TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN
NGUYỄN THỊ CẨM TÚ
KHẢO SÁT TÌNH HÌNH TỒN LƢU
KHÁNG SINH, HÓA CHẤT VÀ VI SINH CỦA SẢN PHẨM
NUÔI TRỒNG THỦY SẢN VIỆT NAM XUẤT KHẨU
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH CÔNG NGHỆ CHẾ BIẾN THỦY SẢN
2014
„
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN
NGUYỄN THỊ CẨM TÚ
KHẢO SÁT TÌNH HÌNH TỒN LƢU
KHÁNG SINH, HÓA CHẤT VÀ VI SINH CỦA SẢN PHẨM
NUÔI TRỒNG THỦY SẢN VIỆT NAM XUẤT KHẨU
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH CÔNG NGHỆ CHẾ BIẾN THỦY SẢN
CÁN BỘ HƢỚNG DẪN
THS. TRẦN MINH PHÚ
2014
KHẢO SÁT TÌNH HÌNH TỒN LƢU KHÁNG SINH, HÓA CHẤT
VÀ NHIỄM VI SINH CỦA SẢN PHẨM NUÔI TRỒNG THỦY SẢN VIỆT NAM
XUẤT KHẨU
Nguyễn Thị Cẩm Tú và Trần Minh Phú
Khoa Thủy Sản, Trường Đại Học Cần Thơ
ABSTRACT
The objective of this thesis is to investigate the antibiotic, chemical and microbiological
contamination in Vietnamese aquaculture products exported to Europe, US, Japan by
collecting data from the electronic information portal of the European Communities
(RASFF), the USA (U.S.FDA - U.S. Food and Drug Administration), Japan (Ministry of
Healthy, Labour and Welfare) and chemical residue control program in Vietnam. Results
showed that there was a reduction in antibiotic, chemical and microbiology contamination
from the export product alerts by importing countries. An increase on the contamination of
tetracycline and oxytetracyline in shrimp products could be due to the treatment use in
shrimp following Early Mortality Syndrom in shrimp aquaculture. In 2014, eight cases
contamination of oxytetracycline was found in shrimp imported to Japan, seven cases of
oxytetracycline residue in shrimp warned by RASFF (EU) and one case contaminated
enrofloxacin and two cases contaminated chloramphenicol in shrimp found by U.S. FDA.
Morover, residue monitoring control program done by NAFIQUAD showed that four cases
of oxytetracycline and doxycycline contaminated in shrimp, but below the maximum
residue limit. The findings implied that it is urgent need to enhance the training on
chemical use for aquaculture farmer in the prudent way which will prevent the residue of
antimicrobial and chemical in seafood products. Also, strengthening the control of residue
found in fish and shrimp ponds which detected during residue monitoring control program.
Keywords: antimicrobial, aquaculture, chemical, microbial, export, Vietnam.
Title: Investigation of antimicrobial, chemical and microbial contamination in Vietnamese
aquaculture products exported to Europe, US, Japan and domestic market.
TÓM TẮT
Đề tài được thực hiện nhằm mục đích thống kê tình hình nhiễm tồn lưu kháng sinh, hóa
chất và vi sinh vật trên sản phẩm nuôi trồng thủy sản Việt Nam xuất khẩu vào các thị
trường Châu Âu, Mỹ, Nhật và thị trường trong nước bằng phương pháp thu thập số liệu từ
các cổng thông tin điện tử của cộng đồng Châu Âu (RASFF), Mỹ (U.S.FDA), Nhật
(Ministry of Healthy, Labour and Welfare) và chương trình kiểm soát dư lượng của Việt
Nam. Kết quả thống kê cho thấy lượng nhiễm các kháng sinh, hóa chất và vi sinh trên sản
phẩm nuôi trồng thủy sản Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Châu Âu, Mỹ, Nhật và trong
nước có xu hướng giảm. Tuy nhiên các loại kháng sinh như tetracycline, oxytetracyline lại
có số lượng tồn lưu tăng. Từ 2005 đến 2011 không phát hiện trường hợp nhiễm
1
oxytetracyline trên tôm xuất vào Nhật và trên cá tra, tôm xuất vào Châu Âu. Năm 2014, có
8 trường hợp tồn lưu kháng sinh nhóm oxytetracycline trên sản phẩm tôm nhập khẩu vào
thị trường Nhật được phát hiện và 7 trường hợp nhiễm oxytetracycline cảnh báo bởi thị
trường Châu Âu. Sự gia tăng nhiễm các kháng sinh này chủ yếu do người nuôi sử dụng các
loại hóa chất này trong phòng ngừa, điều trị bệnh dịch bệnh tôm chết sớm. Năm 2014, 8
trường hợp tồn lưu kháng sinh nhóm oxytetracycline trên sản phẩm tôm nhập khẩu vào thị
trường Nhật được phát hiện và 7 trường hợp nhiễm oxytetracycline cảnh báo bởi thị
trường Châu Âu. Đồng thời, 1 trường hợp nhiễm enrofloxacin và 2 trường hợp nhiễm
chloramphenicol trên tôm được phát hiện bởi cơ quan FDA, Mỹ trong năm 2014. Thêm
vào đó, kết quả từ chương trình kiểm soát dư lượng của NAFIQUAD cho thấy có 4 trường
hợp tôm nhiễm oxytetracycline, doxycycline nhưng dưới mức giới hạn cho phép. Kết quả
nghiên cứu cho thấy cần thiết phải tăng cường tập huấn, giáo dục, nâng cao ý thức người
nuôi thủy sản trong việc sử dụng hóa chất kháng sinh đúng cách và hiệu quả đồng thời
thực hiện việc quản lý hiệu quả đối với các hộ nuôi cá tôm mà phát hiện tồn lưu kháng
sinh trong quá trình nuôi.
Từ khóa: hóa chất, kháng sinh, thủy sản, xuất khẩu, vi sinh, Việt Nam.
1. GIỚI THIỆU
Diện tích nuôi trồng thủy sản Việt Nam đang ngày càng gia tăng từ 500.000 ha năm 1990
đến hơn 1 triệu ha năm 2013 (Bộ NN&PTNN, 2013). Kim ngạch xuất khẩu năm 2013 đạt
6,7 tỷ USD, trở thành một trong những nước xuất khẩu thủy sản lớn nhất thế giới (VASEP,
2014). Sự phát triển nhanh chóng của nuôi trồng thủy sản đã và đang đối mặt với dịch bệnh
xảy ra. Nhiều loại thuốc và hóa chất được sử dụng nhằm khử trùng nước ao nuôi, phòng và
trị bệnh. Hiện nay có tổng cộng 28 loại kháng sinh được phép sử dụng trong nuôi trồng
thủy sản Việt Nam (BNN&PTNT, 2014). Người nuôi sử dụng kháng sinh để điều trị bệnh
trong nuôi trồng thủy sản và có 5% hộ nuôi sử dụng để phòng bệnh cho thủy sản (Rico et
al.., 2013). Thuốc khử trùng được sử dụng nhiều nhất trong nuôi cá tra chiếm 78% trong
khi có 59% nông dân nuôi tôm của Việt Nam sử dụng thuốc khử trùng bao gồm các loại
hóa chất phổ biến như iodine, benzalkonium chloride, calcium hypochlorite và thuốc tím.
