Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khảo sát tầng nghĩa biểu trưng trên ngữ liệu thơ việt nam giai đoạn 1930 - 1975...

Tài liệu Khảo sát tầng nghĩa biểu trưng trên ngữ liệu thơ việt nam giai đoạn 1930 - 1975

.PDF
118
1407
111

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ TRANG KHẢO SÁT TẦNG NGHĨA BIỂU TRƢNG TRÊN NGỮ LIỆU THƠ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 - 1975 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC HÀ NỘI - 2012 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ TRANG KHẢO SÁT TẦNG NGHĨA BIỂU TRƢNG TRÊN NGỮ LIỆU THƠ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 - 1975 LUẬN VĂN THẠC SĨ Ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 602201 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. TS. Lê Quang Thiêm HÀ NỘI - 2012 2 MỤC LỤC Trang PHẦN MỞ ĐẦU 4 1. Lý do lựa chọn đề tài 4 2. Mục đích của luận văn 5 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 6 4. Nhiệm vụ của luận văn 7 5. Phƣơng pháp nghiên cứu 7 6. Ý nghĩa và đóng góp của đề tài 8 7. Bố cục luận văn 10 CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU 11 1.1. Nghĩa của từ là một hệ thống - Cơ cấu nghĩa của từ 11 1.2. Phân tích nghĩa của từ - Hiện tƣợng từ đa nghĩa 11 1.2.1. Phân tích nghĩa của từ 11 1.2.2. Phân loại nghĩa của từ đa nghĩa 15 1.3. Tầng nghĩa biểu trƣng từ vựng và biểu hiện của nó 18 trong ngôn ngữ thơ ca 1.3.1. Tầng nghĩa biểu trưng từ vựng 18 1.3.2. Sự hiện thực hóa của tầng nghĩa biểu trưng trong 20 ngôn ngữ thơ ca 1.4. Hiện tƣợng đồng nghĩa từ vựng và việc xác lập trƣờng 24 ngữ nghĩa - từ vựng trên cơ sở đồng nghĩa 1.4.1. Các cách quan niệm và hướng khai thác của khóa luận 3 24 1.4.2. Loạt đồng nghĩa 27 CHƢƠNG 2 NGHĨA BIỂU TƢỢNG VỀ ĐẤT NƢỚC 29 2.1. Đặt vấn đề 29 2.2. Nhận xét chung về khả năng tạo nghĩa biểu tƣợng về 30 đất nƣớc của các đơn vị từ vựng 2.3. Khả năng tạo nghĩa biểu tƣợng về đất nƣớc của từ 33 “đất” 2.4. Khả năng tạo nghĩa biểu tƣợng về đất nƣớc của từ 38 “nước” 2.5. Khả năng tạo nghĩa biểu tƣợng về đất nƣớc của từ 43 “non”, “núi” 2.6. Khả năng tạo nghĩa biểu tƣợng về đất nƣớc của từ 46 “sông” CHƢƠNG 3 NGHĨA BIỂU TƢỢNG VỀ CON NGƢỜI 3.1. Nhận xét chung về khả năng tạo nghĩa biểu tƣợng về 52 52 con ngƣời của các đơn vị từ vựng 3.2. Các nét nghĩa biểu tƣợng về con ngƣời đƣợc nhắc đến 53 trong thơ ca Việt Nam 1930 - 1975 3.2.1. Nghĩa biểu tượng về hoạt động của con người 53 3.2.2. Nghĩa biểu tượng về tình cảm của con người 55 3.2.3. Nghĩa biểu tượng về lý tưởng, ý chí, trí tuệ của con 58 người 3.3. Khả năng tạo nghĩa biểu tƣợng về con ngƣời của một 60 số đơn vị từ vựng 3.3.1. Khả năng tạo nghĩa biểu tượng về con người của từ 4 60 “tay” 3.3.2. Khả năng tạo nghĩa biểu tượng về con người của từ 68 “lòng” KẾT LUẬN 76 TÀI LIỆU THAM KHẢO 80 NGUỒN TƢ LIỆU 83 PHỤ LỤC 5 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Nằm trong địa hạt của ngữ nghĩa học - một địa hạt rất khó và hết sức trừu tƣợng trong phạm vi nghiên cứu ngôn ngữ học, trƣờng ngữ nghĩa - từ vựng là một vấn đề không hoàn toàn mới mẻ nhƣng hầu nhƣ chƣa có đƣợc những kiến giải thật sự thấu đáo và thuyết phục. Các kiến giải trƣớc đây phần lớn đều đi theo hƣớng cấu trúc luận, coi thành phần nghĩa của từ là một kết cấu “đông cứng”, từ đó đặt chúng vào những trƣờng nghĩa cố định nào đó mà không hề có sự dịch chuyển, linh động. Trên thực tế, nghĩa của từ lại là một hệ thống tƣơng đối “động”, phát triển cùng với sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động ngôn ngữ, hàng loạt nghĩa mới đƣợc nảy sinh, nghĩa cũ có thể dần bị lãng quên, gây ảnh hƣởng trực tiếp đến hệ thống ngữ nghĩa của từ và tiếp đó là các mối quan hệ ngữ nghĩa của nó với các đơn vị khác trong hệ thống từ vựng; vì thế các trƣờng nghĩa mà từ có khả năng tham gia không thể là cố định. Đặc biệt, trong các tác phẩm văn chƣơng nghệ thuật thì tình hình này lại càng rõ. Bởi lẽ, khi đi vào chức năng làm chất liệu để xây dựng hình tƣợng nghệ thuật, truyền tải tƣ tƣởng, quan điểm thẩm mĩ thì các từ ngữ đều trở thành những tín hiệu nghệ thuật, tín hiệu thẩm mĩ. Chúng đƣợc gạn lọc, tỉa gọt hết sức kĩ càng và hầu hết chúng đều có khả năng thể hiện những nghĩa hoàn toàn mới mẻ. Việc tri nhận ngữ nghĩa của những tín hiệu thẩm mĩ cũng nhƣ khám phá nội dung, ý nghĩa của các tác phẩm văn chƣơng không thể chỉ dựa vào nghĩa hệ thống đơn thuần, thông thƣờng của chúng trong các từ điển mà phải dựa vào khả năng liên tƣởng, sáng tạo và những hiểu biết văn hóa, xã hội của ngƣời tiếp nhận. Càng có nhiều nghĩa mới đƣợc hình thành thì từ càng có khả năng tham gia nhiều trƣờng nghĩa khác nhau. Về phía trƣờng ngữ 6 nghĩa - từ vựng thì trƣờng sẽ đƣợc mở rộng, đa dạng và sinh động vì có sự tham gia của nhiều hệ thống nghĩa khác nhau của các đơn vị từ vựng. Xuất phát từ thực tiễn đó, luận văn của chúng tôi đi vào khảo sát, tìm hiểu về tầng nghĩa biểu trƣng - một bộ phận của trƣờng ngữ nghĩa từ vựng trên ngữ liệu thơ Việt Nam giai đoạn 1930 - 1975 nhƣ một thử nghiệm hƣớng tiếp cận mới trong ngôn ngữ học hiện nay - hƣớng tri nhận luận, chức năng luận. Theo hƣớng khai thác này, chúng tôi hi vọng góp phần đƣa ra một cách hiểu mới mẻ, sinh động và thuyết phục hơn về trƣờng ngữ nghĩa - từ vựng, đặc biệt là tầng nghĩa biểu trƣng. 2. Mục đích của luận văn Luận văn này tiếp cận lí thuyết trƣờng ngữ nghĩa mà cụ thể là trƣờng ngữ nghĩa - từ vựng ở một hƣớng tiếp cận mới, lấy quan điểm ba tầng nghĩa, sáu kiểu chức năng từ vựng của tác giả Lê Quang Thiêm làm cơ sở nền tảng để quy tụ các đơn vị đồng nghĩa, xác lập trƣờng ngữ nghĩa từ vựng, phân tầng các đơn vị đó và đi sâu phân tích tầng nghĩa biểu trƣng cùng những kết hợp, cấu trúc đan xen văn hóa tạo nên tầng nghĩa biểu trƣng này. Chúng tôi mong muốn bằng phƣơng pháp tiếp cận này sẽ chứng minh đƣợc sự mở rộng của trƣờng ngữ nghĩa - từ vựng, chứng minh sự sắp xếp, tổ chức của các đơn vị từ, các lớp từ trong trƣờng ngữ nghĩa là hoàn toàn có quy luật. Đặc biệt, đối với tầng nghĩa biểu trƣng, nghĩa của từ là kết quả của một loạt các kết hợp về cấu trúc trong hệ thống ngôn ngữ và có sự thể hiện văn hóa của ngƣời Việt, của riêng nhà thơ khi sử dụng chất liệu ngôn ngữ để tạo nên hình tƣợng nghệ thuật. Qua khảo sát và thống kê, chúng tôi cố gắng xác lập, đi sâu miêu tả và bƣớc đầu giải thích sự tồn tại nghĩa của các đơn vị từ vựng cũng nhƣ các mối quan hệ chằng chịt, phức tạp giữa chúng trong ngữ nghĩa. Thông qua đó góp 7 phần hiểu thêm đƣợc chức năng thẩm mĩ, chức năng nghệ thuật của từ ngữ trong thơ ca. Những điều này không nằm ngoài mục đích cuối cùng của luận văn là nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa tín hiệu ngôn ngữ và tín hiệu thơ ca, tìm hiểu và tiếp cận văn học bằng lí thuyết ngôn ngữ học. Cụ thể hơn là nhằm hiểu đƣợc nghĩa của các đơn vị từ vựng trong thơ ca. Chúng ta không thể hiểu đƣợc nghĩa của từ nói chung và nghĩa biểu trƣng của từ nói riêng trong thế tồn tại độc lập mình nó, mà cần phải bóc tách các lớp nghĩa của từ trong mối quan hệ với những đơn vị từ khác cùng trƣờng nghĩa và trong mối quan hệ với nền văn hóa chung của cộng đồng. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của chúng tôi là tầng nghĩa biểu trƣng, tập trung vào những hình tƣợng nghệ thuật mang tính điển hình và là nguồn cảm hứng cơ bản của thơ Việt Nam trong suốt giai đoạn 1930 - 1975 gắn liền hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của đất nƣớc với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam cùng luồng tƣ tƣởng mới và đây cũng là quãng thời gian diễn ra hai cuộc kháng chiến trƣờng kỳ và oanh liệt của dân tộc, đó là: nghĩa biểu tƣợng về đất nước, về con người; theo đó, luận văn tập hợp và phân tích các đơn vị từ có hàm chứa tầng nghĩa biểu trƣng, xác lập các đơn vị có nghĩa biểu trƣng giống nhau (tạo ra trƣờng đồng nghĩa) và sự chuyển hóa về nghĩa biểu tƣợng giữa các đơn vị từ, nhằm chứng minh một đơn vị từ có thể tham gia nhiều trƣờng nghĩa khác nhau (xét trên sự tƣơng đồng về nghĩa biểu trƣng) để xác lập trục đa nghĩa của từ. Nguồn tƣ liệu mà chúng tôi lựa chọn để khảo sát, phân tích là những bài thơ nổi bật của một số nhà thơ tiêu biểu của khuynh hƣớng thơ mang âm hƣởng cách mạng trong giai đoạn 1930 - 1975 nhƣ: Tố Hữu, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khoa Điềm, Tế Hanh, Lê Anh Xuân, Giang 8 Nam… Từ đó, luận văn lần lƣợt quy tụ các hệ thống nghĩa của các đơn vị từ vựng theo tiêu chí đồng nhất ở tầng nghĩa biểu trƣng. 4. Nhiệm vụ của luận văn Luận văn này tập trung vào những điểm sau: - Hệ thống hóa các quan niệm khác nhau về nghĩa của từ và đặc biệt chú ý tới các quan niệm về các thành phần nghĩa của từ, đa nghĩa, đồng nghĩa. Quan trọng hơn, luận văn bƣớc đầu xác lập tầng nghĩa biểu trƣng dựa trên quan hệ đa nghĩa và đồng nghĩa của các đơn vị từ. - Khảo sát, xác lập, đi sâu miêu tả và bƣớc đầu giải thích các hiện tƣợng ngữ nghĩa xảy ra bên trong từng trƣờng nghĩa trong thơ Việt Nam giai đoạn này. Ở mức độ sâu hơn, chúng tôi nhận diện và miêu tả các nghĩa khác nhau của các đơn vị từ thuộc tầng nghĩa biểu trƣng của một trƣờng nghĩa nhất định. Tiếp cận theo bề rộng và bề sâu nhƣ vậy sẽ giúp chúng tôi có cái nhìn tổng quan về phạm vi hoạt động của tầng nghĩa biểu trƣng trong từng trƣờng nghĩa; đồng thời nhìn nhận một cách thấu đáo, chi tiết về kết cấu ngữ nghĩa của từng đơn vị từ vựng trong tầng nghĩa, trƣờng nghĩa. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để đạt đƣợc mục đích đề ra, trong khi nghiên cứu, chúng tôi đã sử dụng các phƣơng pháp cơ bản sau: - Phƣơng pháp liệt kê: Chúng tôi tiến hành khảo sát tầng nghĩa biểu trƣng thuộc trƣờng ngữ nghĩa từ vựng về một số hình tƣợng trong thơ Việt Nam 1930 - 1975 qua việc liệt kê, phân lớp các đơn vị từ vựng theo tiêu chí đồng nhất. Thông qua khảo sát việc xuất hiện, tần suất xuất hiện của từng đơn vị từ trong lớp từ vựng chứa chúng để đƣa ra những nhận xét về năng lực hoạt động của các đơn vị và các lớp này. 9 - Phƣơng pháp phân tích ngữ nghĩa và ngữ dụng: Luận văn sử dụng phƣơng pháp này để phân tích những biểu hiện nghĩa biểu trƣng của các đơn vị từ vựng, phân tích mối quan hệ giữa hình thức và nội dung, nội dung trong quan hệ với ngữ cảnh, văn cảnh và rộng hơn là xác định quan hệ ngữ nghĩa giữa các đơn vị từ vựng với nhau để tạo ra nghĩa biểu trƣng. - Phƣơng pháp miêu tả: Phƣơng pháp này đƣợc vận dụng nhằm mục đích miêu tả các nghĩa của các tín hiệu nghệ thuật trong các tác phẩm thơ ca cách mạng. Đồng thời, chúng tôi sử dụng phƣơng pháp này để miêu tả sự biểu hiện của tầng nghĩa biểu trƣng qua hoạt động của đơn vị từ vựng trong ngữ cảnh, văn cảnh. - Phƣơng pháp so sánh và phƣơng pháp đối chiếu: Trên cơ sở sự giống nhau và khác nhau giữa các nghĩa mà từ biểu đạt qua các ngữ cảnh, văn cảnh, chúng tôi tiến hành so sánh, đối chiếu các nghĩa để thiết lập trƣờng nghĩa. Chúng tôi đã sử dụng những thủ pháp, thao tác trong quá trình tiến hành luận văn nhằm đạt đƣợc những mục đích nêu trên là: tổng hợp, phân lớp và liệt kê nhằm tập hợp các ngữ cảnh khác nhau, trong các tác phẩm thơ ca khác nhau của các từ ngữ, phân loại các ngữ cảnh có chứa cùng một nghĩa hoặc nét nghĩa, xác lập trƣờng nghĩa để rút ra thông tin định tính. Các thao tác lập mô hình trực quan đƣợc sử dụng bổ sung, hỗ trợ cho việc miêu tả sự hành chức của từ và các cơ chế phát sinh nghĩa của từ. 6. Ý nghĩa và đóng góp của đề tài Về mặt lí luận, luận văn là sự mở rộng phạm vi khảo sát và đi sâu thêm một bƣớc nghiên cứu so với khóa luận tốt nghiệp đại học “Bƣớc đầu khảo sát trƣờng ngữ nghĩa - từ vựng về đất nƣớc trong một số bài thơ Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975”. Vì thế, luận văn này tiếp tục góp phần làm sáng tỏ quan điểm về trƣờng nghĩa, tầng nghĩa mà cụ thể là tầng nghĩa biểu trƣng của trƣờng ngữ nghĩa từ vựng theo hƣớng tiếp cận chức năng luận, tri nhận luận. 10 Quá đó, luận văn giúp hiểu rõ hơn về nghĩa của các đơn vị từ vựng, nhất là nghĩa biểu trƣng trong các tác phẩm văn chƣơng nghệ thuật thông qua việc bóc tách từng lớp nghĩa, tầng nghĩa trong từng ngữ cảnh, văn cảnh mà từ hoạt động. Bởi lẽ từ không tồn tại độc lập mà nó luôn tồn tại trong mối quan hệ với các đơn vị khác. Nếu nhƣ một kí hiệu ngôn ngữ thƣờng có sự thống nhất giữa cái biểu đạt và cái đƣợc biểu đạt thì trong thơ không phải bao giờ cũng thế. Cái biểu đạt trong thơ chẳng qua là lớp kính bên ngoài bao bọc một thế giới hình tƣợng muôn hình muôn dạng. Nếu không hiểu đƣợc điều đó, ngƣời tiếp nhận sẽ bỏ qua những giá trị đích thực của ngôn từ cũng nhƣ những giá trị độc đáo, kì diệu mà ngƣời nghệ sĩ ngôn từ tạo ra từ năng lực sáng tạo nghệ thuật của mình. Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn hƣớng vào những ứng dụng sau: - Hoàn thiện hệ thống nghĩa của từ, làm cơ sở tiến đến quy tụ một cách đầy đủ, sinh động nhất trƣờng ngữ nghĩa. - Đối chiếu với các từ điển tiếng Việt, xem xét các nghĩa của từ ngữ đƣợc bộc lộ trong các tác phẩm văn học nghệ thuật đã đƣợc khái quát trong các từ điển hay chƣa, bổ sung vào hệ thống nghĩa của từ trong từ điển. - Tìm hiểu những nghĩa mới (chủ yếu là nghĩa biểu trƣng) của từ ngữ trong tác phẩm văn học nghệ thuật có nằm trong thói quen sử dụng ngôn ngữ hằng ngày của cộng đồng ngôn ngữ hay không. Những nghĩa mới đó đƣợc sử dụng phổ biến trong cộng đồng ngôn ngữ hay chúng chỉ có giá trị trong văn thơ. Vì thế, những kết quả thống kê đƣợc, miêu tả đƣợc góp phần tìm hiểu mối quan hệ giữa hệ thống nghĩa nội tại tiềm tàng trong bản thân từ ngữ với 11 hệ thống nghĩa của từ đƣợc khái quát trong từ điển tiếng Việt và sự biểu hiện của chúng trong văn học nghệ thuật, có sự so sánh, đối chiếu với thói quen sử dụng ngôn ngữ hằng ngày. 7. Bố cục luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn có bố cục gồm ba chƣơng: - Chƣơng 1: Cơ sở lý thuyết và định hƣớng nghiên cứu - Chƣơng 2: Nghĩa biểu tƣợng về đất nƣớc - Chƣơng 3: Nghĩa biểu tƣợng về con ngƣời. 12 CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU 1.1. Nghĩa của từ là một hệ thống - Cơ cấu nghĩa của từ Tín hiệu ngôn ngữ là một tín hiệu đặc biệt, nếu nhƣ giữa cái biểu hiện và cái đƣợc biểu hiện của các tín hiệu thông thƣờng có quan hệ 1-1, tức là một hình thức chỉ biểu hiện cho một nội dung nhất định thì quan hệ giữa vỏ ngữ âm của ngôn ngữ (cái biểu hiện) với nội dung nghĩa (cái đƣợc biểu hiện) không phải là quan hệ 1-1. Một vỏ ngữ âm có thể diễn tả nhiều nội dung khác nhau. Vì thế, một từ có thể có một hoặc nhiều nghĩa khác nhau, nhƣng đó không phải là một tổ chức lộn xộn. Đối với từ đa nghĩa, các nghĩa của từ có quan hệ với nhau, đƣợc sắp xếp theo những cơ cấu, tổ chức nhất định. Mỗi nghĩa lại có các thành tố nghĩa nhỏ hơn đƣợc sắp xếp theo một trật tự nhất định. Nhƣ vậy, nghĩa của từ là một hệ thống. Xét nghĩa của từ là xác định xem từ đó có bao nhiêu nghĩa, mỗi nghĩa có bao nhiêu thành tố nhỏ hơn và tất cả chúng đƣợc sắp xếp trong quan hệ với nhau nhƣ thế nào. Xét trong một trƣờng từ vựng, bản thân mỗi từ đa nghĩa tạo nên một một trục ngữ nghĩa mà ở đó các nghĩa luôn tồn tại một mối liên hệ nhất định nào đó. Nói cách khác, khi xét toàn bộ thành phần nghĩa của từ đa nghĩa và mối liên hệ giữa từng nét nghĩa với những nghĩa bên trong từ và với những nghĩa của từ khác, ta có thể tập hợp thành một trƣờng nghĩa rộng hơn, đầy đủ hơn nhiều khi xét một nghĩa nào đó của từ. 1.2. Phân tích nghĩa của từ - Hiện tƣợng từ đa nghĩa 1.2.1. Phân tích nghĩa của từ 13 Về vấn đề thành phần ngữ nghĩa của từ, đã có rất nhiều luận giải khác nhau, tùy theo cách quan niệm về nghĩa của từ: Với quan niệm nghĩa của từ là quan hệ giữa từ với cái mà nó biểu thị, Nguyễn Thiện Giáp [9] cho rằng nghĩa của từ là một đối tượng phức tạp, bao gồm một số thành tố đơn giản hơn như sau: nghĩa sở chỉ, nghĩa sở biểu, nghĩa sở dụng, nghĩa kết cấu. Trong đó: - Nghĩa sở chỉ (referentive meaning): Là quan hệ giữa từ với đối tƣợng mà từ biểu hiện. Đối tƣợng mà từ biểu thị không phải chỉ là các sự vật mà còn là quá trình, tính chất hoặc hiện tƣợng thực tế nào đó; các đối tƣợng này có thể ngoài ngôn ngữ hoặc trong ngôn ngữ. Đối tƣợng mà từ biểu thị đƣợc gọi là “cái sở chỉ” của từ. - Nghĩa sở biểu (significative meaning): Là quan hệ giữa từ với biểu tƣợng, khái niệm. Khái niệm hoặc biểu tƣợng có quan hệ với từ đƣợc gọi là “cái sở biểu”. Cái sở biểu và cái sở chỉ có quan hệ chặt chẽ với nhau, cái sở biểu là sự phản ánh của cái sở chỉ trong nhận thức của con ngƣời. Tuy nhiên, giữa chúng lại có sự khác nhau rất lớn. Mỗi cái sở biểu có thể ứng với nhiều cái sở chỉ khác nhau, tức là nó có quan hệ với cả một lớp hạng đối tƣợng trong thực tế. Ngƣợc lại, một cái sở chỉ duy nhất có thể thuộc vào những cái sở biểu khác nhau, bởi vì cùng một sự vật tùy theo đặc trƣng của mình có thể tham gia vào một số lớp khác nhau. Quan hệ ngữ âm của từ với cái sở biểu, tức là nghĩa sở biểu của từ đó, trong một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định là cái có tính chất ổn định. Vì vậy, nghĩa sở biể thuộc vào hệ thống ngôn ngữ. Nghĩa sở chỉ thể hiện ra khi sử dụng các từ trong lời nói. Nó không có tính ổn định bởi vì bản thân mối quan hệ của từ với cái sở chỉ có thể thay đổi tùy theo hoàn cảnh nói năng cụ thể. 14 - Nghĩa sở dụng (pragmatical meaning): Là quan hệ của từ với ngƣời sử dụng (ngƣời nói, ngƣời viết, ngƣời nghe, ngƣời đọc). Ngƣời sử dụng ngôn ngữ hoàn toàn không thờ ơ đối với những từ ngƣời đƣợc dùng. Họ có thể bộc lộ thái độ chủ quan của mình đối với từ ngữ và qua đó tới cái sở biểu và sở chỉ của từ ngữ. - Nghĩa kết cấu (structural meaning): Mỗi từ đều nằm trong một hệ thống từ vựng, có quan hệ đa dạng và phức tạp với những từ khác. Quan hệ giữa từ và những từ khác trong nghĩa sở biểu trong các ngôn ngữ đều có quan hệ với việc nhận thức hiện thực khách quan. Theo đó, mỗi từ có giá trị riêng của mình trong hệ thống nhờ quan hệ đối vị với các từ khác; quan hệ của từ với các từ khác trên trục đối vị (trục dọc) đƣợc gọi là nghĩa khu biệt hay giá trị. Ngoài ra, từ còn có quan hệ với các từ khác trên trục nối tiếp (trục ngang) để tạo ra nghĩa cú pháp hay ngữ trị của từ. Đỗ Hữu Châu [1] lại tập trung phân tích nghĩa và các nhân tố hình thành nghĩa thông qua hình tháp nghĩa; trong đó ông đã phân biệt “nhân tố nghĩa” và “nghĩa”, đồng thời thừa nhận nghĩa của từ là một thực thể tinh thần cùng với phương diện hình thức lập thành một thể thống nhất gọi là từ. Ông cho rằng: số lƣợng kiểu nghĩa sẽ tăng lên tùy theo số lượng những nhân tố được phát hiện. Trong phạm vi quan sát nghĩa từ vựng, các loại nghĩa mà ông nêu ra bao gồm: nghĩa biểu vật, nghĩa biểu niệm và nghĩa biểu thái: - Nghĩa biểu vật: Sự vật, hiện tƣợng, đặc điểm… ngoài ngôn ngữ, đƣợc từ biểu thị tạo nên nghĩa biểu vật của từ. Nghĩa biểu vật không phải là sự vật, hiện tƣợng y nhƣ chúng có thực trong thực tế mà chỉ là sự phản ánh sự vật, hiện tƣợng… trong thực tế vào ngôn ngữ. Vì vậy, nó có ý nghĩa khái quát. - Nghĩa biểu niệm: Là tập hợp một số nét nghĩa chung và riêng, khái quát và cụ thể theo một tổ chức, một trật tự nhất định. Giữa các nét nghĩa có một quan hệ nhất định. Tập hợp này ứng với một hoặc một số ý nghĩa biểu vật 15 của từ. Tập hợp các nét nghĩa phạm trù, khái quát chung cho nhiều từ đƣợc gọi là cấu trúc biểu niệm. - Nghĩa biểu thái: Thuộc phạm vi biểu thái của từ là các nhân tố đánh giá nhƣ: to, nhỏ, mạnh, yếu…; các nhân tố cảm xúc nhƣ: dễ chịu, sợ hãi…; các nhân tố thái độ nhƣ: yêu, ghét, mến, thương… mà từ gợi ra cho ngƣời nói và ngƣời nghe. Ba thành phần ý nghĩa trên đƣợc gọi chung là nghĩa từ vựng. Ngoài ra, từ còn có nghĩa ngữ pháp ứng với chức năng ngữ pháp của từ. Các tác giả Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến [5] thì lại cho rằng nghĩa của từ là những liên hệ phản ánh được xác lập trong nhận thức của chúng ta giữa từ với những cái mà từ chỉ ra (những cái mà nó làm tín hiệu cho). Các tác giả quan niệm, nghĩa của từ gồm những thành phần sau: nghĩa biểu vật, nghĩa biểu niệm. Ngoài hai thành phần nghĩa trên, các tác giả còn nói đến hai thành phần nghĩa khác là: nghĩa ngữ dụng, nghĩa cấu trúc. Theo đó: - Nghĩa biểu vật: Là liên hệ giữa từ với sự vật (hoặc hiện tƣợng, thuộc tính, hoạt động…) mà nó chỉ ra. Bản thân sự vật, hiện tƣợng, thuộc tính, hoạt động đó ngƣời ta gọi là biểu vật hay cái biểu vật. - Nghĩa biểu niệm: Là liên hệ giữa từ với ý (hoặc ý nghĩa, ý niệm, nếu chúng ta không cần phân biệt nghiêm ngặt mấy tên gọi này). Cái ý đó ngƣời ta gọi là cái biểu niệm hoặc biểu niệm (sự phản ánh các thuộc tính của biểu vật vào trong ý thức của con ngƣời). - Ngoài hai thành phần này, các tác giả còn nói đến hai thành phần nghĩa khác là: + Nghĩa ngữ dụng (còn được gọi là nghĩa biểu thái, nghĩa hàm chỉ): Là mối liên hệ giữa từ với thái độ chủ quan, cảm xúc của ngƣời nói. 16 + Nghĩa cấu trúc: Là mối quan hệ giữa từ với từ khác trong hệ thống từ vựng, trên cả hai trục đối vị và trục ngữ đoạn. Nhƣ vậy, xét bản chất nghĩa và loại nghĩa tức là đi vào phân biệt nghĩa từ vựng và nghĩa ngữ pháp. Nghĩa từ vựng đƣợc phân thành nghĩa biểu vật (nghĩa sở chỉ) và nghĩa biểu niệm (nghĩa sở biểu). Để tiến sâu hơn một bƣớc trong tìm hiểu các thành phần nghĩa của từ đa nghĩa, các tác giả đi sâu phân loại nghĩa trong hệ thống nghĩa của từ đa nghĩa. 1.2.2. Phân loại nghĩa của từ đa nghĩa Các nhà Việt ngữ học đã có những cách phân loại khác nhau đối với hệ thống nghĩa của từ đa nghĩa. Có thể kể đến một số hƣớng nhƣ sau: - Ở mặt lịch đại, các tác giả chia nghĩa của từ đa nghĩa thành nghĩa gốc và nghĩa phái sinh. Nghĩa gốc là nghĩa đầu tiên, nghĩa có trƣớc, trên cơ sở nghĩa đó phái sinh ra nhiều nghĩa khác. Nghĩa phái sinh là nghĩa đƣợc hình thành trên cơ sở nghĩa gốc, trong quá trình sử dụng và sáng tạo ngôn ngữ. - Ở mặt đồng đại, các tác giả cũng đƣa ra nhiều cách giải quyết khác nhau về nghĩa của từ đa nghĩa. Có thể kể đến một số lƣỡng phân nhƣ: nghĩa tự do - nghĩa hạn chế, nghĩa trực tiếp - nghĩa chuyển tiếp, nghĩa thường trực nghĩa không thường trực [5, tr.173-176]. Bên cạnh đó còn có các lƣỡng phân nhƣ: nghĩa cổ - nghĩa hiện dùng, nghĩa địa phương - nghĩa toàn dân, nghĩa chính - nghĩa phụ… [1, tr.152-155]. Về cơ bản, các tác giả đã phân loại hệ thống nghĩa của từ đa nghĩa theo hƣớng lưỡng phân nghĩa. Điều này dẫn đến một hệ quả là: Trong trƣờng hợp nhiều nghĩa phái sinh, nhiều nghĩa không cơ bản, nhiều nghĩa phụ thì sự phân biệt không đƣợc chỉ rõ, không đƣợc gọi tên, không xác lập cho nó một vị thế tƣơng ứng, không có sự định loại cho bộ phận nhiều nghĩa còn lại của từ… Lƣỡng phân thì không đủ thang độ để phân biệt tính đa dạng ngữ nghĩa từ 17 vựng [23, tr.119]. Do đó, theo chúng tôi, phương pháp lưỡng phân không còn là một thước đo đầy đủ cho việc nghiên cứu hệ thống nghĩa của từ đa nghĩa. Với mong muốn mở rộng khung phân loại hệ thống nghĩa của từ đa nghĩa, nhằm đƣa ra những miêu tả, phân tích cụ thể, chi tiết hơn nữa về hệ thống nghĩa hết sức đa dạng này, tác giả Lê Quang Thiêm [23] đã đƣa ra quan niệm nghĩa là nội dung được xác định hình thành nhờ chức năng thì nội dung ngữ nghĩa (phổ nghĩa) của từ bao gồm “chuỗi chức năng” mà từ bộc lộ trong văn cảnh, ngữ cảnh mà chúng xuất hiện cũng nhƣ trong các kiểu tạo cấu trúc ngôn ngữ. Từ đó, tác giả phân cấu trúc nghĩa của từ thành các tầng nghĩa, kiểu nghĩa chức năng từ vựng gồm ba tầng, sáu kiểu. Cụ thể hơn, phổ nghĩa của từ đƣợc trải dài từ cực duy lý khoa học đến cực biểu cảm, biểu trưng, biểu tượng của tín hiệu: - Tầng nghĩa trí tuệ Nghĩa biểu niệm - Khái niệm khoa học (scientific concept) (intellectual stratum) Nghĩa biểu hiện Ý niệm quy ƣớc Giá trị hệ thống - Tầng nghĩa thực tiễn Nghĩa biểu thị (denotational meaning) (pragtical stratum) Nghĩa biểu chỉ (designated meaning) - Tầng nghĩa biểu trƣng Nghĩa biểu trƣng (symbolized meaning) (symbolized stratum) Nghĩa biểu tƣợng (imaginative meaning) Chúng ta lần lƣợt đi vào tìm hiểu sáu kiểu nghĩa trong ba tầng nghĩa từ vựng nói trên: - Về tầng nghĩa trí tuệ: + Nghĩa biểu niệm: Là nghĩa của từ mà có nội dung tƣơng hợp với các khái niệm khoa học. Nó là nội dung mà tƣ duy con ngƣời nhận thức phản ánh 18 bản chất các hiện tƣợng, các quá trình, thuộc tính. Ví dụ: Nghĩa của từ nước: chất lỏng không màu, không mùi, trong suốt, sôi ở 100 độ C. + Nghĩa biểu hiện: Là một nội dung trừu tƣợng, khái quát thể hiện trong tín hiệu ngôn ngữ. Nội dung này bao gồm hai nội dung cụ thể hơn: khái niệm quy ước là nội dung khái quát thuộc tính dấu hiệu đối tƣợng đƣợc biểu hiện một cách đời thƣờng có tính chủ quan, không hoàn toàn thể hiện bản chất và nghĩa hệ thống đƣợc xác lập trong quan hệ với từ khác trong nhóm, trong trƣờng. - Về tầng nghĩa thực tiễn: + Nghĩa biểu thị: Nghĩa biểu thị có tính cụ thể lời nói, đƣợc dùng trong thực tiễn đời sống khi câu nói liên quan đến sự vật, hoạt động, tính chất mà từ biểu thị. Nói đến nghĩa biểu thị là ta có thể hình dung sự vật, hành động theo một mặt, một thuộc tính, công dụng cụ thể nào đó. Nghĩa biểu thị của từ nước là chất lỏng nói chung; ví dụ: nước chè, nước mắt, nước sông… + Nghĩa biểu chỉ: Nghĩa biểu chỉ có nội dung chỉ ra, quy chiếu đến mà nội dung nghĩa ít phản ánh, biểu thị, ánh xạ nét gì, thuộc tính nào của sự vật, hiện tƣợng mà nhƣ là từ thay thế, dán nhãn. Kiểu nghĩa này thể hiện nhƣ các từ chỉ xuất: này, kia, ấy, đấy…; các đại từ: tôi, ta, nó, y… - Về tầng nghĩa biểu trưng: + Nghĩa biểu trưng: Là loại nghĩa dành cho nội dung nghĩa của những từ mà hình thức ngữ âm (mô phỏng âm thanh) hoặc hình thức cấu âm (mô phỏng cấu hình) có liên hệ đến nội dung đƣợc biểu hiện của từ. + Nghĩa biểu tượng: Là nghĩa có đƣợc do hình dung, tƣởng tƣợng. Có thể nói, với quan niệm về ba tầng nghĩa, sáu kiểu nghĩa chức năng từ vựng nhƣ vậy, nghĩa của từ không chỉ đƣợc xem xét trong thế lƣỡng phân nhƣ những quan niệm trƣớc đó. Đây là một sự đổi mới, mở rộng quan niệm 19 về nghĩa, nó đã dung hòa và kiến giải đƣợc những nội dung thuộc hai cực đối lập nhau: khoa học và viễn tưởng, hai khả năng biểu đạt của kí hiệu: tạo hình và biểu hiện, miêu tả và tri giác. Theo đó, ta cũng thấy rõ hơn về sự phong phú, đa dạng và đầy ý nghĩa trong nghĩa chức năng từ vựng. Chúng tôi lựa chọn cách phân loại thành phần nghĩa từ vựng của tác giả Lê Quang Thiêm làm hƣớng tiếp cận trƣờng ngữ nghĩa và cũng làm hƣớng khai thác chung cho luận văn này. Bởi lẽ, với ba tầng, sáu kiểu nghĩa chức năng từ vựng, nghĩa của từ đƣợc khai thác một cách triệt để từng vỉa lớp nghĩa đƣợc lần lƣợt bóc tách chứ không chỉ riêng một thành phần nghĩa nào. Càng đi sâu bóc tách từng kiểu nghĩa, tầng nghĩa của đơn vị từ này và xác lập đƣợc mối liên hệ của nó với các tầng nghĩa, kiểu nghĩa của các đơn vị từ khác trong hệ thống từ vựng thì các trƣờng ngữ nghĩa đƣợc thiết lập và mở rộng thêm ra, phong phú hơn gấp nhiều lần. Vì thế, chúng tôi có đƣợc cơ sở đa dạng, phong phú và khá đầy đủ để tập hợp đƣợc nhiều nhất hệ thống nghĩa của từ, góp phần mở rộng đến mức tối đa trƣờng ngữ nghĩa và đồng thời thấy đƣợc khả năng bộc lộ các nghĩa mới - cũ khác nhau của từ thông qua những ngữ cảnh, văn cảnh khác nhau mà chúng xuất hiện. Trong luận văn này, chúng tôi sẽ tìm hiểu kĩ về tầng nghĩa biểu trƣng mà cụ thể là nghĩa biểu tƣợng của từ trong việc xây dựng hình tƣợng của tác phẩm văn học nghệ thuật, cụ thể là trong các sáng tác thơ. 1.3. Tầng nghĩa biểu trƣng từ vựng và biểu hiện của nó trong ngôn ngữ thơ ca 1.3.1. Tầng nghĩa biểu trưng từ vựng Nói đến nghĩa biểu trƣng là nói tới các mức độ của sự hình dung, tƣởng tƣợng mà con ngƣời có thể nhận đƣợc khi liên hệ nghĩa với hình thức biểu hiện của từ hoặc các phạm vi tồn tại khác trong cuộc sống. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan