Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khảo sát sự vận dụng ca dao trong thơ trên báo văn nghệ năm 2009...

Tài liệu Khảo sát sự vận dụng ca dao trong thơ trên báo văn nghệ năm 2009

.PDF
203
92
69

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Nguyễn Tùng Giang KHẢO SÁT SỰ VẬN DỤNG CA DAO TRONG THƠ TRÊN BÁO VĂN NGHỆ NĂM 2009 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Thành phố Hồ Chí Minh - 2012 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Nguyễn Tùng Giang KHẢO SÁT SỰ VẬN DỤNG CA DAO TRONG THƠ TRÊN BÁO VĂN NGHỆ NĂM 2009 Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Người hướng dẫn khoa học TS. Nguyễn Thị Ngọc Điệp Thành phố Hồ Chí Minh - 2012 LỜI CẢM ƠN -------  ------- Học viên Nguyễn Tùng Giang xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Tiến sĩ Nguyễn Thị Ngọc Điệp đã chỉ bảo và hướng dẫn tận tình trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Học viên cũng gửi lời cảm ơn đến quý thầy, cô giáo đã truyền thụ kiến thức, kinh nghiệm trong quá trình đào tạo lớp Cao học Ngành Văn học Việt Nam – Khóa 19 (2008-2011) tại trường ĐHSP Tp. HCM. Đồng thời, tác giả gửi lời cảm ơn đến đồng nghiệp, bạn bè và người thân trong gia đình đã ủng hộ, tạo mọi điều kiện thuận lợi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Xin chân thành cảm ơn và trân trọng kính chào! Vũng Tàu, ngày 25 tháng 4 năm 2012 Tác giả Nguyễn Tùng Giang MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cảm ơn Mục lục Danh mục các chữ viết tắt PHẦN DẪN NHẬP ......................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ SỰ VẬN DỤNG CA DAO TRONG THƠ TRÊN BÁO VĂN NGHỆ NĂM 2009 .. 12 1.1. Giới thiệu chung về ca dao và thơ ........................................................ 12 1.1.1. Giới thiệu chung về ca dao ............................................................. 12 1.1.2. Giới thiệu chung về thơ .................................................................. 17 1.1.2.1. Một số quan niệm về thơ ......................................................... 17 1.1.2.2. Những xu hướng thơ Việt Nam từ 1975 đến nay .................... 25 1.1.2.3. Giới thiệu về thơ trên báo Văn nghệ năm 2009....................... 29 1.2. Cơ sở lí luận của việc vận dụng ca dao trong thơ trên báo Văn nghệ năm 2009 ............................................................................................... 34 1.2.1. Sự vận dụng ca dao trong thơ mang tính kế thừa ......................... 34 1.2.2. Sự vận dụng ca dao trong thơ chịu sự tác động của tư tưởng và thời đại .......................................................................................... 37 1.2.3. Sự vận dụng ca dao trong thơ do ý thức tích lũy và chọn lọc ...... 40 Chương 2: SỰ VẬN DỤNG NGÔN NGỮ, HÌNH ẢNH CA DAO TRONG THƠ TRÊN BÁO VĂN NGHỆ NĂM 2009 ............ 44 2.1. Sự vận dụng ngôn ngữ .......................................................................... 44 2.1.1. Ngôn ngữ trong ca dao ................................................................... 44 2.1.2. Sự vận dụng ngôn ngữ ca dao trong thơ trên báo Văn nghệ năm 2009 ......... 47 2.1.2.1. Vận dụng cả câu ca dao ........................................................... 47 2.1.2.2. Vận dụng một số yếu tố của ngôn ngữ ca dao ......................... 52 2.2. Sự vận dụng hình ảnh ........................................................................... 62 2.2.1. Hình ảnh trong ca dao .................................................................... 62 2.2.2. Sự vận dụng hình ảnh ca dao trong thơ trên báo Văn nghệ năm 2009 .......... 64 2.2.2.1. Vận dụng hình ảnh quen thuộc ................................................ 64 2.2.2.2. Vận dụng biểu tượng ............................................................... 68 Chương 3: SỰ VẬN DỤNG THỂ THƠ, KẾT CẤU, THỜI GIAN, KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT CA DAO TRONG THƠ TRÊN BÁO VĂN NGHỆ NĂM 2009 ..................................... 85 3.1. Sự vận dụng thể thơ .............................................................................. 85 3.1.1. Thể thơ trong ca dao ..................................................................... 85 3.1.2. Sự vận dụng thể thơ của ca dao trong thơ trên báo Văn nghệ năm 2009 ....................................................................................... 87 3.1.2.1. Bảng thống kê các thể thơ trên báo Văn nghệ năm 2009 ...... 87 3.1.2.2. Sự vận dụng thể thơ ca dao trong thơ trên báo Văn nghệ năm 2009................................................................................. 90 3.2. Sự vận dụng kết cấu ............................................................................. 94 3.2.1. Kết cấu trong ca dao ..................................................................... 94 3.2.2. Sự vận dụng kết cấu của ca dao trong thơ trên báo Văn nghệ năm 2009 ....................................................................................... 96 3.3. Sự vận dụng không gian và thời gian nghệ thuật ............................... 100 3.3.1. Thời gian và không gian nghệ thuật của ca dao ........................... 101 3.3.1.1. Thời gian nghệ thuật .............................................................. 101 3.3.1.2. Không gian nghệ thuật ........................................................... 102 3.3.2. Sự vận dụng thời gian và không gian nghệ thuật ca dao trong thơ trên báo Văn nghệ năm 2009 ................................................ 103 3.3.2.1. Sự vận dụng thời gian nghệ thuật ......................................... 103 3.3.2.2. Sự vận dụng không gian nghệ thuật ...................................... 109 KẾT LUẬN .................................................................................................. 115 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 119 PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT * ĐHSP - Đại học Sư phạm * ĐHKHXH&NV - Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn * GD - Giáo dục * KHXH - Khoa học xã hội * NXB - Nhà xuất bản * TCVH - Tạp chí văn học * Tp. HCM - Thành phố Hồ Chí Minh * VHDG - Văn học dân gian * VHVN - Văn học Việt Nam 1 PHẦN DẪN NHẬP 1. Lí do chọn đề tài Văn học dân gian là một trong hai bộ phận quan trọng cấu thành nên nền văn học của một dân tộc. Trong đó, ca dao được xem là một thể loại lớn của văn học dân gian Việt Nam, là những sáng tác trữ tình thể hiện những cung bậc tình cảm của người bình dân trong cuộc sống. Đó là những cảm xúc về tình yêu, tình bạn, tình cảm đối với gia đình, quê hương xứ sở, là tình cảm với công việc và thiên nhiên, tạo vật. Văn học dân gian là nền tảng rất quan trọng cho sự phát triển của văn học viết nói chung và thơ ca nói riêng. Nó đóng một vai trò không nhỏ trong việc bảo tồn, phát huy những giá trị tinh hoa của văn hóa dân tộc Việt Nam. Trong đó, việc giữ gìn và bảo lưu tiếng nói của dân tộc trước âm mưu đồng hóa của thế lực phong kiến phương Bắc là một minh chứng cụ thể. Giữa văn học dân gian và của văn học viết có một mối liên hệ và tác động qua lại lẫn nhau. Đó là mối liên hệ tự nhiên nằm trong quy luật của sự kế thừa, vận động và phát triển của văn học. Trong mối quan hệ hai chiều ấy thì sức tác động và hiệu quả tác động của hai bên là ngang nhau, nhưng trên thực tế, văn học dân gian cho nhiều hơn nhận và sự ảnh hưởng của văn học dân gian tùy theo mức độ phát triển của nền văn hóa dân tộc, tùy theo hoàn cảnh, môi trường và điều kiện sáng tạo của mỗi nhà văn. Nhìn vào lịch sử văn học viết của dân tộc, có nhiều các tác giả đã vay mượn cốt truyện dân gian, sử dụng nguồn tư liệu dân gian đưa vào trong tác phẩm như: “Thiên Nam ngữ lục”, “Truyền kỳ mạn lục” ... Các