến là ngành chế tác,
chế tạo (gần 25%), khách sạn, nhà hàng (gần 21%). Ngành nông nghiệp bị tác động
224
không đáng kể bởi sự giảm sút nhu cầu từ bên ngoài. Các ngành bán buôn, bán lẻ, xây
dựng cũng không bị tác động nhiều bởi giảm sút nhu cầu bên ngoài.
Các doanh nghiệp cũng gặp phải khó khăn trong mua nguyên liệu đầu vào phục vụ
sản xuất kinh doanh. Có đến hơn 58% số doanh nghiệp chế tác, chế tạo gặp khó khăn
trong việc mua nguyên liệu đầu vào; tiếp đó là doanh nghịêp trong lĩnh vực nông nghiệp,
nông thôn. Điều đáng nói ở đây là các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, nông
thôn không gặp nhiều khó khăn về tiêu thụ, nhưng lại gặp khó khăn nhiều về thu mua
nguyên liệu đầu vào. Nhìn chung, tỷ lệ số doanh nghiệp gặp khó khăn về thu mua nguyên
liệu đầu vào ở các ngành còn lại về cơ bản là tương tự nhau (dịch vụ kho bãi 51%, bán
buôn, bán lẻ khoảng 48%, xây dựng hơn 46%, khai khoáng và sản xuất, phân phối nước,
xử lý nước thải gần 43% v.v...).
225
Việc tuyển dụng lao động hiện chưa phải là khó khăn đối với hầu hết các doanh
nghiệp. Chỉ hơn 21% số doanh nghiệp trong ngành thông tin, truyền thông gặp khó khăn
trong tuyển dụng lao động, tiếp đến là các doanh nghiệp chế tác (hơn 20%), các ngành
nông nghiệp, nông thôn, khai khoáng v.v... khoảng 14%. Điều đáng nói là có đến 19% số
doanh nghiệp trong ngành nhà hàng, khách sạn gặp khó khăn trong tuyển dụng lao động,
tương đương ngành chế tạo, chế tác.
II. Nguyên nhân làm phát sinh những khó khăn đối với doanh nghiệp
Có nhiều nguyên nhân gây nên khó khăn đối với doanh nghiệp nước ta. Về khách
quan bên ngoài, có thể nói, kinh tế thế giới phục hồi chưa mạnh mẽ và vững chắc; các dự
đoán và dự báo về kinh tế thế giới năm 2012 càng về sau càng bi quan hơn, và trên thực
tế, kinh tế thế giới có suy giảm hơn so với năm 2011. Sự suy giảm về tăng trưởng và xuất
khẩu xảy ra hầu như ở tất cả các quốc gia, các khu vực. Khủng hoảng nợ công châu Âu có
vẻ như chưa có giải pháp; kinh tế khu vực này đang ngày càng trở nên khó khăn hơn.
Tuy vậy, nguyên nhân chủ yếu vẫn là nội tại. Về các nguyên nhân nội tại, có thể
phân biệt nguyên nhân tổng thể và nguyên nhân cụ thể trực tiếp. Về nguyên nhân cụ thể
trực tiếp, thì thực trạng kinh tế và những khó khăn hiện nay của doanh nghiệp ở một mức
độ đáng kể là hệ quả của các chính sách kiểm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô được áp
dụng từ đầu năm 2012. Các giải pháp đó là: cắt giảm đầu tư công, bố trí lại vốn đầu tư
công theo hướng tập trung hơn, trọng điểm hơn, ưu tiên bố trí vốn cho những công trình
dự kiến hoàn thành trong năm 2012 và 2013; cắt giảm và khống chế hạn mức tăng trưởng
tín dụng, mức tăng tổng phương tiện thanh toán đối với nền kinh tế nói chung và một số
ngành “phi sản xuất” nói riêng. Hàng nghìn dự án đầu tư công đã bị đình hoãn; mức tăng
tín dụng đã giảm từ hơn 30% trong nhiều năm trước 2011 đã giảm xuống còn 14% năm
226
2012; và 8 tháng đầu năm 2012, tín dụng chỉ tăng 1,2% so với cuối tháng 12 năm 2011.
Cũng tương tự như vậy đối với tổng phương tiện thanh toán của nền kinh tế. Lãi suất cao,
nợ xấu gia tăng, thanh khoản yếu v.v… cũng là những hệ quả của những chính sách kiềm
chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô kết hợp với những yếu kém, hay lệch lạc của cơ cấu
kinh tế hiện tại như trình bày sau đây.