(Rico et al.., 2013). Để điều trị ký sinh trùng, nấm nhiễm trùng có 13 hợp chất được sử
dụng. Đối với các chế phẩm sinh học, có 91% trang trại tôm và 38% người nuôi cá tra sử
dụng nhằm cung cấp chất dinh dưỡng và enzyme tiêu hóa (Bacillus spp. và nấm men), cải
thiện chất lượng nước (Nitrosomonas spp., Nitrobacter spp.) (Rico et al.., 2013). Trong
những năm gần đây, dịch bệnh EMS (Early Mortality Syndrome) xuất hiện ở tôm nên đa
số người nuôi sử dụng các lọai hóa chất và kháng sinh để phòng và điều trị là điều không
thể tránh khỏi. Điều này dẫn đến nguy cơ tồn lưu kháng sinh hóa chất trong sản phẩm nuôi
trồng thủy sản. Năm 2012, Bộ nông Nghiệp ban hành quyết định số 1471/ QĐ- BNNQLCL về việc công bố danh mục các chỉ tiêu hóa học, kháng sinh cần kiểm nghiệm đối với
các lô hàng thủy sản xuất khẩu dựa vào các qui định các nhà nhập khẩu. Đối với các thị
trường nhập khẩu, các loại hóa chất và kháng sinh như malachite green, leucomalachite
green, enrofloxacin, chloramphenicol, các chất chuyển hóa nitrofurans không được phép
tồn lưu trên các sản phẩm thủy sản (Minnistry of Healthy, Labour and Welfare, 2011;
2
U.S.FDA, 2012). Ngoài ra, các loại hóa chất kháng sinh khác như oxytetracycline,
benzalkonium chloride ngày càng được kiểm tra với tần xuất nhiều hơn (Minnistry of
Healthy, Labour and Welfare, 2011; RASFF, 2012). Nhằm thực hiện quản lý sử dụng hóa
chất và tồn lưu hóa chất kháng sinh trong quá trình nuôi trồng thủy sản, Cục Quản Lý Chất
Lượng Thúy Y Thủy Sản (NAFIQUAD) thực hiện chương trình kiểm soát dư lượng hàng
tháng đối với các cơ sở nuôi tôm, cá (NAFIQUAD, 2014).
Sự tồn lưu các kháng sinh, hóa chất và vi sinh vật không những ảnh hưởng đến sức khỏe
người tiêu dùng mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển của nghề nuôi và chế biến thủy sản,
ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của đất nước. Vì vậy, đề tài “Khảo sát tình hình tồn lưu
kháng sinh, hóa chất và vi sinh của sản phẩm nuôi trồng thủy sản Việt Nam xuất khẩu”
được thực hiện là rất cần thiết.
2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Phƣơng pháp thu thập số liệu
Nghiên cứu được thực hiện bằng phương thức thu thập số liệu từ các đơn vị nhập khẩu sản
phẩm thủy sản có nguồn gốc từ Việt Nam.
Đối với thị trường Châu Âu, số liệu được thu thập cho sản phẩm cá tra và tôm trong
khoảng thời gian từ năm 2000 đến năm 2014. Thông tin thu thập bao gồm các cảnh báo
liên quan đến tồn lưu kháng sinh và hóa chất, vi sinh vật trên các sản phẩm này. Nguồn
thông tin từ cổng thông tin điện tử của hệ thống cảnh báo nhanh thực phẩm và thức ăn (the
Rapid
Alert
System
for
Food
and
Feed,
RASFF,
http://ec.europa.eu/food/food/rapidalert/rasff_portal_database_en.htm).
Đối với thị trường Nhật, số liệu thu thập của các sản phẩm thủy sản chủ yếu trong khoảng
giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2014. Thông tin thu thập bao gồm các cảnh báo về tồn lưu
kháng sinh, hóa chất và vi sinh vật trên sản phẩm này. Nguồn thông tin từ cổng thông tin
điện tử của hệ thống của Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi xã hội Nhật Bản (Minnistry of
Healthy,
Labour
and
Welfare,
http://www.mhlw.go.jp/english/topics/importedfoods/index.html).
Đối với thị trường Mỹ, số liệu thu thập cho sản phẩm cá da trơn và tôm trong khoảng giai
đoạn từ năm 2002 đến năm 2014. Thông tin thu thập bao gồm các cảnh báo về tồn lưu
kháng sinh, hóa chất trên các sản phẩm này. Nguồn thông tin từ cổng thông tin điện tử của
Cục Quản lí Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kì (U.S. Food and Drug Administration,
U.S.FDA, http://www.accessdata.fda.gov/cms_ia/importalert_27.html).
Đối với thị trường trong nước, số liệu được thu thập cho sản phẩm cá tra và tôm trong
khoảng thời gian từ năm 2009 đến năm 2014. Thông tin thu thập bao gồm các cảnh báo
liên quan đến tồn lưu kháng sinh và hóa chất, tại các ao nuôi thủy sản, nguyên liệu thủy
sản tại các đại lí, nước ương giống. Nguồn thông tin từ cổng thông tin điện tử của Cục
Quản lí Chất lượng Nông lâm và Thủy sản của Việt Nam (National Agro Forestry –
Fisheries Quality Assurace Department, NAFIQUAD, http://www.nafiqad.gov.vn/dchuong-trinh-giam-sat/a-du-luong).
3
Các chỉ tiêu hóa chất, kháng sinh tồn lƣu trên sản phẩm bao gồm
Thống kê theo phụ lục 1, phụ lục 3 trong Thông tư số 15/2009/TT-BNN và Thông tư số
20/2010/TT-BNNPTNT bổ sung, sửa đổi Thông tư số 15/2009/TT-BNN ngày 17/3/2009
của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT về việc ban hành Danh mục thuốc, hoá chất,
kháng sinh cấm sử dụng, hạn chế sử dụng, cụ thể (bổ sung hoạt chất trifluralin vào Danh
mục hoá chất, kháng sinh cấm sử dụng trong sản xuất, kinh doanh thuỷ sản). Thông tư số
03/2012/TT-BNNPTNT sửa đổi, bổ sung Thông tư số 15/2009/TT-BNN ngày 17/3/2009
của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành Danh mục thuốc, hoá chất, kháng
sinh cấm sử dụng, hạn chế sử dụng (đưa các chất cypermethrim, celtamethrin và
enrofloxacin ra khỏi Danh mục hoá chất, kháng sinh hạn chế sử dụng trong sản xuất, kinh
doanh thuỷ sản, bổ sung các chất cypermethrin, deltamethrin và enrofloxacin vào Danh
mục hoá chất, kháng sinh cấm sử dụng trong sản xuất, kinh doanh thuỷ sản).
Các chỉ tiêu vi sinh vật tồn lƣu trên sản phẩm bao gồm
-
Tổng vi sinh vật hiếu khí.
-
Tổng số Coliform.
-
Echerichia coli.
-
Staphylococus aureus.
-
Salmonella spp.,.
-
Shigella.
-
Vibrio spp.,.
-
Listeria spp.
-
Sulphite reducing anaerobes.
2.3. Phƣơng pháp đánh giá số liệu
Số liệu được xử lý bằng thống kê mô tả, sử dụng phần mềm Microsoft Excel 2010.
3. KẾT QUẢ
3.1 Tình hình nhiễm tồn lƣu kháng sinh, hóa chất và vi sinh của cá tra và tôm Việt
Nam xuất khẩu vào thị trƣờng Châu Âu từ năm 2000 đến năm 2014.
Kết quả thống kê tình nhiễm kháng sinh, hóa chất và vi sinh trên các sản phẩm tôm và cá
tra của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Châu Âu theo báo cáo của hệ thống cảnh báo
nhanh về thức ăn và thực phẩm của EU (RASFF) được trình bày ở Hình 1, Hình 2, Hình 3
và Hình 4.
4
Số lƣợt cảnh báo
Oxytetraxycline
40
cefalexin
35
30
Sulfadiazine
25
sulphite
20
trifluralin
15
10
nitrofuran metabolites
(AOZ, AMOZ, AHD,
SEM)
5
tetraxycline
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
0
Năm
chloramphenicol
Hình 1. Biểu đồ thống kê tình hình nhiễm tồn lƣu kháng sinh và hóa chất trên sản
phẩm tôm của Việt Nam xuất khẩu vào Châu Âu từ năm 2000 đến năm 2014. (Nguồn:
the
Rapid
Alert
System
for
Food
and
http://ec.europa.eu/food/food/rapidalert/rasff_portal_database_en.htm).
Feed,
RASFF,
Tồn lưu kháng sinh và hóa chất nhiễm trên tôm Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Châu
Âu có xu hướng giảm, phổ biến nhất là chloramphenicol, nitrofuran, quinolone, trifluralin,
oxytetracycline (Hình 1). Năm 2002, có 18 lượt nhiễm chloramphenicol, 16 lượt bị nhiễm
nitrofuran trên tôm. Tuy nhiên trong những năm gần đây số lượng nhiễm chloramphenicol
và nitrofuran ở tôm có xu hướng giảm đáng kể. Bên cạnh đó, từ năm 2012 đến 2014 thì
nhóm oxytetracycline, sunfadiazine và sulphite lại có số lượt nhiễm tăng dần và đang
được chú ý. Trong năm 2013 có 2 trường hợp nhiễm oxytetracyline và năm 2014 có 7 lượt
tôm bị nhiễm.
5
30
Số lƣợt cảnh
báo
chlorpyriphos
neomycin
25
malachite green and
leucomalachite green
20
doxycycline
15
quinolone
(enrofloxacin, ciprofloxac
in)
ivermectin
10
trifluralin
5
nitrofuran metabolites
2014
2013
2012
2011
2010
2009
2008
2007
2006
2005
2004
2003
2002
2001
2000
0
Năm
Hình 2. Biểu đồ thống kê tình hình nhiễm tồn lƣu kháng sinh và hóa chất trên sản
phẩm cá tra Việt Nam xuất khẩu vào thị trƣờng Châu Âu từ năm 2000 đến năm 2014.
(Nguồn:
the
Rapid
Alert
System
for
Food
and
http://ec.europa.eu/food/food/rapidalert/rasff_portal_database_en.htm).
Feed,
RASFF,
Các loại hóa chất, kháng sinh vi phạm trong sản phẩm cá tra Việt Nam xuất khẩu vào thị
trường Châu Âu như là: chloramphenicol, ivemectin, doxycyline, nitrofuran, quinolone,
trifluralin, machite green và leucomalachite green, neomycin, chlopyriphos. Trong đó, từ
năm 2003 đến năm 2006 thì nhóm kháng sinh hóa chất nhiễm phổ biến là chloramphenicol
tổng cộng 5 lượt bị nhiễm, quinolone có tổng cộng 6 lượt nhiễm. Năm 2011, có 5 mẫu bị
nhiễm nitrofuran. Từ năm 2012 đến năm 2014, không có phát hiện trường hợp cảnh báo
nhiễm kháng sinh và hóa chất trên cá tra. Tuy nhiên, trong năm 2014, có 2 trường hợp
nhiễm trimethoprim trên cá rô phi và 1 trường hợp nhiễm sufadiazin trên tôm nhập khẩu
vào thị trường Châu Âu.
6
Số lƣợt cảnh báo
sulphite reducing anaerobes
10
listeria monocytogenes
9
salmonella Newport
8
salmonella Welshimeri
(3,10:r:z6)
salmonella spp
7
6
samonella vichow
5
Salmonella Weltevreden
4
Salmonella Kentucky
3
1
vibrio cholerae (NON
O:1/NON O:139)
vibrio vinificus
0
vibrio parahaemolyticus
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2
Năm
Hình 3. Kết quả thống kê tình hình nhiễm vi sinh trên sản phẩm tôm Việt Nam xuất
khẩu vào thị trƣờng Châu Âu từ năm 2000 đến năm 2014. (Nguồn: the Rapid Alert
System
for
Food
and
Feed,
http://ec.europa.eu/food/food/rapidalert/rasff_portal_database_en.htm).
Số lƣợt cảnh báo
35
RASFF,
aerobic mesophiles
escherichia coli
30
nnterobacteriaceae
listeria monocytogenes
25
listeria spp
coagulase-positive
Staphylococcus
staphylococcal
enterotoxin A
salmonella Newport
20
15
salmonella welshimeri
10
salmonella spp
salmonella nottingham
5
salmonella Weltevreden
salmonella enteritidis
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
0
vibrio cholerae
(O:1/NON O:139)
Năm
Hình 4. Kết quả thống kê tình hình nhiễm vi sinh trên sản phẩm cá tra Việt Nam xuất
khẩu vào thị trƣờng Châu Âu từ năm 2000 đến năm 2014. (Nguồn: the Rapid Alert
System
for
Food
and
Feed,
http://ec.europa.eu/food/food/rapidalert/rasff_portal_database_en.htm).
7
RASFF,
Qua số liệu thống kê ở các Hình 3 và Hình 4 cho thấy tình hình nhiễm vi sinh của tôm, cá
tra Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Châu Âu có xu hướng giảm từ năm 2000 đến năm
2014. Các loại vi sinh vật thường nhiễm vào sản phẩm tôm, cá tra như là Vibrio vinificus,
Vibrio cholerae, Vibrio parahaemolyticus, Samonella kentuckey, Samonella Welteverden,
Samonella wichow, Samonella spp, Samonella Welshimeri, Samonella Newport, Listeria
monocytogenes, E. Coli, Sulphite reducing ganaerobaes. Trong đó nhóm Vibrio spp có số
lượng nhiễm đáng kể ở giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2005. Năm 2013, không phát hiện
trường hợp nhiễm nhóm vi khuẩn Vibrio spp trên cá xuất khẩu vào thị trường Châu Âu.
Nhóm Samonella có số lượng nhiễm không cao, năm 2013 vẫn phát hiện 2 trường hợp
nhiễm Samonella Newport và Samonella Welteverden trên tôm xuất khẩu vào Châu Âu.
3.2 Tình hình nhiễm tồn lƣu kháng sinh, hóa chất của cá tra và tôm của Việt Nam
xuất khẩu vào thị trƣờng Mỹ từ năm 2002 đến năm 2014.
Kết quả thống kê tình hình nhiễm kháng sinh, hóa chất trên các sản phẩm cá tra và tôm của
Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ theo báo cáo của Cục quản lí thực phẩm và dược
phẩm Hoa Kì (U.S.FDA) được trình bày ở Bảng 1.
Bảng 1. Kết quả thống kê tình hình nhiễm tồn lƣu kháng sinh, hóa chất trên sản
phẩm cá tra và tôm của Việt Nam xuất khẩu vào thị trƣờng Mỹ từ năm 2002 đến
2014.
Hóa chất
Enrofloxacin
Năm
Cá tra
2002
2004
2005
2009
2010
2012
2013
2014
2
1
-
Chloramphenicol
Tôm
Tôm
1
1
1
1
1
1
1
2
(Nguồn:
U.S.
Food
and
Drug
http://www.accessdata.fda.gov/cms_ia/importalert_27.html).
Administration,
U.S.FDA,
Tình hình nhiễm tồn lưu kháng sinh và hóa chất trên cá tra và tôm xuất khẩu vào thị trường
Mỹ từ năm 2002 đến năm 2014 có xu hướng thấp. Năm 2013 có 1 trường hợp nhiễm
chloramphenicol trên tôm và trong năm 2014 có 2 trường hợp nhiễm chloramphenicol và 1
trường hợp nhiễm enrofloxacin trên tôm.
8
3.3 Tình hình nhiễm tồn lƣu kháng sinh, hóa chất và vi sinh vật trên tôm của Việt
Nam xuất khẩu vào thị trƣờng Nhật từ năm 2006 đến năm 2014.
Kết quả thống kê tình hình nhiễm tồn lưu kháng sinh, hóa chất và vi sinh trên sản phẩm
tôm của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Nhật được trình bày ở Bảng 2 và Bảng 3.
Bảng 2. Kết quả thống kê tình hình nhiễm tồn lƣu kháng sinh và hóa chất trên sản
phẩm tôm của Việt Nam xuất khẩu vào thị trƣờng Nhật từ năm 2006 đến năm 2014.
Năm
Hóa chất
Oxytetraxycline
Chloramphenicol
Trifluralin
Quinolone
(enro/cipro)
Sodium sulfite
Nitrofuran metabolite
(AOZ, SEM,
AMOZ,…)
Ethoxyquin
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
24
-
48
-
21
-
12
-
16
29
-
7
32
61
8
4
37
4
1
20
8
1
1
2
37
16
7
6
2
5
2
1
2
-
-
-
-
-
-
17
5
-
(Nguồn:
Minnistry
of
Healthy,
Labour
http://www.mhlw.go.jp/english/topics/importedfoods/index.html).
and
Welfare,
Lượng tồn lưu kháng sinh và hóa chất nhiễm trên tôm xuất khẩu vào thi trường Nhật có xu
hướng giảm từ năm 2006 đến năm 2014. Các loại kháng sinh hóa chất kiểm tra phổ biến
như chloramphenicol, oxytetracycline, các chuyển hóa của nitrofuran, trifluralin,
ethoxyquin. Trong khoảng từ năm 2006 đến 2014 số lượng sản phẩm tôm bị nhiễm
chloramphenicol, nitrofuran là khá phổ biến và số lượng nhiễm đáng chú ý. Năm 2007, có
48 lượt nhiễm chloramphenicol, 37 lượt nhiễm nitrofuran bị phát hiện trên tôm. Bên cạnh
đó, những năm gần đây từ năm 2012 đến 2014 thì nhóm oxytetracycline, ethoxyquin và
trifluralin, quinolone lại có số lượt nhiễm tăng dần. Năm 2012 số lượng nhiễm quinolone là
37 lượt và ethoxyquin có 17 trường hợp. Nửa đầu năm 2014 có 8 trường hợp nhiễm
oxytetracyline, 2 trường hợp phát hiện tồn lưu chất chuyển hóa của nitrofuran và 1 trường
hợp tồn lưu enrofloxacin và 1 trường hợp tồn lưu chloramphenicol. Như vậy, sản phẩm
tôm nhập khẩu vào Nhật có số lượng nhiễm oxytetracycline tăng dần thay thế cho tồn lưu
enrofloxacin.
Tình hình nhiễm vi sinh của tôm Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Nhật có xu hướng
giảm từ năm 2006 đến năm 2014 (Bảng 3). Các loại vi sinh vật thường nhiễm vào sản
phẩm tôm như là E. Coli, Total bacteria, Coliform bacteria. Trong đó loại E. Coli có số
lượng nhiễm khá cao trong giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2013, tuy nhiên số lượng
nhiễm giảm dần. Năm 2007 có 11trường hợp đến năm 2013 có 3 trường hợp nhiễm E.coli.
9
Nhóm Coliform bacteria có số lượng nhiễm không cao, tuy nhiên nó khá phổ biến, năm
2014 vẫn phát hiện 1 trường hợp nhiễm.
Bảng 3. Kết quả thống kê tình hình nhiễm vi sinh vật trên sản phẩm tôm của Việt
Nam xuất khẩu vào thị trƣờng Nhật từ năm 2006 đến năm 2014.
Năm
Vi sinh vật
E. coli
Total bacteria
Coliform bacteria
2006
2007
2008
5
2
11
1
1
1
3
2009 2010 2011
2
3
1
3
4
1
(Nguồn:
Minnistry
of
Healthy,
Labour
http://www.mhlw.go.jp/english/topics/importedfoods/index.html).
2
3
1
2012
2013
2014
3
1
1
3
3
-
1
and
Welfare,
3.4 Kết quả chƣơng trình kiểm soát dƣ lƣợng kháng sinh và hóa chất ở các cơ sở
nuôi thủy sản ở Việt Nam từ năm 2009 đến năm 2014.
Kết quả thống kê tình hình nhiễm kháng sinh, hóa chất trên tôm và cá tra các vùng nuôi
trồng ở trong nước theo kiểm soát của NAFIQUAD (Cục Quản Lý Chất Lượng Nông Lâm
Sản Và Thủy Sản) được trình bày ở Bảng 4 và Bảng 5.
Kết quả kiểm tra của NAFIQUAD trình bày ở Bảng 4 và Bảng 5 cho thấy lượng kháng
sinh và hóa chất nhiễm trên cá, tôm ở các ao nuôi, nguyên liệu thủy sản tại đại lý, nước
ương tôm, cá giống có xu hướng giảm từ năm 2009 đến năm 2014. Đối với nhóm kim loại
nặng, thuốc trừ sâu gốc Chlor hữu cơ (Endrin, Chlor dance, Lin dan, DDT, HCB…), kết
quả kiểm soát cho thấy có sự giảm mạnh từ năm 2009 đến năm 2014. Năm 2009 đến 2012,
có 4 trường hợp nhiễm kim loại nặng được phát hiện nhưng đều dưới mức giới hạn cho
phép. Từ năm 2013 đến 2014, không có phát hiện mẫu tôm nhiễm kim loại nặng. Tuy
nhiên, năm 2013 phát hiện 2 trường hợp cua thương phẩm, 4 trường hợp cá rô phi nhiễm
kim loại nặng vượt mức giới hạn cho phép. Năm 2014 có 3 trường hợp tôm bị nhiễm thuốc
trừ sâu gốc chlor nhưng dưới mức cảnh báo. Nhóm dư lượng kháng sinh, hóa chất hạn chế
sử dụng (tetracycline, oxytetracycline, sulfonamides, trimethoprim) nhìn chung từ năm
2009 đến năm 2014 tình hình tôm, cá tra nhiễm nhóm chất này khá phổ biến nhưng số
lượng không cao. Năm 2009 phát hiện có 3 trường hợp nhiễm sulfonamides (1 mẫu tôm, 2
mẫu cá tra), năm 2014 vẫn còn 1 trường hợp nhiễm sulfonamides trên tôm. Tồn lưu
oxytetracyclin và tetracycline trên cá, tôm phổ biến trong giai đoạn năm 2012 đến năm
2013. Năm 2012 có 2 trường hợp nhiễm oxytetraxycline trên cá tra và không có phát hiện
nhiễm trên mẫu tôm phân tích, năm 2013 phát hiện 4 mẫu nhiễm tetracycline (1 mẫu cá và
3 mẫu tôm). Năm 2014 có 4 mẫu tôm thẻ chân trắng nhiễm oxytetracycline, doxycyline
nhưng đều dưới mức giới hạn cho phép. Năm 2014 phát hiện 1 mẫu cá rô phi đỏ nhiễm
trimethoprim vượt mức giới hạn cho phép.
10
Bảng 4. Kết quả thống kê tình hình nhiễm tồn lƣu kháng sinh và hóa chất trên tôm
của Việt Nam theo kết quả kiểm soát của NAFIQUAD từ năm 2009 đến năm 2014.
Năm
Tên hóa chất, kháng sinh
2009
2010
2011
2012
2013
2014
1
3
1
5
10
1
1
3
1
2
1
1
4
-
-
1
1
2
1
-
1
1
1
-
1
2
1
1
1
1
1
-
Kim loại nặng (Hg, Cd, pb)
Chloramphenicol
Tetracycline
Nitrofuran metabolites (AOZ, AMOZ,
AHD, SEM)
Trifluralin
Malachite green and leucomalachite green
Trichlorfom
Sulfonamides
Quinolones (enrofloxaxin+cipro)
(Nguồn: National Agro Forestry – Fisheries Quality Assurace Department, NAFIQUAD,
http://www.nafiqad.gov.vn/d-chuong-trinh-giam-sat/a-du-luong).
Đối với tồn lưu enrofloxacin và ciprofloxacin, năm 2009 có 3 trường hợp nhiễm (1 mẫu
tôm, 2 mẫu cá tra), số lượng nhiễm có xu hướng tăng. Trong năm 2012 phát hiện 1 mẫu cá
tra, 1 mẫu cá rô phi bị nhiễm nhưng dưới mức giới hạn cho phép và có 2 trường hợp nhễm
enrofloxacin + ciprofloxacin vượt mức giới hạn cho phép (1 mẫu cá lóc thương phẩm, năm
2012 và 1 mẫu cá rô thương phẩm, năm 2013). Năm 2013 vẫn phát hiện 7 trường hợp
nhiễm enrofloxacin (1 mẫu tôm, 6 mẫu cá tra). Đầu năm 2014, một trường hợp nhiễm
quinolone trên mẫu cá tra thương phẩm bị phát hiện (enro 499,8 + cipro 10,02).
Bảng 5. Kết quả thống kê tình hình nhiễm kháng sinh, hóa chất trên cá tra Việt Nam
theo kết quả kiểm soát của NAFIQUAD từ năm 2009 đến năm 2014.
Năm
Tên hóa chất, kháng sinh
Chloramphenicol
Tetracycline, Oxyteracycine
Nitrofuran metabolites (AOZ, AMOZ,
AHD, SEM)
Trifluralin
Malachite green and leucomalachite
green
Sulfonamides
Quinolones (enrofloxaxin+cipro)
2009
2010
2011
2012
2013
2014
5
-
-
-
2
1
-
-
1
1
-
-
-
-
-
7
-
1
-
1
-
2
2
1
4
3
1
6
1
(Nguồn: National Agro Forestry – Fisheries Quality Assurace Department, NAFIQUAD,
http://www.nafiqad.gov.vn/d-chuong-trinh-giam-sat/a-du-luong).
11
Đối với nhóm dư lượng kháng sinh hóa chất cấm sử dụng (chloramphenicol, nitrofuran,
trifluralin, trichlofon, malachite green, leucomalachite green) tình hình thủy sản nhiễm
nhóm chất này có xu hướng giảm rõ rệt qua từng năm. Tình hình cá tra và tôm nhiễm
chloramphenicol có xu hướng giảm đáng kể, năm 2009 phát hiện 5 mẫu cá tra phân tích bị
nhiễm và không có phát hiện trên mẫu tôm thương phẩm mà chỉ phát hiện 2 mẫu nước
nuôi tôm giống bị nhiễm. Năm 2010 có 3 mẫu tôm sú thương phẩm, và 10 mẫu nước nuôi
tôm giống bị nhiễm chloramphenicol. Năm 2013, phát hiện có 9 mẫu nước nuôi tôm giống
và 1 mẫu tôm thương phẩm bị nhiễm. Những tháng đầu năm 2014 không phát hiện mẫu
phân tích bị nhiễm chloramphenicol. Đối với các chất chuyển hóa của nitrofuran (AOZ,
AMOZ, AHD và SEM), trong năm 2009 có 3 mẫu tôm càng xanh, 4 mẫu cua vỏ mềm
nhiễm SEM. Năm 2010 có 11 trường hợp (1 mẫu cá tra, 10 mẫu tôm) bị nhiễm nitrofuran.
Năm 2011 có 3 mẫu tôm, 1 mẫu cá bị nhiễm đến năm 2012 chỉ phát hiện 1 mẫu tôm bị
nhiễm nitrofuran. Năm 2013 và 2014 không có phát hiện trường hợp nhiễm nitrofuran trên
thủy sản. Đối với tồn lưu trifluralin số lượng nhiễm cũng giảm đáng kể. Năm 2010 có 17
mẫu cá trê, 2 mẫu cá rô phi, 1 mẫu cá lóc, 2 mẫu tôm bị nhiễm. Năm 2011 phát hiện 1 mẫu
tôm, 7 mẫu cá tra bị nhiễm. Năm 2012 phát hiện 3 mẫu tôm 1, 1 mẫu cá tra bị nhiễm. Đến
năm 2013 và 2014 không có phát hiện trường hợp thủy sản bị nhiễm. Malachite green và
leucomalachite green phát hiện 2 trường hợp tôm thẻ bị nhiễm và 1 trường hợp cá tra bị
nhiễm trong năm 2013 và năm 2014. Năm 2013 phát hiện 1 mẫu cá rô phi nhiễm
methyltestosterone vượt mức giới hạn cho phép.
4.
THẢO LUẬN
Nhìn chung tình hình nhiễm, tồn lưu các loại hóa chất, kháng sinh trên sản phẩm thủy sản
Việt Nam xuất khẩu vào các thị trường Mỹ, Nhật, EU có xu hướng giảm qua từng năm.
Tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế về việc người nuôi lạm dụng tetracycline, trimethoprim,
sulfonamides, quinolone, đặc biệt là oxytetracycline sử dụng trên tôm. Từ năm 2010,
người nuôi tôm đối mặt với dịch bệnh tôm chết sớm (Early Mortality Syndrome, EMS) gây
ra bởi vi khuẩn Vibrio parahemolyticus bị nhiễm bởi phage virus sinh ra độc tính làm chết
tôm hàng loạt (Lighner et al., 2012, Tran et al., 2013). Người nuôi tôm đã sử dụng các loại
kháng sinh và hóa chất diệt khuẩn để kiểm soát chất lượng nước ao nuôi và phòng ngừa,
các loài vi khuẩn gây bệnh thuộc nhóm vibrio không chỉ ở Việt Nam mà còn các nước
Đông Nam Á khác như Thái Lan, Trung Quốc (Rico et al., 2013). Sự tồn lưu kháng sinh
nhóm oxytetracycline (8 trường hợp, năm 2014) và enrofloxacin (20 trường hợp) trên sản
phẩm tôm nhập khẩu vào thị trường Nhật năm 2013 (Bảng 2) và oxytetracycline (7 trường
hợp, năm 2014) cảnh báo bởi thị trường Châu Âu có liên hệ chặt chẻ với việc sử dụng
kháng sinh trong quá trình nuôi. Vì lý do này, cơ quan quản lý Nhật quyết định tăng cường
kiểm soát 100% tôm nhập khẩu đối với chỉ tiêu trifluralin từ ngày 21/10/2010 và từ
9/6/2011, Nhật áp dụng kiểm tra dư lượng chất enrofloxacin đối với 100% các lô tôm nhập
khẩu từ Việt Nam. Trong khi đó, ngày 18/5/2012, Nhật đột ngột quyết định kiểm tra
ethoxyquin đối với 100% số lô tôm nhập khẩu từ Việt Nam đến ngày 21/1/2014 thì dừng
việc kiểm soát dư lượng e thoxyquin của tôm Việt Nam xu ất khẩu sang nước này đ ồng
thời, cơ quan quản lý Nhật nâng mức dư lượng ethoxyquin cho phép trong tôm nhập khẩu
12
vào nước này từ 0,01 ppm lên mức 0,2 ppm (VASEP, 2014). Đối với tồn lưu
oxytetracycline, Nhật đã bắt đầu kiểm tra chỉ tiêu oxytetracyline với 100% lô tôm nhập
khẩu từ Việt Nam từ tuần đầu tháng 3/2014. Thông tin trên đã được văn phòng VASEP
kiểm tra từ đại diện các nhà nhập khẩu Nhật Bản tại website của cơ quan có thẩm quyền
của Nhật (Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi xã hội Nhật Bản - Minnistry of Healthy, Labour
and Welfare, 2014), theo đó thì mặt hàng tôm Việt Nam được nhận diện và chỉ định kiểm
soát trong chương trình hàng năm với 2 chất kháng sinh chloramphenicol (từ 21/2/2014)
và oxytetracycline (từ 27/2/2014), (VASEP, 2014). Về phía cơ quan quản lý chất lượng
của Việt Nam, Bộ Nông Nghiệp cũng đã ban hành Quyết Định số 1471/ QĐ- BNN-QLCL
ngày 20 tháng 6 năm 2012 về danh mục các chỉ tiêu hóa học, kháng sinh cần kiểm nghiệm
đối với các lô hàng thủy sản xuất khẩu dựa vào qui định của các nhà nhập khẩu. Nhằm tăng
cường quản lý tồn lưu kháng sinh hóa chất trong sản phẩm thủy sản xuất khẩu, Bộ Nông
Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn cũng đã ban hành cập nhật các quy định về thuốc và hóa
chất cấm và hạn chế sử dụng trong nuôi trồng thủy sản như Quyết Định 26/2005/QĐ-BTS
và Thông Tư số 15/2009/TT-BNN về việc ban hành danh mục hoá chất, kháng sinh cấm sử
dụng trong sản xuất, kinh doanh thuỷ sản, Thông Tư số 20/2010/TT-BNNPTNT và Thông
Tư số 03/2012/TT-BNNPTNT sửa đổi, bổ sung các chất như trifluralin, cypermethrim,
celtamethrin và enrofloxacin vào danh mục hoá chất, kháng sinh cấm sử dụng trong sản
xuất, kinh doanh thuỷ sản.
Đối với sản phẩm cá tra, cảnh báo tồn lưu kháng sinh và hóa chất từ các thị trường nhập
khẩu đã giảm đáng kể, đặc biệt từ năm 2012 đến giữa năm 2014, không có trường hợp
cảnh báo từ thị trường Châu Âu. Tuy nhiên vẫn còn 1 trường hợp nhiễm enrofloxacin trên
cá tra và 3 chloramphenicol trên tôm được phát hiện bởi cơ quan FDA, Mỹ trong năm
2013 và 2014 (Bảng 1). Điều này cho thấy việc sử dụng kháng sinh cấm như enrofloxacin
trong nuôi cá tra vẫn còn tiếp diễn dù enrofloxacin đã bị cấm sử dụng trong nuôi thủy sản ở
Việt Nam từ năm 2012 (thông tư số 03/2012/TT-BNNPTNT). Sự khác biệt về cảnh báo
enrofloxacin ở thị trường Châu Âu và Mỹ chủ yếu là do giới hạn cho phép tồn lưu tổng
enrofloxacin và ciprofloxacin của thị trường Châu Âu là 100 µg/kg trong khi thị trường
Mỹ, FDA không cho phép tồn lưu và giới hạn của phương pháp phân tích là 5 µg/kg (Love
et al., 2011). Châu Âu và Mỹ kiểm tra tổng enrofloxacin và ciprofloxacin vì khi cho tôm,
cá ăn enrofloxacin, enrofloxacin sẽ chuyển hóa tạo thành ciprofloxacin trong cơ thịt cá
(Danyi et al., 2010). Thêm vào đó, theo quy định của Việt Nam, ciprofloxacin vẫn còn cho
phép sử dụng trong nuôi trồng thủy sản.
Trong vòng 6 năm từ 2009 đến 2014, ta thấy được hệ thống kiểm tra chất lượng của
NAFIQUAD hoạt động mạnh và hiệu quả rõ rệt hơn, hoạt động lấy mẫu, kiểm tra hàng
tháng theo vùng nuôi của cũng mang lại hiệu quả đáng kể có thể nắm được tình hình sử
dụng thuốc, hóa chất của người dân cũng nhưng tình hình dịch bệnh của từng khu vực, từ
đó đưa ra biện pháp khắc phục, kiểm soát hiệu quả nhất nếu như có trường hợp lạm dụng
hóa chất, kháng sinh cấm trong chăn nuôi thủy sản. Số liệu thống kê cho thấy hệ thống
cảnh báo của NAFIQUAD đã bám sát hơn về số lượng, tình hình sử dụng hóa chất, kháng
sinh của các ao nuôi thủy sản trong nước.