nhà thơ lớn thuộc giai đoạn văn học trung đại như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ ...cũng đưa ca dao vào sáng tác của mình một cách tinh tế. Bước sang giai đoạn văn học hiện đại, các nhà thơ như: Tản Đà, Nguyễn Bính, Tố Hữu, Xuân Quỳnh ... cũng đã vận dụng ca dao vào thơ trên 2 sự kế thừa từ truyền thống của văn học dân tộc và đã thổi một linh hồn, một sức sống mới cho thơ ca hiện đại tạo nên những dấu ấn độc đáo. Ngày hôm nay, tuy chúng ta đang sống trong nền kinh tế thị trường, con người rất bận rộn với công việc nhưng theo dòng chảy của thời gian, vẫn có những con người yêu thích thơ ca, xem thơ ca là cuộc sống. Họ sáng tác thơ ca để giãi bày, để chia sẻ với những tâm hồn đồng cảm. Trong số đó có không ít nhà thơ xuất sắc, để lại những tập thơ, bài thơ hay được dư luận đánh giá cao. Những sáng tác của họ được in, đăng trên các báo, tạp chí ... đã làm phong phú thêm bức tranh toàn cảnh của văn học dân tộc và tạo ra một món ăn tinh thần cho nhiều bạn đọc khi thưởng thức. Hơn thế, những tác phẩm thơ ca của nhiều tác giả vẫn tiếp nối những thế hệ nhà thơ đi trước và có sự vận dụng một cách sáng tạo những thi liệu của ca dao tạo nên những vần thơ gần gũi với cuộc sống. Thực tế cho thấy, một số nhà nghiên cứu đã bỏ công sức tìm hiểu sự ảnh hưởng ca dao trong thơ ca hiện đại. Tuy nhiên, việc tìm hiểu chỉ dừng lại ở một số bài viết mang tính lý luận hoặc nghiên cứu sự ảnh hưởng của ca dao trong sáng tác của một số nhà thơ lớn như Nguyễn Du, Tố Hữu, Nguyễn Bính, Xuân Quỳnh ... nên người đọc không thấy được sự ảnh hưởng, vận dụng ca dao trong sáng tác của các nhà thơ hiện nay, kể cả nhà thơ chuyên nghiệp và nghiệp dư. Xuất phát từ lý do trên, tác giả chọn đề tài “Khảo sát sự vận dụng ca dao trong thơ trên báo Văn nghệ năm 2009”. Đề tài này mang ý nghĩa thực tiễn, góp phần làm sáng tỏ hiện tượng có sự vận dụng ca dao trong trào lưu sáng tác thơ ca hiện nay của nhiều nhà thơ. Hơn nữa, đề tài này rất hữu ích đối với công việc giảng dạy văn học ở trường THPT của tác giả. 3 2. Lịch sử vấn đề Văn học dân gian nói chung và ca dao nói riêng đã có sự ảnh hưởng đối với nền văn học viết trong đó có thơ ca. Các nhà thơ đã vận dụng chất liệu ca dao đưa vào trong sáng tác của mình tạo nên những tác phẩm văn học có giá trị. Vì thế, vấn đề này đã từ lâu nhận được sự quan tâm, tìm hiểu của nhiều nhà nghiên cứu. Trong phạm vi hiểu biết, người viết xin đưa ra một số bài viết, công trình nghiên cứu tiêu biểu: * Một số bài viết, công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa VHDG và văn học viết Đăng trên TCVH số 11/1965, bài viết: “Vai trò của VHDG trong VHVN nói chung, trong Truyện Kiều nói riêng” của nhà nghiên cứu Nguyễn Khánh Toàn bước đầu đã có đề cập đến vai trò văn học dân gian với văn học viết ở các phương diện sử dụng ngôn ngữ dân tộc, vận dụng thể thơ. Nhà nghiên cứu văn học dân gian Chu Xuân Diên có bài viết “Nhà văn và sáng tác dân gian” đăng trên TCVH số 1/1966 đã có những lý giải quan trọng cho hiện tượng văn học dân gian xâm nhập vào sáng tác nhà văn, nhà thơ. Sở dĩ có hiện tượng này là do những kỉ niệm thời thơ ấu, do sự tự ý thức tích lũy vốn văn học dân gian để phục vụ cho những nhiệm vụ tư tưởng và nghệ thuật sáng tác của mình. Nhà thơ tình Xuân Diệu cũng đóng góp tiếng nói qua bài viết: “Các nhà thơ học được gì ở ca dao” - TCVH số 1/1967 có nội dung khẳng định về vai trò và sự ảnh hưởng của ca dao đối với nhà thơ. Các nhà thơ học những điều ở ca dao, đó là “Học tính giai cấp trong đó, học lập trường của những người lao động, học cái hiện thực của cái tương quan nam nữ trong các chế độ cũ, học tên đất, tên nước, tên cá, tên chim muông, cây cỏ... Nhưng nói hẹp hơn, các nhà thơ học được thơ ở trong ca dao” [7, tr.91] 4 Trên TCVH số 1/1980, Lê Kinh Khiên có bài viết “Một số vấn đề lí thuyết chung về mối quan hệ văn học dân gian – văn học viết” đã đề cập nhiều đến vấn đề lí luận về mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết. Đó là mối quan hệ cơ bản, hết sức chặt chẽ và sâu sắc, có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình xây dựng nền văn học dân tộc. Quan hệ đó diễn ra trong hai chiều nhưng trong thực tế “Văn học dân gian cho nhiều hơn nhận. Vì vậy khi nghiên cứu mối quan hệ này, chủ yếu ta tìm hiểu ảnh hưởng của văn học dân gian đối với văn học viết ... ảnh hưởng đó tùy theo mức độ phát triển của nền văn hóa dân tộc, tùy theo hoàn cảnh, môi trường và điều kiện sáng tạo của nhà văn ... diễn ra dưới nhiều dạng, kiểu khác nhau” [36, tr.343]. Nhà nghiên cứu Đỗ Bình Trị cũng đóng góp “Mấy ý kiến về vấn đề nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học với văn học dân gian” - TCVH số 1/1989. Ông cho rằng, khi nghiên cứu nguồn gốc dân gian của một tác phẩm văn học (hoặc rộng ra là một tác giả văn học, một trào lưu văn học) không nên chỉ tìm cách đo lường những ảnh hưởng cụ thể của văn học dân gian trên sáng tác của nhà văn “Không nên đồng nhất vai trò chung của văn học dân gian trên đường tu dưỡng nghề nghiệp của nhà văn và việc sử dụng thực tế những chất liệu và phương tiện nghệ thuật của văn học dân gian trong sáng tác của anh ta” [67, tr.53] Trong TCVH số 2/1989, bài viết “Vai trò của VHDG trong sự phát triển văn học dân tộc” của Đặng Văn Lung một lần nữa đã khẳng định vị trí và vai trò quan trọng của văn học dân gian đối với sự phát triển của nền văn học dân tộc. 5 * Một số bài viết, công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa ca dao với thơ Bài viết: “Những yếu tố trùng lặp trong ca dao trữ tình” của Đặng Văn Lung trên TCVH số 10/ 1968 đã đề cập đến nhiều yếu tố trùng lặp của ca dao được các nhà thơ vận dụng. Tác giả cũng đã phân tích, chỉ ra những yếu tố như hình ảnh, kết cấu, ngôn ngữ của ca dao được vay mượn để thể hiện những nội dung mới. Nguyễn Khắc Xương có bài viết: “Tản Đà và văn học dân gian” TCVH số 4/1986 đã đề cập đến Tản Đà – nhà thơ làm chiếc cầu nối giữa thơ cũ và thơ mới, cho rằng sáng tác của Tản Đà có sức ảnh hưởng lớn trong quần chúng nhân dân lao động một phần nhờ vào chất dân gian và mang tính dân tộc.“Những câu thơ, bài hát của Tản Đà thấm đọng được sâu trong lớp bình dân và được đông đảo quần chúng nghệ thuật tán thưởng, một phần quan trọng là bởi được sáng tác với ngôn ngữ của văn học dân gian, với những chất liệu nghệ thuật mà người lao động đã dùng để lần lần xây dựng nên một nền văn hóa dân tộc truyền thống” [73, tr.423] Trên TCVH số 11/1995, nhà nghiên cứu Phan Diễm Phương có bài “Thể thơ dân tộc và sự lựa chọn của nền văn học mới”. Bài viết đã đề cập đến một số thể thơ dân tộc căn cứ vào số tiếng: thể thơ 4 tiếng, 5 tiếng được các nhà thơ hiện đại sử dụng nhiều vì nó phù hợp với lối nói của đông đảo quần chúng đang làm chủ cuộc sống mới. Thể thơ song thất lục bát thưa vắng dần. Đặc biệt, thể thơ lục bát chiếm ưu thế hơn cả, với tỉ lệ 14%, trong đó tồn tại cả lục bát nguyên thể và phối xen. Tác giả khẳng định: “Thơ Việt Nam sau 1945 đã tỏ ra rất gắn bó với những gì thuộc dân tộc mình, trong đó có việc tiếp thu những di sản văn học của ông cha. Sử dụng thể thơ truyền thống trở thành một vấn đề tự nhiên, diễn ra một cách thường xuyên. Tuy nhiên, đó cũng là một sự tiếp thu có lựa chọn, có phê phán và trên tinh thần không 6 ngừng đổi mới, sáng tạo” [56, tr.418] Đề tài cao học: “Mối quan hệ giữa ca dao và truyện Kiều của Nguyễn Du” của Thạc sĩ Dương Lê Hồng, Trường ĐHKHXH&NV Tp.HCM năm 1999 đã nghiên cứu sự ảnh hưởng qua lại giữa ca dao và truyện Kiều. Truyện Kiều của Nguyễn Du chịu ảnh hưởng và vận dụng nhiều từ ca dao về mặt ngôn ngữ, thể thơ còn ca dao cũng chịu ảnh hưởng từ truyện Kiều trong việc vay mượn một số tên nhân vật của Truyện Kiều và một vài yếu tố khác. Nguyễn