Về nguyên nhân tổng thể và gián tiếp, cũng có một số nguyên nhân.
Đó trước hết là nền kinh tế đang bước vào thời kỳ chuyển đổi và tái cơ cấu. Những
yếu tố tăng trưởng theo chiều rộng đã dần đến tận khai; và không thể tiếp tục duy trì cách
thức tăng trưởng nhờ vào mở rộng và gia tăng số lượng các nhân tố sản xuất như trước.
Nói cách khác, tại điểm bước ngoặt hay giao thời này, các điều kiện kinh doanh bên ngoài
sẽ thay đổi, và có tác động không thuận đến các doanh nghiệp hiện có.
Trong khi nền kinh tế ở vào bước ngoặt của quá trình chuyển đổi, những chính
sách phát triển và điều hành kinh tế không được thay đổi tương ứng. Thay vì thực hiện
các chính sách điều chỉnh cơ cấu, thay đổi động lực tăng trưởng ở vi mô, thì các chính
sách kích thích kinh tế vĩ mô lại được ưu tiên áp dụng. Vì vậy, tăng trưởng tín dụng, tăng
trưởng M2 và đầu tư luôn ở mức cao và đạt kỷ lục vào năm 2007, tạo ra những dòng vỗn
dễ dãi, tạo nên bong bóng thị trường vào trong suốt thời gian khá dài.
Sơ đồ: Tăng trưởng tín dụng và M2 giai đoạn 2011-2012
Năm 2007: khởi đầu thời kỳ suy
giảm
60
53.89
50
43.67
41.66
40
37.73
33.59
31.6
30
25.53
Tốc độ tăng M2
29
27.54
Tốc độ tăng tín dụng
25.44
24.94
22.16
21.45
20
31
30.32
29.42
28.44
20.34
19.42
17.65
14
12
10
8
0
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
Chính những chính sách hỗ trợ tăng trưởng theo mô hình cũ trong giai đoạn 20062007 là nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp dẫn tới lạm phát cao và bất ổn vĩ mô của những
227
năm tiếp theo. Nền kinh tế tăng trưởng nóng và mức cầu ảo từ “bong bóng thị trường” đã
thúc đẩy và lôi kéo doanh nghiệp “chạy theo” và “ăn theo” những chính sách kích thích
kinh tế của thời kỳ đó, nhất là trong ngành bất động sản và các ngành có liên quan. Nói
cách khác, tiêu dùng và đầu tư thiếu thận trọng và quá mức thu nhập thực của nền kinh tế
đã dẫn đến sai lệch về phân bố nguồn lực trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế và ở cả từng
doanh nghiệp. Một nguồn đầu tư và cung khổng lồ đã bị dẫn dắt bởi lực cầu ảo. Nay cầu
suy giảm, trở về mức thực tế của nó, đã tạo nên sự chênh lệch lớn giữa cung-cầu (chênh
lệc về quy mô, về loại sản phảm và giá cả); và nguồn cung đó thực sự không phù hợp với
nhu cầu xã hội và còn yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước. Chính sự đầu tư thái quá,
thiếu tầm nhìn, thiếu nền tảng và thiếu thận trọng nhằm tìm kiếm địa tô của một bộ phận
doanh nghiệp cũng là một trong các nguyên nhân làm nên khó khăn hoặc gia tăng mức độ
khó khăn hôm nay của doanh nghiệp.
Sơ đồ Tăng trưởng đầu tư xã hội giai đoạn 2011- 2012
Năm 2007: khởi đầu thời kỳ suy giảm
35
31.5
30
27
25
21.6
20
19.5
17.9
17.4
17.9
17.1
15.9
15.3
15
14.3
12.8
1
2.5
13.5
12.7
16.2
14.9
giá so sánh
13.7
13
giá thực tế
10
7.8
7.8
Linear (giá thực tế)
5.7
5
1.4
0
2000
2001
20 02
2003
2004
2005
20 06
2007
2008
2009
20 10
2011
2012
-5
-10
-9.3
-15
Xét hai nhóm nguyên nhân nói trên, thì nguyên nhân tổng thể và gián tiếp là các
nguyên nhân cơ bản. Những khó khăn trước mắt hiện nay của các doanh nghiệp là hệ quả
hay cái giá phải trả để khôi phục lại và duy trì ổn định kinh tế vĩ mô; là bước đi đầu tiên
không thể thiếu để thay đổi lại hệ thống động lực sai lệch trong phân bố và sử dụng nguồn
lực xã hội.
III. Thảo luận về các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp
1. Các chính sách hiện hành và hiệu lực của chúng
Sau những kết quả bước đầu về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, lạm phát
giảm và về cơ bản đã được kiềm chế, đầu năm 2012, Chính phủ đã thảo luận và ban hành
228
một số giải pháp hỗ trợ, chia sẻ và đồng hành cùng doanh nghiệp trong giải quyết các khó
khăn hiện hành. Các giải pháp tập trung chủ yếu vào ba nhóm. Một là, giảm chi phí đầu
vào, nhất là giảm lãi suất, qua đó, hỗ trợ doanh nghiệp giảm chi phí, giảm giá thành sản
xuất. Hai là, hỗ trợ doanh nghiệp giải quyết khó khăn về vốn lưu động, và tiếp cận vốn tín
dụng ngân hàng, và ba là hỗ trợ doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm, giảm tồn kho v.v… Mục
tiêu tổng thể trước mắt là giúp doanh nghiệp “tiếp tục cầm cự”, chống đỡ vượt qua được
giai đoạn khó khăn hiện nay, qua đó, tận dụng các cơ hội phát triển tiếp theo.
Các chính sách cụ thể đã được thực hiện bao gồm:
- Gia hạn 06 tháng thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng của tháng 4, tháng 5 và tháng
6 năm 2012 đối với các doanh nghiệp đang nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp
khấu trừ: doanh nghiệp nhỏ và vừa39, doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động trong lĩnh vực
sản xuất, gia công, chế biến nông sản, lâm sản, thủy sản, dệt may, da giày, linh kiện điện
tử, xây dựng các công trình hạ tầng kinh tế - xã hội.
- Giảm 50% tiền thuê đất phải nộp của năm 2012 đối với một số doanh nghiệp có
khó khăn về trả tiền thuê đất do những điều chỉnh về giá thuê đất được áp dụng từ năm
2011;
- Gia hạn 09 tháng thời hạn nộp đối với thuế thu nhập doanh nghiệp từ năm 2011
trở về trước mà chưa nộp vào ngân sách nhà nước40 đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa;
- Gia hạn tối đa 12 tháng thời hạn nộp tiền sử dụng đất đối với các chủ đầu tư dự
án có khó khăn về tài chính41.
- Hoãn thu phí bảo trì đường bộ từ 1/6/2012 đến hết năm 2013.
- Miễn thuế thu nhập cá nhân cho người chịu thuế ở bậc 1 và miễn thuế thu nhập
doanh nghiệp và thuế môn bài năm 2012 cho chủ cho thuê nhà trọ, dịch vụ trông giữ trẻ
và cung cấp suất ăn cho công nhân;
- Liên tục điều chỉnh giảm lãi suất huy động và qua đó giảm lãi suất cho vay, mới
đây nhất (tháng 7 năm 2012) Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã yêu cầu các ngân hàng
thương mại điều chỉnh hạ lãi suất cho vay đối với tất cả các khoản vay xuống dưới 15%;
một số lĩnh vực được ưu tiên vay vốn với lãi suất thấp hơn, khoảng 13%/năm (gồm doanh
39
Không bao gồm số thuế thu nhập doanh nghiệp được gia hạn theo Quyết định số 04/2012/QĐ-TTg ngày
19 tháng 1 năm 2012 về việc gia hạn nộp thuế thêm 03 tháng đối với số thuế thu nhập doanh nghiệp phải
nộp quý I, quý II năm 2011 của doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động.
40
Không bao gồm số thuế thu nhập doanh nghiệp được gia hạn theo Quyết định số 04/2012/QĐ-TTg ngày
19 tháng 1 năm 2012 về việc gia hạn nộp thuế thêm 03 tháng đối với số thuế thu nhập doanh nghiệp phải
nộp quý I, quý II năm 2011 của doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động.
41
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định thời gian gia hạn cụ thể cho từng dự án, nhóm dự án sau
khi báo cáo Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp.
229
nghiệp nhỏ và vừa, nông nghiệp nông thôn và xuất khẩu).
- Đồng thời với các giải pháp nói trên, Chính phủ đã có những động thái tăng thêm
chi tiêu, kích cầu đầu tư và tiêu dùng như tăng nhanh tốc độ giải ngân trong các tháng còn
lại đảm bảo giải ngân hết số vốn đầu tư theo kế hoạch, đồng thời, cho ứng thêm 30 ngàn tỷ
chi đầu tư của năm 2013; hủy bỏ lệnh cấm mua sắm đối với các cơ quan quản lý nhà nước.
Do tín dụng tăng thấp hơn nhiều so với dự kiến, Ngân hàng Nhà nước đã điều
chỉnh, tăng hạn mức tăng tín dụng cho hàng chục tổ chức tín với mong muốn đạt mức
tăng tín dụng đến cuối năm khoảng từ 8-10% so với cuối năm 2011.
Một số nhận xét và đánh giá
Xem xét “gói” hỗ trợ nói trên, có thể đưa ra một số nhận xét như sau:
Về quy mô, giá trị gói hỗ trợ là rất nhỏ so với mức độ khó khăn hiện nay của doanh
nghiệp và người dân. Các giải pháp giảm, giản nộp thuế về lý thuyết có giá trị khoảng 36
ngàn tỷ đồng; nhưng chỉ là giản, hoãn nộp thuế. Nói cách khác, nó chỉ có thể giảm gánh
nặng có tính thời điểm cho doanh nghiệp; và hệ quả là chất thêm gánh nặng về thuế cho
năm 2013 và các năm tiếp theo. Lợi ích thực sự mà các doanh nghiệp và người dân có thể
được hưởng khoảng 11 nghìn tỷ đồng, gồm 4.100 tỷ miễn, giảm thuế thu nhập doanh
nghiệp, thuế môn bài, 3.000 tỷ thuế thu nhập cá nhân bậc 1, 1.500 tỷ tiền thuê đất và
khoảng 2.100 đến 2.500 tỷ đồng tiết kiệm được do được “chiếm nguồn thu” của ngân
sách nhà nước trong thời hạn 6 tháng v.v…). Số được hưởng trên thực tế có thể thấp hơn
nhiều. Ví dụ, đến tháng 6/2012 tổng số thuế VAT được gia hạn là 5.500 tỷ đồng (trong số
12.300 tỷ đồng thuế được gia hạn nộp); trung bình mỗi doanh nghiệp được gia hạn nộp là
gần 46 triệu. Cũng tương tự, số tiền thực tế đã miễn cho hộ kinh doanh nhà trọ, cung cấp
dịch vụ nhà trẻ chỉ mới 10 tỷ đồng42.
- Việc giảm lãi suất được cộng đồng doanh nghiệp và các bên có liên quan hoan
nghênh; coi đây là giải pháp cơ bản có thể giúp doanh nghiệp giảm chi phí vốn, tăng khả
năng tiếp cận vốn đối với doanh nghiệp. Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, thì đến
ngày 20 tháng 8/2012 số tín dụng với lãi suất cao hơn 15% năm đã giảm từ khoảng trên
70% (trước ngày 15 tháng 7) xuống còn khoảng 29% tổng số tín dụng cho doanh nghiệp.
Tuy vậy, các doanh nghiệp vẫn cho rằng trên thực tế, chi phí mà họ phải thanh toán để
vay vốn là cao hơn và khả năng tiếp cận vốn trên thực tế chưa được cải thiện.
- Các giải pháp nói chung đều chỉ mới nhằm đến các nguyên nhân trực tiếp; về cơ
bản là “ngược lại” đối với các giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Vì vậy,
quy mô và cường độ của các giải pháp này sẽ là hết sức hạn chế; không thể kích cầu để
42
Thời báo kinh tế sài gòn số 35-2014 ngày 23 tháng 8 năm 2012.
230
tăng lượng cầu lên mức như trước năm 2011. Một phần không nhỏ phần “cung” của nền
kinh tế được hình thành trước đây có thể đã quá mức hoặc không tương thích với “cầu”
hiện tại và tương lai của nền kinh tế. Vì vậy, không thể tạo ra cầu giả tạo để giải quyết các
thành phần về cung nói trên của nền kinh tế. Do đó, các giải pháp hỗ trợ nói trên đối với
doanh nghiệp rõ ràng là hết sức hạn chế về quy mô, và rất ít hiệu lực trong việc giải quyết
vấn đề khó khăn hiện nay của doanh nghiệp. Ngoài ra, nếu thực hiện “quá liều” và “lệch
hướng”, thì nguy cơ lạm và bất ổn kinh tế vĩ mô quay trở lại là rất lớn.
- Điều đáng nói thêm là, trong khi các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp chưa phát huy
tác dụng như mong muốn, chi phí sản xuất và giá thành chưa giảm được, thì giá xăng,
dầu, điện lại điều chỉnh tăng liên tục, phí dịch vụ y tế đồng loạt tăng. Trong 8 tháng đầu
năm, giá dầu đã tăng thêm 2200 đồng/lít; ngày 1 tháng 7/2012 giá điện cũng đã điều chỉnh
tăng thêm 5%. Rõ ràng, các điều chỉnh tăng giá nói trên chắc chắn sẽ làm tăng thêm chi
phí sản xuất, làm cho doanh nghiệp đã yếu lại yếu thêm, thậm chí có thể đẩy thêm hàng
nghìn doanh nghiệp đến tình trạng thua lỗ, không thể tiếp tục duy trì sản xuất. Ngoài ra,
nhiều quy định mới ban hành cũng tăng thêm đáng kể chi phí tuân thủ đối với các doanh
nghiệp trong ngành có liên quan43. Nói tóm lại, các giải pháp chính sách là chưa thật nhất
quán theo hướng giải quyết các khó khăn đối với doanh nghiệp; các giải pháp là ngắn hạn
và thiếu cơ bản trong việc xử lý các vấn đề của nền kinh tế nói chung và của khu vực
doanh nghiệp nói riêng. Chính vì vậy mà niềm tin đối với sự nhất quán và kiên định của
Chính phủ trong chống lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và giải quyết khó khăn cho doanh
nghiệp là chưa thật vững chắc.
2. Các giải pháp thường được kiến nghị để tháo gở khó khăn cho doanh nghiệp
Trước những khó khăn gay gắt và nhiều mặt của doanh nghiệp, những thảo luận, kiến
nghị về các giải pháp tháo gỡ, chia sẻ khó khăn đối với doanh nghiệp luôn là chủ đề nóng
trên các diễn đàn và các phương tiện truyên thông đại chúng. Sau đây, tôi xin tập hợp lại
những kiến nghị thường gặp thành một số nhóm.
Nhóm thứ nhất là các giải pháp tăng cầu hay kích cầu. Các kiến nghị thường thấy
bao gồm: tăng chi tiêu công, nhất là đầu tư công, bù đắp thiếu hụt tiêu dung tư nhân; đẩy
nhanh giải ngân các dự án đầu tư công hiện có; mở rộng tín dụng, thậm chí kể cả hạ
chuẩn cho vay, gồm cả tín dụng tiêu dùng; tăng hạn ngạch tín dụng; giản nợ, khoang nợ,
xử lý nợ xấu; Giảm lãi suất cho vay; miễn, giảm và giản thuế thu nhập doanh nghiệp, VAT
v.v…
43
Một quả trứng gà phải chịu thêm 5 loại phí trước khi đến được với người tiêu dùng; phí bảo vệ môi
trường đánh vào túi PE làm tăng chi phí thêm 0,1 đô la mỹ/kg đối với hàng thủy sản xuát khẩu; phí kiểm
nghiệm hàng hóa trước khi xuất khẩu(đối với hàng thủy sản) đã tăng 1,5-2 lần so với năm ngoái v.v…
231
Nhóm giải pháp thứ hai là giảm cung bằng cách tăng bảo hộ sản xuất trong nước,
tăng hàng rào kỹ thuật v.v…; hạn chế, tạm dừng đầu tư mới đối với những sản phẩm dư
cung để “cứu” những dự án đã đầu gần xong, những nhà máy chưa dùng hết công suất.
bản thân các doanh nghiệp cũng đã phải giảm quy mô sản xuất, giảm tồn kho và giảm lỗ.
Các kiến nghị thuộc hai nhóm nói trên là rất truyền thống. Khi cung vượt quá cầu,
thì tăng cầu, giảm cung là lẽ tự nhiên. Tuy vậy, các kiến nghị nói trên mới chỉ chú ý đến các
nguyên nhân trực tiếp tạo ra những khó khăn hiện nay cho doanh nghiệp. Xét điều kiện và
bối cảnh kinh tế nước ta hiện nay, thì các giải pháp loại này sẽ không còn hiệu lực nữa,
hoặc dư địa còn rất nhỏ. Nếu tăng cầu, tăng thêm đầu tư và mở thêm tín dụng quá mức, thì
tác dụng rất ngắn hạn và lạm phát cao, bất ổn kinh tế vĩ mô sẽ ngay lập tức quay trở lại.
Còn nếu tăng cầu ở quy mô nhỏ như đã làm trong thời gian qua, thì không có tác dụng.
Các giải pháp “truyền thống” không chỉ không giải quyết được vấn đề, mà còn
không phù với giai đoạn phát triển hiện nay của nền kinh tế. Phần lớn các kiến nghị về
bản chất là muốn duy trì hiện trạng; mà hiện trạng đó là hệ quả của phân bố nguồn lực
méo mó, kém hiệu quả, không phù hợp với yêu cầu tái cơ cấu kinh tế và chuyển đổi mô
hình tăng trưởng. Thậm chí có những kiến nghị, nếu thực hiện, sẽ làm gia tăng thêm mức
độ của các khó khăn hiện nay. Ví dụ, trong khi các nhà máy sản xuất thép đang dư thừa
công suất, tồn kho thép tăng cao, thì có kiến nghị bố trí thâm vốn, đẩy nhanh giải ngân để
sớm hoàn thành một số dự án xây dựng nhà máy sản xuất thép còn dở dang; mà không
chú ý đến thay đổi cơ cấu cung cho phù hợp với thực tế đã thay đổi.
Kiến nghị của nhóm tiếp theo bắt đầu chú ý đến phân bố lại và sử dụng nguồn lực
hiện có với hiệu quả cao hơn. Sau đây là một số kiến nghị thường thấy thuộc nhóm này.
Kiến nghị không tăng vốn đầu tư nhà nước, mà chủ yếu phân bố vốn vào các dự án
hiệu quả cao, có độ lan lan tỏa cao thúc đẩy và lôi kéo đầu tư vào các ngành có liên quan.
Kiến nghị này về bản chất là đổi mới, cải cách cơ chế quản lý phân bố và sử dụng vốn đầu
tư nhà nước. Hay nói cách khác, để làm được như kiến nghị nói trên, thì phải xác dịnh
được tiêu chí hiệu quả của dự án, phải xây dựng và áp dụng quy trình hợp lý trong việc
xem xét, thẩm định và lựa chọn được những dự án đầu tư có hiệu quả kinh tế xã hội cao
nhất; thiết lập được cơ chế phân bố vốn và thực hiện dầu tư, đánh giá đầu tư bảo đảm các
dự án đó được thực hiện đúng kế hoạch đã được phê duyệt v.v… Nói cách khác, kiến nghị
nói trên là hợp lý, nhưng để thực hiện được nó, còn phải làm nhiều việc, trong đó, quan
trọng nhất là thay đổi lại cơ chế quản lý hiện hành đối với đầu tư nhà nước. Đây là vấn đề
đã được nói đến từ lâu, và hình như nói về nó thì dễ, nhưng giải quyết vấn đó lại là điều
không dễ.
Kiến nghị thứ hai thuộc nhóm này là tái cơ cấu DNNN. Một trong các giải pháp tái
cơ cấu DNNN là tập trung thoái vốn đầu tư ngoài ngành để tập trung vào các ngành, nghề
kinh doanh cốt lõi. Chủ trương này đã dược nêu cụ thể trong nhiều văn bản khác nhau
232
như Nghị quyết hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành trung ương khóa XI, hay quyết định
929/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tái cơ cấu DNNN mà trọng tâm
là tập đoàn, tổng cty nhà nước giai đoạn 2012-2015. Đây là những giải pháp hết sức phù
hợp và thiết thực. Nó sẽ thu hẹp phạm vi ảnh hưởng của tập đoàn, mở rộng dư địa và cơ
hội kinh doanh cho thành phần kinh tế khác, tạo ra môi trường kinh doanh công bằng và
bình đẳng hơn; qua đó, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực xã hội nói chung và DNNN
nói riêng. Tuy vậy, việc thực hiện có vẻ chần chừ, do dự và chưa thực sự quyết liệt; thậm
chí có ý kiến “bàn lùi”, và cho rằng không thể hoàn thành trước năm 2015 như cam kết.
Loại kiến nghị thứ ba thuộc nhóm này là ưu tiên phân bố nguồn lực, nhất là tín dụng
cho một số lĩnh vực ưu tiên như sản xuất nông nghiệp, phát triển nông thôn, xuất khẩu,
doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động v.v… Các kiến nghị loại
này trên thực tế đã được tiếp thu và thể hiện trong Nghị quyết số 13 của Chính phủ, và
một số Nghị quyết có liên quan của Quốc hội. Tuy vậy, trên thực tế, các giải pháp loại này
không có mục tiêu cụ thể; thể chế thực thi cũng không rõ ràng; đối tượng chính sách lại
quá rộng v.v… Vì vậy, việc triển khai trên thực tế không tạo nên sự khác biệt so với
những hoạt động bình thường của ngân hàng cũng như của các cơ quan có thẩm quyền
quản lý và phân bố vốn đầu tư nhà nước. Nói cách khác, các giải pháp này về cơ bản
không có hiệu lực thực tế.
3. Cần phải thực hiện các giải pháp giải quyết trực diện vấn đề cơ bản của nền
kinh tế.
Vấn đề cơ bản của nền kinh tế nằm ở cơ cấu vi mô. Cụ thể là, hiệu quả sử dụng
nguồn lực thấp và đang giảm dần, năng suất lao động thấp và năng lực cạnh tranh thấp.
Thực trạng nói trên là hệ quả của phân bố nguồn lực sai lệch và bất hợp lý; với phân bố
nguồn lực nói trên là hệ quả của hệ thống các đòn bẩy và động lực khuyến khích sai lệch,
không thực sự thúc đẩy sáng tạo, đổi mới công nghệ, tổ chức quản lý để nâng cao năng
suất và hiệu quả, không thực sự khuyến khích đầu đầu tư lớn, đầu tư dài hạn vào lĩnh vực
chế tác, chế tạo, và hạn chế đầu tư phi sản xuất mang tính đầu cơ và chụp giật ngắn hạn.
Tất cả các biểu hiện nói trên lại là hệ quả của các thể chế kinh tế có liên quan và sự vận
hành trên thực tế của hệ thống các thể chế đó.
233
Vì vậy, các giải pháp cần thực hiện phải đảo ngược lại diễn biến nói trên; phải tập
trung vào năng cao hiệu quả, nâng cao năng suất, nâng cao năng lực cạnh tranh thay vì
tiếp tục tập trung mở rộng quy mô về lượng; tạo ra năng lực sản xuất mới, nguồn cung
mới phù hợp với nhu cầu thực tế của xã hội, thay vì tập trung vào khai thác nguồn cung
dư thừa hiện nay, hay chỉ chú ý đến hoàn thành đầu tư dở dang tạo ra nguồn cung không
còn phù hợp; huy động và phân bố lại nguồn lực ở vi mô, thay vì chỉ tập trung những tính
toán đơn giản (tín dụng, M2, lãi suất, tổng đầu tư, thâm hụt ngân sách v.v…) ở tầm vĩ mô
v.v… Trọng tâm của các giải pháp tập trung vào thay đổi cơ bản các thể chế để thay đổi,
sửa đổi lại hệ thống động lực thay đổi hành của các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân. Đó
là những giải pháp đổi mới thể chế hạn chế và loại bỏ dư dịa và cơ hội “chạy theo và lợi
dụng các mối quan hệ thân hữu, xin cho để trục lợi”, loại bỏ cơ chế xin – cho, loại bỏ cơ
chế “ngăn cám, hạn chế” tạo nên kém minh bạch và không minh bạch trong tiếp cận các
nguồn lực và cơ hội kinh doanh; phải thay đổi tư duy về vai trò của nhà nước và DNNN,
đổi mới cách thức đổi mới quản trị DNNN, hạn chế và kiểm soát có hiệu quả nguy cơ lạm
dụng vị thế độc quyền hoặc vị thế thống lĩnh thị trường để trục lợi, tạo nên bất bình đẳng
về quyền, cơ hội kinh doanh và thiệt hại về lợi ích đối với các doanh nghiệp thuộc thành
phần kinh tế khác.
Về quản lý đầu tư công, phải thiết lập cơ chế mới về phân bố và sử dụng đầu tư
công. Ngoài việc đổi mới, định vị lại vai trò của đầu tư nhà nước, xác dịnh danh mục lĩnh
vực ưu tiên đầu tư, thì phải thiết lập được cơ chế quản lý đảm bảo các dự án có hiệu quả
kinh tế - xã hội cao nhất trong các lĩnh vực ưu tiên đầu tư sẽ được lựa chọn và thực hiện
234
đầu tư một cách có hiệu quả nhất, hạn chế và khắc phục lối đầu tư phục vụ nhóm lợi ích
với tầm nhìn và tư duy lợi ích nhiệm kỳ và chia cắt; phải thiết lập được hệ thống khuyến
khích hạn chế, thu hẹp tối đa lối đầu tư mang tính đầu cơ, trục lợi; ngắn hạn và chụp giật,
đầu tư bầy đàn, chạy theo các giá trị ảo, “bong bóng thị trường”.
Việc triển khai thực hiện các công việc nói trên là quá trình ít nhất là trung hạn.
Tuy vậy, trước mắt, ngoài ổn định kinh tế vĩ mô, cần tập trung triển khai tái cơ cấu
DNNN, các ngân hàng thương mại và tái cơ cấu đầu tư công theo đề án tương ứng đã
được Thủ tướng phê duyệt với quy mô và cường độ lớn lớn để nhanh chóng mang lại một
số kết quả, cải thiện niềm tin của dân chúng và thị trường về một làn sóng cải cách mới.
Sơ đồ: hệ thống các giải pháp tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế
Ổn định
kinh tế vĩ
mô
Nâng cao
hiệu quả kỹ
thuật
Phát triển
hạ tầng
Thay đổi thể
chế(thị trường
và inclusive)
có liên quan
Thay đổi hệ
thống động
lực
(incentive)
Phân bố lại
nguồn lực xã
hội trên phạm vi
toàn quốc và
toàn bộ nền
kinh tế
Cải thiện
hiệu quả
phân bổ
Phát triển
nguồn nhân
lực
Hệ thống
tín dụng
Đầu tư
công
DNNN
Phân bố, cơ
cấu lại ngành
sản xuất và
dịch vụ
Cơ cấu
kinh tế
hợp
lý, năng
động, nă
ng lực
cạnh
tranh và
tiềm
năng
phát triển
cao hơn
Cơ cấu
vùng
kinh tế
Về cải cách thể chế, cần phải xác định ngay từ đầu một số nguyên tắc chỉ đạo, làm
nền tảng cho những thay đổi cụ thể trong hàng loạt các quy định luật lệ có liên quan. Các
nguyên tắc đó có thể bao gồm:
- Phải bỏ lối tư duy và làm chính sách theo lối “không quản được, thì cấm và hạn
chế”; hoặc soạn thảo, ban hành chính sách một cách tùy tiện, thiếu cơ sở khoa học và
thực tiễn, xa lạ với cuộc sống thường ngày của người dân; dành thuận lợi và sự an toàn
về cơ quan, công chức nhà nước, đẩy khó khăn, rủi ro và chi phí về cho doanh nghiệp và
người dân.
- Giảm chi phí tuân thủ, giảm thuế và phí, chứ không phải tăng thêm; giảm bớt các
quy định, giấy phép và can thiệp hành chính, chứ không phải tăng thêm;
235
- Giảm độc quyền, thống lĩnh thị trường chứ không phải tiếp tục duy trì hiện trạng
hoặc tăng thêm; giảm và bỏ các ưu tiên, ưu đãi hay quyền “đặc biệt” đối với tập đoàn,
công ty nhà nước, chứ không phải duy trì hoặc tăng thêm;
- Tăng mức độ minh bạch, thiết lâp và nâng cao hiệu lực giám sát, cân bằng các lực
lượng thị trường đảm bảo các loại thị trường vận hành có hiệu quả, đúng theo các nguyên
tắc, quy luật của nó;
- Thiết lập hệ thống quản trị quốc gia tương xứng và phù hợp với nền kinh tế thị
trường hiện đại; khắc phục tình trạng tập trung quyền lực quá lớn vào các bộ với thực
trạng “3 trong 1” hay “4 trong 1” như hiện nay.
236
- Xem thêm -