13
Tồn lưu trifluralin không còn phát hiện nhiễm trên tôm, cá vào năm 2013 và 2014 cho thấy
người nuôi đã không còn sử dụng loại hóa chất này, tuân thủ quy định của Bộ Nông
Nghiệp năm 2010 về việc cấm sử dụng trifluralin trong nuôi trồng thủy sản. Đối với các
loại kháng sinh cấm sử dụng như chloramphenicol và nitrofuran, mặc dù có xu hướng giảm
nhưng vẫn còn phát hiện một số trường hợp nhiễm trong quá trình nuôi tôm cá. Theo khảo
sát của Rico et al. (2013) người nuôi cá tôm ở Việt Nam không sử dụng chloramphenicol
và chuyển hóa nitrofuran trong quá trình nuôi. Vì vậy việc tồn lưu các loại kháng sinh cấm
này có thể từ các nguồn khác như thức ăn, chế phẩm dinh dưỡng, hóa chất, thuốc kháng
sinh…
Tồn lưu oxytetracycline, doxycycline và các loại kháng sinh hạn chế sử dụng khác được
phát hiện trên các loài cá tôm nuôi cho thấy người nuôi chưa tuân thủ quy trình sử dụng
thuốc hóa chất, thời gian cách ly sử dụng thuốc trước khi bán sản phẩm chưa tuân theo chỉ
dẫn của nhà sản xuất. Việc sử dụng thuốc hóa chất trong điều trị bênh tôm cá là điều không
thể tránh khỏi tuy nhiên, việc sử dụng thuốc và hóa chất không đúng cách sẽ dẫn đến nguy
cơ tồn lưu kháng sinh trong sản phẩm thủy sản xuất khẩu cũng như tiêu dùng nội địa. Theo
Phu et al. (2013) cá rô phi nuôi bè khi xuất bán cho thị trường nội địa thì không có kiểm
tra tồn lưu kháng sinh trong khi cá xuất khẩu thì 100% sản phẩm được kiểm tra kháng sinh
trước khi thu hoạch và xuất khẩu. Điều này dẫn đến mối nguy người sử dụng sản phẩm nội
địa sẽ sử dụng các sản phẩm tôm cá có tồn lưu kháng sinh và hóa chất.
Chương trình quản lý sử dụng thuốc hóa chất và tồn lưu kháng sinh của NAFIQUAD mặc
dù thực hiện tương đối hiệu quả tuy nhiên số lượng mẫu kiểm soát tương đối ít (khoảng
120 mẫu/tháng cho 15 tỉnh, thành phố phía Nam). Trong trường hợp có phát hiện trường
hợp nhiễm kháng sinh, hóa chất thông báo được gửi cho cơ quan kiểm soát chất lượng thủy
sản ở địa phương để tìm biện pháp khắc phục hiệu quả, đồng thời theo dõi, kiểm soát khu
vực ao nuôi đó, không thu mua chế biến nguyên liệu có nguồn gốc từ cơ sở nuôi bị phát
hiện có dư lượng quá mức cho phép. Trường hợp đã thu mua, sơ chế, chế biến cần cô lập
hàng lấy mẫu gửi phòng kiểm nghiệm Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn chỉ định
kiểm tra chỉ tiêu đã phát hiện, chỉ được xuất lô hàng khi kết quả kiểm tra tăng cường đúng
yêu cầu. Tuy nhiên, cần thiết phải tăng cường việc giám sát thực hiện cơ sở nuôi bị nhiễm
nhằm tăng hiệu quả quản lý tồn lưu kháng sinh hóa chất trên sản phẩm thủy sản không chỉ
cho xuất khẩu mà còn tiêu dùng nội địa.
Tình hình nhiễm vi sinh trên sản phẩm tôm và cá tra của Việt Nam xuất khẩu vào Châu Âu
và sản phẩm tôm xuất khẩu vào thị trường Nhật có xu hướng giảm đáng kể từ năm 2000
đến 2014 đối với thị trường Châu Âu và từ năm 2006 đến 2014 đối với tôm xuất vào Nhật.
Qua kết quả thống kê cho thấy có những biến đổi tích cực về việc kiểm soát tình trạng
nhiễm vi sinh vật trên thủy sản Việt Nam. Các loại vi sinh phát hiện nhiễm phổ biến
Samonella spp., Vibrio spp., Listeria, E. coli và Total bacteria, Coliform bacteria trên sản
phẩm tôm. E. coli , Samonnella trên cá tra. Nửa đầu năm 2014 không tìm thấy trường hợp
nhiễm vi sinh trên tôm và cá tra xuất khẩu vào Châu Âu, tuy nhiên vẫn còn 1 trường hợp
nhiễm Coliform bacteria trên sản phẩm tôm xuất vào Nhật, nhưng đã giảm nhiều so với
những năm trước đó. Điều này cho thấy nguồn vi sinh nhiễm vào sản phẩm do nguyên liệu
14
sau khi thu hoạch sẽ được chuyển vào các nhà máy chế biến, sản phẩm bị nhiễm vi sinh
trong quá trình chế biến chủ yếu là nguồn vi sinh vật hiện hữu trong nhà máy chế biến
(Uddin et al., 2013). Khi cá, tôm vào nhà máy chế biến, sản phẩm sẽ được rửa bằng các
hóa chất oxy hóa mạnh, diệt khuẩn (các hợp chất của chlorine) nhằm tiêu diệt vi sinh vật
trên nguyên liệu. Vì vậy, qua quá trình chế biến, sản phẩm tiếp xúc với dụng cụ, thiết bị,
con người mà đó là các nguyên nhân chính làm sản phẩm bị nhiễm sau khi chế biến và
xuất khẩu. Trong quá trình cấp đông và bao gói bảo quản, công đoạn này thực sự chưa có
quy trình kiểm soát vi sinh hiệu quả mà khả năng lây nhiễm vi sinh vào sản phẩm cao.
5. KẾT LUẬN
Quá trình thống kê cho thấy lượng nhiễm các kháng sinh, hóa chất và vi sinh trên sản phẩm
nuôi trồng thủy sản Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Châu Âu, Mỹ, Nhật và trong nước
có xu hướng giảm. Tuy nhiên các loại kháng sinh như tetracycline, oxytetracyline lại có số
lượng tồn lưu tăng, chủ yếu do người nuôi sử dụng các loại hóa chất này trong phòng ngừa,
điều trị bệnh dịch bệnh tôm chết sớm. Năm 2014, 8 trường hợp tồn lưu kháng sinh nhóm
oxytetracycline trên sản phẩm tôm nhập khẩu vào thị trường Nhật được phát hiện và 7
trường hợp nhiễm oxytetracycline cảnh báo bởi thị trường Châu Âu. Đồng thời, 1 trường
hợp nhiễm enrofloxacin và 2 trường hợp nhiễm chloramphenicol trên tôm được phát hiện
bởi cơ quan FDA, Mỹ trong năm 2014. Thêm vào đó, kết quả từ chương trình kiểm soát dư
lượng của NAFIQUAD cho thấy có 4 trường hợp tôm nhiễm oxytetracycline, doxycycline
nhưng dưới mức giới hạn cho phép.
6. ĐỀ XUẤT
Tăng cường tập huấn, giáo dục, nâng cao ý thức của người nuôi thủy sản trong việc sử
dụng hóa chất kháng sinh đúng cách và hiệu quả. Tuyên truyền rộng rãi các văn bản liên
quan đến sử dụng thuốc hóa chất đến người nuôi cá tôm và thực hiện việc quản lý hiệu quả
đối với các hộ nuôi cá tôm mà phát hiện tồn lưu kháng sinh trong quá trình nuôi.
Thực hiện khảo sát tình hình nhiễm vi sinh ở nhà máy chế biến nhằm cung cấp thông tin về
hiện trạng và đề ra giải pháp quản lý nguồn nhiễm vi sinh trong nhà máy chế biến mà chủ
yếu góp phần làm nhiễm vi sinh trên sản phẩm xuất khẩu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2009. Thông tư số 15/2009/TT-BNN ban
hành Danh mục thuốc, hoá chất, kháng sinh cấm sử dụng, hạn chế sử dụng.
2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2010. Thông tư số 20/2010/TT-BNNPTNT
Bổ sung, sửa đổi Thông tư số 15/2009/TT-BNN ngày 17/3/2009 của Bộ trưởng Bộ
Nông nghiệp và PTNT ban hành Danh mục thuốc, hoá chất, kháng sinh cấm sử dụng,
hạn chế sử dụng.
3. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2011. Quyết định số 2654 QĐ – BNNQLCL Ban hành biện pháp kiểm tra tăng cường về chất lượng an toàn thực phẩm lô
hàng thủy sản xuất khẩu vào Canada và Nhật Bản.
15
4. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2012. Thông tư số: 03/2012/TTBNN&PTNT Sửa đổi, bổ sung Thông tư số 15/2009/TT-BNN ngày 17/3/2009 của
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành Danh mục thuốc, hoá chất, kháng
sinh cấm sử dụng, hạn chế sử dụng.
5. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2013. Tình hình phát triển ngành nuôi
trồng
thủy
sản
Việt
Nam.
Truy
cập
tại
http://sonongnghiephatinh.gov.vn/directly14/Chi-cuc-Nuoi-trong-thuy-san.htm, ngày
truy cập 28/07/2014.
6. Bộ Thuỷ sản, 2005. Quyết định 26/2005/QĐ-BTS bổ sung Fluoroquinolones vào
Danh mục kháng sinh cấm sử dụng trong sản xuất, kinh doanh thuỷ sản xuất khẩu vào
thị trường Mỹ và Bắc Mỹ.
7. Danyi, S., Widart, J., Douny, C., Dang, P. K., Baiwir, D., Wang, N., Tu, H. T.,Tung,
V. T., Phuong, N.-T., Kestemont, P., Scippo, M.-L (2010). Determination andkinetics
of enrofloxacin and ciprofloxacin in Tra catfish (Pangasianodon hypophthalmus) and
giant freshwater prawn (Macrobrachium rosenbergii) using a liquid chromatography ⁄
mass spectrometry method. J. vet. Pharmacol. Therap. 34, 142–152.
8. Lightner, D.V., Redman, R.M., Pantoja, C.R., Noble, B.L., Tran, L.H., 2012. Early
mortality syndrome affects shrimp in Asia. Glob Aquacult Advocate Jan/Feb 2012:
40.
9. Love, D.C., Rodman, S., Neff, R.A., Nachman, K.E., 2011. Veterinary drug residues
in seafood inspected by the European Union, United States, Canada, and Japan from
2000 to 2009. Environ. Sci. Tech. 45(17), 7232-7240.
10. Ministry of Health, Labour and Welfare, 2014. Thống kê, kiểm soát chất lượng của
Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi xã hội Nhật Bản Truy cập tại
http://www.mhlw.go.jp/english/topics/importedfoods/index.html), ngày truy
cập
15/7/2014.
11. NAFIQUAD, 2014. Thống kê của Cục Quản lí Chất lượng Nông lâm và Thủy sản
của Việt Nam. Truy cập tại http://www.nafiqad.gov.vn/d-chuong-trinh-giam-sat/a-duluong), ngày truy cập 18/07/2014.
12. Phu, T.M., Thinh, N.Q., Phuong, N.T., Huong, D.T.T., Quennery, S., Kestemont, P.,
Scippo, M-L., 2013. Application and hazards associated with chemicals use in red
tilapia cage culture in the Mekong Delta, Vietnam. Proceeding of VB Food net
conference, 11-13 of November 2013, Hanoi, Vietnam.
13. RASFF, 2014. Thống kê của Hệ thống cảnh báo sớm của cộng đồng Châu Âu. Truy
cập tại http://ec.europa.eu/food/food/rapidalert/rasff_portal_database_en.htm, ngày
truy cập 12/07/2014.
14. Rico, A., Phu, T.M., Satapornvanit, K., Min, J., Shahabuddin, A.M., Henriksson,
P.J.G., Nguyen, T.P., Murray, F.J., Little, D.C., Dalsgaard, A., van den Brink, P.J.,
16
2013. Use of veterinary medicines, feed additives and probiotics in four major
internationally traded aquaculture species farmed in Asia. Aquaculture 412-413, 231243.
15. Thống kê của Cục Quản lí Dược phẩm và Thực Phẩm Hoa Kì. Truy cập tại
http://www.accessdata.fda.gov/cms_ia/importalert_27.html),
ngày
truy
cập
25/07/2014.
16. Tran, L., L.H., Nunan, L., Redman, R.M., Mohney, L.L., Pantoja, C.R.,
Fitzsimmons, K.,.Lightner, D.V., 2013. Determination of the infectious nature of the
agent of acute hepatopancreatic necrosis syndrome affecting penaeid
shrimp.U.S.FDA, 2014. Diseases of aquatic organisms 105: 45–55.
17. Uddin, G. M. N., Larsen, M. H., Guardabassi, L., & Dalsgaard, A. (2013). Bacterial
flora and antimicrobial resistance in raw frozen cultured seafood imported to
Denmark. Journal of Food Protection, 76(3), 490-499. 10.4315/0362-028X.JFP-12402.
18. VASEP, 2014. Bản tin thủy sản của Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt
Nam. Truy cập tại http://www.vasep.com.vn/Tin-Tuc/51_35452/Dien-tich-va-sanluong-ca-tra-mot-so-tinh-giam.htm, truy cập ngày 28/07/2014.
19. VASEP, 2014. Công văn số 51/2014/CV-VASEP: Nhật Bản kiểm tra chỉ tiêu
Oxytetracyline với 100% lô tôm nhập khẩu từ Việt Nam, ww.vasep.com.vn/ThuVien-Van-Ban/73_34789/Cong-van-so-512014CV-VASEP-Nhat-Ban-kiem-tra-chitieu-Oxytetracyline-voi-100-lo-tom-NK-tu-Viet-Nam.htm, truy cập ngày 17/11/2014.
17
PHỤ LỤC
Phụ lục 1.
DANH MỤC HOÁ CHẤT, KHÁNG SINH CẤM SỬ
DỤNG TRONG SẢN XUẤT, KINH DOANH THỦY SẢN
( Ban hành kèm theo Thông tƣ số 15/2009/TT-BNN ngày 17 tháng 3 năm 2009
của Bộ trƣởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn)
TT
Tên hoá chất, kháng sinh
Đối tƣợng áp dụng
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
Aristolochia spp và các chế phẩm từ chúng
Chloramphenicol
Chloroform
Chlorpromazine
Colchicine
Dapsone
Dimetridazole
Metronidazole
Nitrofuran (bao gồm cả Furazolidone)
Ronidazole
Green Malachite (Xanh Malachite)
Ipronidazole
Các Nitroimidazole khác
Clenbuterol
Diethylstilbestrol (DES)
Glycopeptides
Trichlorfon (Dipterex)
Gentian Violet (Crystal violet)
Nhóm Fluoroquinolones (cấm sử dụng trong sản
xuất, kinh doanh thuỷ sản xuất khẩu vào thị trường
Mỹ và Bắc Mỹ)
Thức ăn, thuốc thú y, hoá
chất, chất xử lý môi
trường, chất tẩy rửa khử
trùng, chất bảo quản, kem
bôi da tay trong tất cả các
khâu sản xuất giống, nuôi
trồng động thực vật dưới
nước và lưỡng cư, dịch vụ
nghề cá và bảo quản, chế
biến.
18
- Xem thêm -