Đức Hạnh ở bài viết: “Một số biểu tượng dân gian trong thơ Việt Nam hiện đại” - TCVH số 3/2001 đã nghiên cứu sự xuất hiện của một số biểu tượng quen thuộc của ca dao trong thơ, những biểu tượng: núi sông, thuyền bến, lửa đèn ... đã được các nhà thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ vận dụng. Luận văn thạc sĩ của Vũ Thị Mai với đề tài: “Phong cách thơ Nguyễn Duy” - Trường ĐHKHXH&NV Tp. HCM năm 2007 đã khảo sát, nghiên cứu và chỉ ra những dấu vết của ca dao in đậm trong phong cách thơ Nguyễn Duy qua cách dùng các từ láy, đại từ phiếm chỉ và việc vận dụng thể thơ lục bát một cách nhuần nhuyễn, điêu luyện. Tác giả Tăng Thị Bích Thương đã thực hiện đề tài cao học: “Ảnh hưởng của ca dao đối với một số nhà thơ Việt Nam hiện đại”– Trường ĐHKHXH&NV Tp.HCM năm 2009. Công trình đã khảo sát, nghiên cứu sự ảnh hưởng của ca dao đối với nhà thơ nổi tiếng: Nguyễn Bính, Nguyễn Duy, Tố Hữu, Xuân Quỳnh trên các phương diện nghệ thuật: ngôn ngữ, hình ảnh, biểu tượng, thể thơ và kết cấu. Tác giả viết: “Nguyễn Bính, Tố Hữu, Nguyễn Duy và một số nhà thơ hiện đại khác đã kế thừa các hình thức quen thuộc khác của ca dao để thể hiện thế giới tâm hồn mình...Giống như con ong hút nhụy để làm mật ... để sáng tác ra những vần thơ hay cho đời” [64, tr.2] Như vậy, từ trước đến nay đã có nhiều công trình, bài viết đề cập, nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết cũng như sự 7 ảnh hưởng của ca dao đến thơ hiện đại. Mỗi tác giả cũng có những phát hiện và đưa ra những kiến giải quan trọng, góp phần mở ra những hướng nghiên cứu cho những người đi sau. Tuy nhiên, trong nhiều công trình nghiên về mối quan hệ giữa ca dao và thơ, các tác giả mới đi sâu tìm hiểu những ảnh hưởng của ca dao đối với thơ hiện đại ở một số nhà thơ lớn đã định hình về phong cách, chủ yếu là thơ giai đoạn trước 1975. Còn việc ảnh hưởng vận dụng ca dao vào thơ của những nhà thơ chuyên nghiệp và nghiệp dư từ năm 1975 đến nay là một vấn đề còn bỏ ngõ. Vì vậy, đề tài cao học“Khảo sát sự vận dụng ca dao trong thơ trên báo Văn nghệ năm 2009” sẽ góp phần khẳng định có sự vận dụng ca dao trong thơ của nhiều tác giả của nhiều tác giả. Luận văn sẽ khai thác và trình bày sự vận dụng ca vào thơ dưới góc độ thi pháp ca dao một cách có hệ thống, chỉ ra được nét riêng, nét độc đáo, nêu lên ý nghĩa và tác dụng của sự vận dụng. Đồng thời góp phần khẳng định việc vận dụng ca dao trong thơ trở thành một trào lưu sáng tác của thơ ca hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Hiện nay, hầu hết ở mỗi tỉnh thành đều có một tờ báo Văn nghệ như: Văn nghệ Bà Rịa Vũng Tàu, Văn nghệ Bình Thuận, Văn nghệ Đồng Nai ... và trong các ngành nghề cũng có báo Văn nghệ như: Văn nghệ Quân đội, Văn nghệ Công an... Tác giả luận văn chọn thơ đăng bốn tờ báo Văn nghệ Trung Ương, Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ Tp.HCM, Văn nghệ Công an năm 2009 làm đối tượng nghiên cứu vì cho rằng, đây là những tờ báo có uy tín và có chất lượng nhiều mặt: nhiều bài thơ hay; đề tài phong phú; số lượng bài thơ được đăng nhiều; lực lượng tham gia sáng tác đông đảo, đa dạng. Đồng thời, việc chọn thơ trên bốn tờ báo Văn nghệ năm 2009 là một sự ngẫu nhiên, đây là năm tác giả bắt đầu thực hiện luận văn. Những bài thơ này là sáng tác gần nhất, thể hiện cho phong cách chung của các nhà thơ hiện nay. 8 Trong bốn tờ báo khảo sát, có hơn 600 tác giả tham gia sáng tác, có cả tác giả chuyên nghiệp và nghiệp dư, già và trẻ, các nhà thơ sinh sống, lao động trên khắp mọi miền của đất nước. Có những nhà thơ chuyên nghiệp tiêu biểu như: Nguyễn Khoa Điềm, Trần Đăng Khoa, Phạm Tiến Duật, Vũ quần Phương, Lâm Thị Mỹ Dạ, Y Phương, Nguyễn Minh Khiêm, Quang Chuyền, Tú Rót... và nhiều nhà thơ nghiệp dư như: Nguyễn Thành Phong, Nguyễn Bảo Chân, Hàm Anh, Phạm Thị Nhung, Tuyết Nga, Anh Vũ... Tổng số bài thơ đăng trên bốn tờ báo là 1919, tính từ ngày 1/1/2009 đến ngày 31/12/2009. Trong đó, báo Văn nghệ Trung Ương có 777 bài, phát hành 52 số/ 12 tháng; Văn nghệ TP.HCM có 379 bài, phát hành 48 số/ 12 tháng; Văn nghệ Trẻ có 594 bài, phát hành 52 số/ 12 tháng; Văn nghệ Công an có 169 bài, phát hành 24 số/ 12 tháng. Tác giả khảo sát trên 1919 bài thơ, những bài thơ nào có sự vận dụng ca dao đều được tìm hiểu, khai thác, không phân biệt các thể thơ: lục bát, song thất lục bát, thất ngôn bát cú, thể vãn hay tự do và cũng không phân biệt thơ trữ tình, tự sự hay trào phúng. Qua khảo sát, tác giả nhận thấy, sự vận dụng ca dao vào thơ không chỉ dừng lại ở trường hợp đơn lẻ mà thể hiện khá đầy đủ trên nhiều phương diện: ngôn ngữ, thể thơ, hình ảnh, biểu tượng, kết cấu, không gian và thời gian nghệ thuật. Mỗi sự vận dụng vừa thể hiện sự kế thừa và ý thức chọn lọc, sáng tạo của nhà thơ, để lại những vần thơ giàu sức biểu cảm và đạt nghệ thuật. Vì vậy, phạm vi nghiên cứu của đề tài là khảo sát sự vận dụng ca dao trong thơ trên báo Văn nghệ năm 2009 trên các phương diện nghệ thuật, bao gồm: ngôn ngữ, hình ảnh, biểu tượng, thể thơ, kết cấu, không gian và thời gian nghệ thuật. Tác giả đưa ra quy ước khi trích dẫn nguồn tài liệu như sau: 9 Tên báo được quy ước theo số thứ tự: Số 1- Báo Văn nghệ Trung Ương; Số 2 – Văn nghệ Tp.HCM; Số 3 – Văn nghệ Trẻ; Số 4 – Văn nghệ Công An. Trích dẫn về thơ trên báo Văn nghệ hoặc tên tác giả của bài thơ nào đó, tác giả sử dụng dấu ngoặc đơn ( ), theo thứ tự: tên bài thơ, tên tác giả, tên báo, số báo. Ví dụ: (Hồn quê, Nguyễn Tường Thuật, 3, số 20) hoặc (Chế Lan Viên). Các ký hiệu này có nghĩa là: bài thơ Hồn quê của tác giả Nguyễn Tường Thuật đăng trên báo Văn nghệ Trẻ, số báo 20) hoặc tác giả Chế Lan Viên. 4. Mục đích nghiên cứu * Phát hiện và ghi nhận những biểu hiện của sự vận dụng ca dao trong thơ trên báo Văn nghệ năm 2009 của nhiều tác giả như là một xu thế chung của trào lưu sáng tác thơ ca hiện đại. * Phân tích và chỉ ra những yếu tố của ca dao được vận dụng vào trong các bài thơ một cách cụ thể, nêu ý nghĩa và tác dụng của sự vận dụng đó. * Chỉ ra cái riêng, nét độc đáo của việc vận dụng ca dao trong thơ trên báo Văn nghệ năm 2009 của nhiều tác giả. Từ đó rút ra được những bài học cụ thể trong việc tiếp thu, vận dụng ca dao trong việc sáng tạo thơ ca mới. 5. Phương pháp nghiên cứu * Phương pháp so sánh Dùng để so sánh thơ với ca dao trên các phương diện: ngôn ngữ, biểu tượng, thể thơ, kết cấu, không gian, thời gian để thấy được những nét tương đồng, khác biệt trong sự vận dụng của các nhà thơ, giúp người đọc thấy được sự ảnh hưởng của ca dao đối với thơ ca hiện đại và những chất liệu ca dao được các nhà thơ vận dụng một cách có chủ ý, sáng tạo. 10 * Phương pháp thống kê Thống kê số lượng các bài thơ, thể thơ và tần số xuất hiện của yếu tố ca dao trong bài thơ được khảo sát như: biểu tượng; không gian và thời gian nghệ thuật. Từ đây khẳng định sự vận dụng chất liệu ca dao trong thơ như là sự kế thừa truyền thống văn học dân tộc. * Phương pháp phân tích, tổng hợp Phân tích các yếu tố ca dao được vận dụng trong thơ theo các đề mục của luận văn, chỉ ra cũng như cái hay và những hạn chế của sự vận dụng, đánh giá, tổng hợp, rút ra nhận xét chung trên phương diện nội dung và nghệ thuật, đưa ra kết luận cần thiết và nêu ý nghĩa, tác dụng của sự vận dụng. * Phương pháp nghiên cứu liên ngành Sử dụng kết hợp kiến thức của nhiều ngành khoa học khác như: triết học, xã hội học, mỹ học, văn hóa học, dân tộc học ... trong quá trình thực hiện luận văn để đưa ra những nhận định, những đánh giá khách quan, khoa học. 6. Đóng góp mới của luận văn Luận văn nghiên cứu đầy đủ và trình bày hệ thống về sự vận dụng ca dao trong thơ trên báo Văn Nghệ năm 2009 ở phương diện hình thức nghệ thuật. Góp phần chứng minh sự vận dụng ca dao trong thơ trên báo Văn nghệ năm 2009 tuân theo quy luật vận động và phát triển của văn học. Các nhà thơ đã vận dụng ca dao vào thơ một cách có ý thức tạo nên một “sức sống mới” cho ca dao trong dòng chảy chung của thơ ca hiện đại. 7. Cấu trúc luận văn Ngoài phần dẫn nhập, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được triển khai thành 3 chương sau: * Chương 1 Gồm 43 trang, tác giả trình bày một số vấn đề chung nhằm giúp người đọc có được cái nhìn bao quát về ca dao và thơ. Trong đó có 28 trang trình 11 bày các khái niệm, đặc điểm nội dung và nghệ thuật của ca dao và thơ, những xu hướng diện mạo thơ từ năm 1975 đến nay và giới thiệu về thơ trên báo Văn nghệ năm 2009. Còn lại 15 trang, tác giả tiếp tục trình bày những vấn đề chung làm cơ sở lí luận cho những luận văn: sự vận dụng ca dao trong thơ trên báo Văn nghệ là một quá trình vận động mang tính kế thừa, chịu sự tác động của tư tưởng, thời đại và tích lũy, chọn lọc của các nhà thơ. * Chương 2 Gồm 41 trang, tác giả trình bày những vấn đề lý thuyết về ngôn ngữ, hình ảnh và biểu tượng của ca dao làm cơ sở cho phần vận dụng. Trong phần vận dụng ngôn ngữ, người viết đưa ra những luận điểm để phân tích và chứng minh có sự vận dụng ngôn ngữ ca dao vào bài thơ trên hai phương diện: vận dụng cả câu và một số yếu tố ca dao (cụm từ mở đầu nằm xen trong bài thơ, âm thanh, vận dụng đại từ, phép tu từ). Phần vận dụng hình ảnh của ca dao, người viết nghiên cứu sự vận dụng hình ảnh quen thuộc và một số biểu tượng (trầu cau, con đò, con cò). * Chương 3 Gồm 30 trang, nghiên cứu sự vận dụng thể thơ, kết cấu, không gian và thời gian nghệ thuật của ca dao. Đưa ra những số liệu thống kê về bài thơ, thể thơ, tìm hiểu sự vận dụng thể thơ lục bát và song thất lục bát. Tìm hiểu về sự vận dụng kết cấu (kết cấu trần thuật, kết cấu công thức) và một số đặc điểm về thời gian, không gian nghệ thuật. Trong mỗi luận điểm, tác giả trình bày những vấn đề lý thuyết của ca dao làm cơ sở cho sự vận dụng. 12 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ SỰ VẬN DỤNG CA DAO TRONG THƠ TRÊN BÁO VĂN NGHỆ NĂM 2009 1.1. Giới thiệu chung về ca dao và thơ 1.1.1. Giới thiệu chung về ca dao Có rất nhiều định nghĩa về ca dao, theo từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán chủ biên đã định nghĩa: “Ca dao là danh từ ghép chỉ chung toàn bộ những bài hát lưu hành phổ biến trong dân gian, có hoặc không có khúc điệu” [15, tr.31]. Nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Kính cũng đưa ra định nghĩa: “Ca dao là những sáng tác văn chương được phổ biến rộng rãi, được lưu truyền qua nhiều thế hệ, mang những đặc điểm nhất định và bền vững về phong cách. Và ca dao đã trở thành một thuật ngữ dùng để chỉ một thể thơ dân gian” [31, tr.56]. Từ những định nghĩa trên ta có thể hiểu ca dao là một thuật ngữ chỉ về thể thơ dân gian, có những đặc điểm khác với dân ca, là những sáng tác của quần chúng nhân dân lao động, lưu truyền bằng miệng và có nhiều dị bản. Ca dao là một thể loại trữ tình của văn học dân gian, là nơi bộc lộ rõ nhất tâm hồn dân tộc. Ca dao thổ lộ tâm tình, bày tỏ suy nghĩ về cuộc sống, về những mối quan hệ giữa con người trong lao động, trong sinh hoạt gia đình và xã hội. Những công việc thường ngày của người bình dân như: cấy lúa, chèo thuyền, dệt vải, đối đáp giao duyên trong những đêm trăng, lễ hội ... đã đi vào ca dao một cách tự nhiên. Trong quá trình lao động, những câu ca dao còn được hát lên trên ruộng đồng, sông nước thể hiện tình cảm của người lao động, tạo thêm niềm vui, giúp họ quên đi sự gian khổ, mệt nhọc. Vì vậy, ca dao trở thành một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người bình dân. 13 Ca dao bao giờ cũng bộc lộ thái độ chủ quan của con người đối với những hiện tượng khách quan, chứ không phải miêu tả một cách khách quan những hiện tượng của cuộc sống. Vì thế cái tôi trữ tình được bộc lộ rõ và thể hiện ở nhiều phương diện. Về nội dung, ca dao có những đặc điểm nổi bật sau: Ca dao thể hiện tình yêu quê hương sâu nặng, nghĩa tình, đó là tình yêu nơi chôn nhau cắt rốn, yêu đồng lúa xanh, yêu lũy tre, mái đình, cây đa, ao sen đầu làng... Tình yêu ấy thật sâu sắc, để lại một nỗi nhớ không bao giờ quên trong lòng người xa quê: Anh đi anh nhớ quê nhà/ Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương/ Nhớ ai dãi nắng dầm sương/ Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao. Nhiều tên đất, tên làng xuất hiện với tần số rất cao, gắn liền với những sản vật của từng vùng miền, thể hiện niềm tự hào: Ai qua phố Nhổn, phố Lai/ Dừng chân ăn miếng chả đài thơm ngon/ Ngọt thay cái quả cam tròn/ Vừa thơm vừa mát hãy còn ở Canh; Ai về Hà Tĩnh thì về/ Mặc lụa chợ Hạ, uống chè Hương Sơn. Tên đất, tên làng còn gắn liền với những chiến công oanh liệt của cha ông ta trong quá khứ được ca dao tái hiện lại với niềm tự hào thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”: Ai về Hậu Lộc Phú Điền/ Nhớ đây bà Triệu trận tiền xung phong. Nhiều bức tranh đầy màu sắc về đất nước Việt Nam được ca dao dựng nên thật hùng vĩ, tươi đẹp: Quê ta có dải sông Hàn/ Có chùa Non Nước, có hang Sơn Trà; Cầu Trường Tiền mười hai nhịp bắc qua/ Tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ đợi khách câu ca thái bình. Ca dao thể hiện những quan hệ tình cảm gắn liền với đạo lý truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam. Mỗi mối quan hệ đều được ca dao thể hiện mang những vẻ đẹp, những giá trị nhân bản sâu sắc. Lời ru ầu ơ hằng ngày của mẹ trở thành âm thanh chứa đựng tình mẫu tử thiêng liêng: Cái ngủ mày ngủ cho lâu/ Mẹ mày đi cấy đồng sâu chưa về/ Bắt được con giếc con trê/ Cầm cổ lôi về bắc nước làm lông/ Miếng nạc thời để phần chồng/ Miếng 14 xương mẹ gặm, miềng lòng con ăn. Truyền thống “tôn sư trọng đạo” cũng được gìn giữ và phát huy: Muốn sang thì bắc cầu kiều/ Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy. Hay tình nghĩa bằng hữu cũng luôn được gìn giữ: Bạn bè là nghĩa tương tri/ Sao cho sau trước một bề mới nên. Đặc biệt hơn, những bài ca dao tình nghĩa vợ chồng chiếm một số lượng khá lớn trong kho tàng ca dao: Chồng ta áo rách ta thương/ Chồng người áo gấm xông hương mặc người ... Trong các mối quan hệ giữa con người với con người thì mảng ca dao về tình yêu nam nữ luôn có sức hấp dẫn nhất, được sáng tác nhiều nhất và chứa đựng nhiều cung bậc tình cảm. Trong cuộc sống người bình dân xưa, bên cạnh cuộc sống trong vòng lễ giáo phong kiến hà khắc thì trai gái có điều kiện gặp gỡ, thổ lộ tình cảm với nhau trong khi lao động, hội hè, đình đám, vui xuân. Họ đã bộc lộ những tình cảm yêu thương, nhớ nhung: Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ/ Đêm quên giấc ngủ ngày mơ tiếng cười. Rồi họ mơ ước được thành vợ, thành chồng: Ước gì anh biến ra cau/ em hóa ra bẹ, ấp nhau tứ mùa. Nhưng đôi khi, tình yêu không trọn vẹn thì tràn ngập trong câu ca những đau khổ, nuối tiếc, hờn ghen, oán trách: Tìm em như thể tìm chim/ Chim bay bể Bắc anh tìm bể Đông; Tằm ơi say đắm nơi đâu/ Mà tằm bỏ nghĩa cành dâu không nhìn; Trách ai tham phú phụ bần/ Tham xa mà bỏ nghĩa gần thưở xưa. Ca dao còn là những câu hát than thân. Có lẽ, do sống trong xã hội phong kiến đầy áp bức, bất công, những định kiến, tập tục của làng xã luôn là sợi dây vô hình giam hãm những người bình dân, khiến họ phải sống những kiếp sống tủi cực, từ đời này sang đời khác, vì thế họ đã thốt lên những lời than thân: Thương thay thân phận con rùa/ Trên đình đội hạc dưới chùa đội bia; Thân anh như cái tàn vàng/ Thân em như cái chiếu rách nhà hàng bỏ quên. Trong đó, thân phận người phụ nữ được phản ánh một cách sâu sắc, họ chịu nhiều đau khổ và bất công, bị ép duyên, chịu cảnh làm lẻ với nhiều đắng
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan