Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khảo sát quá trình lên men acid lactic bởi lactobacillus drebrueckii...

Tài liệu Khảo sát quá trình lên men acid lactic bởi lactobacillus drebrueckii

.PDF
56
143
51

Mô tả:

Đồ án tốt nghiệp GVHD: TS.Nguyễn Thúy Hương CHƯƠNG 1. MỞ ĐẦU 1.1. Đặt vấn đề Hiện nay kỹ thuật cố định tế bào đang được đề cập và quan tâm nhiều đặc biệt trong các lĩnh vực lên men sản xuất các sản phẩm trao đổi chất. Tế bào cố đọnh có nhiều ưu điểm hơn tế bào tự do như: Enzyme của tế bào ổn định hơn enzyme ở dạng tự do khi tế bào được gắn trên chất mang polymer tự nhiên, cố định tế bào vi sinh vật không đồi hỏi khâu tách chiết và tinh sạch sản phẩm. Tế bào vi sinh vật cố định không bị lẫn vào sản phẩm và có thể chủ động ngừng phản ứng theo ý muốn. Có thể được sử dụng nhiều lần theo chu kỳ hoặc liên tục. Acid lactic là sản phẩm của quá trình lên men lactic bởi vi khuẩn lactic. Có ứng dụng rất nhiều trong công nghiệp, thực phẩm, y dược. Trong công nghiệp nhẹ, acid lactic là dung môi cho công nghiệp sản xuất sơn, vecni, nhuộm và thuộc da…, trong công nghệ thực phẩm ứng dụng để làm chua quả, sản xuất dưa chua, các sản phẩm lên men từ sữa,sản xuất các loại sữa và bột giàu canxi … Trong y học, người ta sử dụng vật liệu có tên là purasorb ( là một hợp chất cao phân tử được sản xuất từ acid lactic) Purasorb được sử dụng như những đinh gim, gắn phần xương lại với nhau. Ngoài ra các nhà khoa học đang nghiên cứu tạo ra những vật liệu sinh học dùng trong y học bằng các copolyme của acid lactic, chất dẻo mới thay thế cho chất dẻo cũ khó phân hủy… Tuy acid lactic được ứng dụng rất nhiều nhưng chưa có nhiều phương nghiên cứu ứng dụng các phương pháp khác vào quá trình lên men nhằm làm tăng hiệu suất lên men thu nhận acid lactic. Trên cơ sở vấn đề đặt ra, việc áp dụng phương pháp cố định tế bào trong sản xuất lên men acid lactic là một hướng nghiên cứu trong việc tìm kiếm các phương pháp lên men nhằm làm tăng hiệu suất lên men acid lactic. 1.2. Mục tiêu đề tài Với mục tiêu đề tài là sử dụng chế phẩm Lactobacillus delbrueckii cố định để lên men liên tục thu nhận acid lactic. Đề tài được tiến hành với các thí nhiệm sau: _Khảo sát các quá trình ảnh hưởng đến lên men acid lactic ( lên men theo mẻ): Độ Brix, pH, thời gian lên men. _ Xác định tốc độ pha loãng tối ưu của hệ thống lên men liên tục _Kiểm tra tính ổn định của hệ thống lên men liên tục. SVTH: Trần Thị Thu Giang 1 Đồ án tốt nghiệp GVHD: TS.Nguyễn Thúy Hương CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. Giới thiệu về lên men acid lactic 2.1.1. Đặc điểm của acid lactic Acid lactic là chất hữu cơ không màu, mùi nhẹ, tan trong nước và cồn. Công thức hóa học của acid lactic là CH3CHOHCOOH. Khối lượng phân tử của acid lactic là 98,08. Nhiệt độ sôi là 122oC, điểm tan 17oC Acid lactic còn có tên gọi khác là 1-hydroxyethanol cacboxylic hay acid 2hydroxypropanoic. Trong cấu tạo phân tử của chúng có một cacbon bất đối xứng nên chúng có 2 đồng phân quang học: D-acid lactic và L-acid lactic. Hai đồng phân quang học này có tính chất hoá lý giống nhau, nhưng chỉ khác là khả năng làm quay mặt phẳng phân cực của ánh sáng. Do đó tính chất sinh học của chúng hoàn toàn khác nhau. Loại L-acid lactic ở dạng tinh thể, tan trong nước, cồn etylic, eter, không tan trong CHCl3. Nhiệt độ nóng chảy là 28oC, góc quay cực ở 15oC là 2,67 o. Loại D-acid lactic ở dạng tinh thể, tan trong nước, cồn. Nhiệt độ nóng chảy là 28 oC, nhiệt độ sôi 103 oC, góc quay cực ở 15 oC là -2,26 o. Nếu D-acid lactic và L-acid lactic có trong một hỗn hợp theo tỷ lệ 50/50 người ta gọi là hỗn hợp Raxemic. Hỗn hợp này được ký hiệu là D1 acid lactic. Trong quá trình lên men không khi nào có một hỗn hợp có tỷ lệ lý tưởng này mà chỉ có được hỗn hợp này khi tiến hành tổng hợp hữu cơ. DL-acid lactic là dịch lỏng dạng siro, có khả năng tan trong nước, trong cồn, không tan trong CHCl3. Nhiệt độ nóng chảy của chúng là 16,7 oC, nhiệt độ sôi là 122 oC. [6] 2.1.2. Lên men lactic Lên men lactic là quá trình chuyển hoá đường thành acid lactic nhờ vi sinh vật, điển hình là vi khuẩn lactic. Lên men lactic là một trong những loại hình lên men phát triển nhất trong thiên nhiên. Lên men lactic là một quá trình trao đổi năng lượng. Các phân tử ATP được hình thành trong quá trình chuyển hoá cơ chất (lactose) sẽ được vi khuẩn giữ lại trong tế bào để phục vụ cho quá trình trao đổi và sinh trưởng của vi sinh vật. Ngược lại các sản phẩm như acid lactic, ethanol, CO2 được vi khuẩn thải vào môi trường lên SVTH: Trần Thị Thu Giang 2 Đồ án tốt nghiệp GVHD: TS.Nguyễn Thúy Hương men. Kết quả là hàm lượng acid lactic tích lũy trong môi trường lên men ngày càng tăng, làm giảm pH môi trường và kéo theo những biến đổi lý hoá khác. Trong quá trình lên men lactic, ngoài sản phẩm là acid lactic, acid acetic, ethanol, CO2 trong dịch lên men còn xuất hiện cả trăm hợp chất hoá học mới khác. Chúng là sản phẩm trung gian hoặc sản phẩm phụ của quá trình lên men. Hàm lượng của chúng trong dịch lên men thường rất thấp ( vài ppm hoặc ít hơn ). Một số hợp chất trong nhóm trên rất dễ bay hơi. Chúng đóng vai trò quan trọng trong việc góp phần hình thành nên mùi vị đặc trưng cho những sản phẩm lên men lactic. Khi nồng độ của acid lactic đạt 2 – 3% sẽ ức chế hoạt động của các vi sinh vật khác, kể cả E.coli. Chính vì thế nên lên men lactic được ứng dụng để sản xuất nhiều sản phẩm khác nhau như: sữa chua, bơ, dưa chua… Phương trình tóm tắt của quá trình lên men lactic: C6H12O6→2C3H6O3 + 136Kj (32,4 Kcal) Lên men lactic gồm có lên men đồng hình và lên men dị hình Lên men đồng hình: Lượng acid lactic tạo thành chiếm hơn 90%, chỉ một lượng nhỏ pyruvat bị khử carbon chuyển thành acid acetic, ethanol, CO2, và acetoin. Lượng sản phẩm phụ tạo ra phụ thuộc sự có mặt của oxy. Các chủng vi sinh vật được sử dụng trong lên men đồng hình như: Lactobacterium casei, Lactobacterium cremoris, Lactobacterium bulgaricus, Lactobacterium delbruckii… Phương trình tổng quát trong quá trình lên men đồng hình: C6H12O6 + 2ADP + 2Pi → 2CH3CHOHCOOH + 2ATP Trong một số trường hợp, Lên men đồng hình có thể được chuyển sang dạng dị hình khi điều kiện lên men thay đổi. Lên men dị hình: Chỉ có 50% lượng đường tạo thành acid lactic, ngoài ra còn có các sản phẩm phụ tương tác với nhau tạo thành ester có mùi thơm. Phương trình tổng quát trong quá trình lên men dị hình: C6H12O6 → CH3CHOHCOOH + CH3COOH + C2H5OH Lượng sản phẩm phụ tạo thành hoàn toàn phụ thuộc vào giống vi sinh vật, môi trường dinh dưỡng và điều kiện ngoại cảnh. Acid lactic thường chiếm 40% SVTH: Trần Thị Thu Giang 3 Đồ án tốt nghiệp GVHD: TS.Nguyễn Thúy Hương lượng đường đã được phân huỷ, acid suecinic 20%, rượu etylic 10%, acid acetic 10%, và các loại khí gần 20% .[6] 2.1.3. Vi khuẩn lên men lactic 2.1.3.1. Đặc điểm chung Vi khuẩn lactic thuộc Lactobacilliaceae. Acid lactic được phát hiện vào năm 1780 nhờ nhà hoá học Sheele người Thụy Điển, ở sữa chua, acid lactic được thừa nhận là sản phẩm của quá trình lên men vào năm 1847. Vi khuẩn lactic thuộc vi khuẩn Gram (+), không di động, không có khả năng tạo bào tử ( tuy nhiên hiện nay người ta đã tìm thấy một số giống thuộc họ vi khuẩn lactic có khả năng tạo bào tử). Vi khuẩn lactic thuộc vi khuẩn hiếu khí tuỳ tiện, không chứa cytochrom và enzyme catalase, có khả năng sinh tổng hợp enzyme peroxydase rất mạnh. Chúng phân giải H2O2 để tạo ra H2O và O2 để phát triển. Theo khóa phân loại của Bergay, họ Lactobacilliaceae chia làm 2 họ: Streptococeae và Lactobacieae Streptococeae lại chia ra Streptococcus và Leuconostoc. Lactobacileae chỉ có 1 loài là Lactobacillus Vi khuẩn lactic có nhiều trong thiên nhiên. Chúng tồn tại nhiều ở cỏ, nhất là cỏ khô, trong cơ thể người và động vật, trong miệng, ruột. Một số loài trong họ vi khuẩn lactic như Streptococcus có khả năng gây bệnh. Nhóm vi khuẩn lactic rất đa dạng gồm nhiều giống rất khác nhau, tế bào của chúng có thể là hình cầu, hình que...Phân biệt chúng về khả năng lên men đồng hình hay dị hình. Khả năng tổng hợp nhiều hợp chất cần cho sự sống của những vi khuẩn này rất yếu.[7] Các loài vi khuẩn lactic khác nhau tạo thành acid lactic trong môi trường và như vậy sức chịu acid cũng khác nhau. Đa số các trực khuẩn lactic đồng hình tạo thành acid cao hơn ( khoảng 2-3,5%), liên cầu khuẩn (khoảng 1%). Các trực khuẩn này có thể phát triển ở pH: 3.8 – 4, cầu khuẩn không thể phát triển ở môi trường này. Hoạt lực lên men tốt nhất ở vùng pH: 5.5 – 6.0 . Đa số vi khuẩn lactic, đặc biệt là trực khuẩn đồng hình rất kén chọn thành phần dinh dưỡng trong môi trường và chỉ phát triển được trong môi trường có tương đối đầy đủ các acid amin hoặc các hợp chất nitơ phức tạp. Ngoài ta chúng còn nhu SVTH: Trần Thị Thu Giang 4 Đồ án tốt nghiệp GVHD: TS.Nguyễn Thúy Hương cầu về vitamin (B1, B2, B6, PP), các acid pantotenic và folic. Bởi vậy, môi trường nuôi vi khuẩn lactic có thành phần khá phức tạp. [1] Vi khuẩn lactic chịu được ở trạng thái khô hạn, bền vững với CO2 và cồn etylic, nhiều loài vẫn sống được trong môi trường có 10 – 15% cồn hoặc cao hơn, một số trực khuẩn bền với NaCl (tới 7 – 10%). Các vi khuẩn lactic ưa lạnh phát triển ở nhiệt độ tương đối thấp (5 oC hoặc thấp hơn), các loài ưa ấm có nhiệt độ sinh trưởng tối thích là 25 - 35 oC, các loài ưa nhiệt có nhiệt độ tối thích là 40 – 45 oC. Khi gia nhiệt tới 60 – 80 oC hầu hết chúng bị chết sau 10 – 30 phút. Sự phát triển của nó cần có sự có mặt của peptone, acid amin hay muối amôn. Chúng có yêu cầu đặc biệt về chất dinh dưỡng là giàu vitamin, acid amin và khoáng chất. Quá trình lên men xảy ra tốt nhất trong môi trường acid pH từ 5.5 – 6, khi pH nhỏ hơn 5.5 quá trình lên men bị dừng lại. Vi khuẩn lactic có hoạt tính proteaza: phân huỷ protein của sữa thành các peptid và acid amin. Hoạt tính này ở các loài là khác nhau, thường là trực khuẩn cao hơn. Vi khuẩn lactic lên men được đa số disacarit. Chúng có khả năng lên men nhiều loại đường đơn và đường đôi nhưng không có khả năng lên men các loại glucid phức tạp và tinh bột, chỉ có loài L.delbrueckii là đồng hoá được tinh bột. Một số vi khuẩn lên men lactic dị hình sử dụng được pentoza và acid citric. Một số loài có khả năng tạo thành màng nhầy. Một số khác có khả năng đối kháng với thể hoại sinh và các vi sinh vật gây bệnh hoặc làm thối rửa thực phẩm. Như vậy, ngoài khả năng tạo thành acid lactic, các loài này còn có khả năng sinh ra các hợp chất có hoạt tính kháng sinh ( người ta gọi các hợp chất này là bacteriocin). Những chất kháng sinh này không dùng trong y học mà chỉ được dùng trong bảo quản thực phẩm có hiệu quả khả quan. Các vi khuẩn lactic ngoài việc tạo thành acid còn có 1 số loài tạo được chất thơm ( diacetyl, acetoin, acid bay hơi...) như Streptococcus diacetylactic. Vi khuẩn Lactobacillus có thể làm giảm hội chứng nhạy cảm đường ruột. Các vi khuẩn này có nhiệm vụ biến đổi chất xơ thực phẩm, thức ăn chưa tiêu hoá hết ở ruột non thành acid lactic, acetic, butyric, hàng loạt vitamin, acid amin, men, hocmon và các chất dinh dưỡng quan trọng khác, sinh ra các khí như NH3, CO2, H2S... SVTH: Trần Thị Thu Giang 5 Đồ án tốt nghiệp GVHD: TS.Nguyễn Thúy Hương 2.1.3.2. Các chủng vi sinh vật được sử dụng trong lên men lactic Lactobacillus Lactobacillus là tên một giống vi khuẩn, giống này có nhiều loài như Lactobacillus acidophilus, Lactobacillus sporogenes, Lactobacillus kefir... Trong đường ruột luôn có nhiều loại vi khuẩn ký sinh, trong đó có cả những loại có ích và có hại cho sức khỏe con người. Sự tồn tại của vi khuẩn lactic tạo thành sự cân bằng vi khuẩn trong đường ruột. Vi khuẩn Lactobacillus có thể làm giảm hội chứng nhạy cảm đường ruột.[6] Các vi khuẩn này có nhiệm vụ biến đổi chất xơ thực phẩm, thức ăn chưa tiêu hoá hết ở ruột non thành acid lactic, acetic, butyric, hàng loạt vitamin, acid amin, men, hocmon và các chất dinh dưỡng quan trọng khác. Nó cũng sinh ra các khí như NH3, CO2, H2S... Quá trình biến đổi đó gọi chung là quá trình lên men, mà nhờ nó, thức ăn được tiêu hoá hoàn toàn. Trong môi trường hoạt động của đại tràng, các vi khuẩn có ích có khả năng lấn áp, đè bẹp và tiêu diệt rất nhiều loại vi trùng gây bệnh. Lactobacillus cũng giúp tiêu hoá đường lactose trong sữa một cách dễ dàng hơn. Loại vi khuẩn có ích này cũng đem lại hiệu quả cao cho những người bị đau bụng tiêu chảy vì loạn khuẩn đường ruột do hậu quả của việc dùng quá nhiều kháng sinh khiến các vi khuẩn có ích bị tiêu diệt. Một nghiên cứu gần đây cho thấy, vi khuẩn Lactobacillus còn có tác dụng chữa bệnh chàm ở trẻ em. Một số chủng Lactobacillus thường dùng trong lên men lactic như: Lactobacillus bulgaricus: Lên men đồng hình, là trực khuẩn tròn, đôi khi ở dạng hạt, thường kết thành chuỗi dài, Gram (+), không có khả năng di động.Chúng có khả năng lên men được các loại đường glucose, lactose, galactose, không lên men được sacaroza, xylose, arabinose, sorbose, dulcitol, mannitol, dextrin, inulin. Chúng không có khả năng tạo ra nitrit từ nitrate. Đây là giống ưa nhiệt, nhiệt độ tối thích cho phát triển là 40 – 45 oC, tối thiểu là 15 – 20 oC. SVTH: Trần Thị Thu Giang 6 Đồ án tốt nghiệp GVHD: TS.Nguyễn Thúy Hương Hình 2.1 : Vi khuẩn Lactobacillus bulgaricus [10] Lactobacillus casei: Lên men lactic đồng hình, trực khuẩn nhỏ, Gram (+), thường gặp ở dạng chuỗi dài hoặc ngắn, tích tụ tới 1,5% acid. Chúng không có khả năng chuyển động. Có khả năng lên men được các loại đường glucose, fructose, mannose, galactose, maltose, lactose, salicin. Trong quá trình lên men chúng tạo ra D-acid lactic. Nhiệt độ tối thích cho phát triển là 38 – 40 oC, nhờ có hoạt tính proteaza nên có thể phân hủy protein trong sữa thành acid amin. Hình 2.2 : Vi khuẩn Lactobacillus casei [10] Lactobacillus lycopersici: lên men lactic dị hình, là trực khuẩn Gram (+), sinh hơi, trong thiên nhiên chúng tồn tại thành từng đôi một, có khả năng tạo bào tử. Trong quá trình lên men đường, chúng tạo ra cồn, acid lactic, acid acetic và CO2 . Ngày nay chúng được coi như các biến chủng của Lactobacillus brevis.[6] Lactobacillus pasteurianus: là trực khuẩn Gram (+), có kích thước rộng: 0.5 – 1.0µm, dài: 7.0 - 35µm. Trong thiên nhiên chúng tồn tại riêng lẻ, không di động. Chúng có khả năng lên men được arabinose, glucose, fructose, galactose, maltose, SVTH: Trần Thị Thu Giang 7 Đồ án tốt nghiệp GVHD: TS.Nguyễn Thúy Hương tạo ra một loạt các sản phẩm như: CO2, alcohol, acid lactic, acid acetic, acid formic. Nhiệt độ thích hợp từ 29 – 33 oC. Lactobacillus bifidus: trực khuẩn rất nhỏ, thuộc loại Gram (+). Chúng không có khả năng di động, có khả năng lên men được các loại đường glucose, fructose, galactose, saccharose, inulin, dextrin. Nhiệt độ phát triển tốt nhất của vi khuẩn này là 37 oC. Lactobacillus causaciccus: Trực khuẩn Gram (+) ngắn, không có khả năng chuyển động, có khả năng lên men các loại đường glucose, fructose, mannose, galactose, maltose, lactose, mannitol. Nhiệt độ phát triển tối ưu là 48 – 50 oC. Latobacillus brevis: lên men lactic dị hình, là loại trực khuẩn Gram (+), không có khả năng di động, có kích thước rộng: 0.7 – 1.0µm, dài: 2.0 – 4.0µm, tìm thấy chủ yếu trong muối chua bắp cải. Trong thiên nhiên chúng thường lêi kết với nhau thành chuỗi. Trong quá trình phát triển chúng có thể sử dụng lactate canxi như nguồn cung cấp carbon. Chúng có khả năng lên men các loại đường arbinose, xylose, gluxose, fructose, galactose, maltose. Trong lên men ngoài acid lactic (1,2%), nó còn tạo thành acid acetic, rượu etylic (2,4%), CO2, nó còn tạo hương làm cho sản phẩm có hương vị dễ chịu. Nhiệt độ phát triển tối đa là 30 oC, vi khuẩn này có nhiều trong sữa, kefia, dưa chua… Hình 2.3 Vi khuẩn Latobacillus brevis [10] Lactobacillus leichmannii: trực khuẩn Gram (+). Trong tự nhiên chúng có khả năng tạo thành chuỗi ngắn, kích thước tế bào từ 0.6 – 2.0µm. Chúng có khả năng lên men glucose, fructose, maltose, saccharose, trehalose và không có khả năng lên men lactose, galactose, raffinose, arabinose, rhamnose, dextrin, inulin. Trong quá trình lên SVTH: Trần Thị Thu Giang 8 Đồ án tốt nghiệp GVHD: TS.Nguyễn Thúy Hương men, chúng tạo ra L-acid lactic, không có khả năng tạo nitrit từ nitrat. Nhiệt độ phát triển tối ưu là 36 oC. Lactobacillus helveticcus: trực khuẩn, có kích thước rộng: 0.7 – 0.9µm, dài: 2.0 – 6.0µm. Trong thiên nhiên chúng có thể tồn tại riêng lẻ từng tế bào, cũng có thể tạo thành chuỗi tế bào. Chúng có khả năng lên men các loại đường glucose, fructose, galactose, mannose, maltose, lactose. Nhiệt độ phát triển từ 40 – 42 oC. Vi khuẩn này được sử dụng nhiều trong sản xuất sữa chua và phomai cứng. Lactobacillus thermophilus: là trực khuẩn Gram (+), kích thước tế bào 0.5 – 3.0µm, không có khả năng di động. Nhiệt độ phát triển tối ưu là 30 oC, có thể chịu được nhiệt độ 65 – 75 oC. Vi khuẩn này được sử dụng nhiều trong sản xuất sữa chua và phomai. Lactobacillus plantarum: trực khuẩn Gram (+), kích thước tế bào rộng: 0.7 – 1µm, dài 3 – 8µm. Nhiệt độ phát triển tối ưu là 30 oC, có khả năng chịu được nồng độ NaCl 5,5%. Vi khuẩn này được dùng nhiều trong chế biến sữa.[6] Hình 2.4 Vi khuẩn Lactobacillus plantarum [9] Leuconostoc Leuconostoc gồm những liên cầu khuẩn lên men lactic đồng dạng, lên men đường sinh acid lactic và 1 lượng lớn acid acetic, cồn etylic, và khí CO2. Khả năng của 2 loài Leuconostoc dextranicium và Leuconostoc citrovorum lên men acid citric của sữa với sự sản sinh chất có mùi thơm diacetyl và khả năng kích thích liên cầu khuẩn lactic làm cho chúng được đem dùng vào giai đoạn đầu của chế biến bơ và phomai. Một số đặc trưng của giống Leuconostoc cho nó vị trí quan trọng trong thực phẩm như: Sản sinh diacetyl, sự chịu đựng của những nồng độ muối cao làm cho SVTH: Trần Thị Thu Giang 9 Đồ án tốt nghiệp GVHD: TS.Nguyễn Thúy Hương Leuconostoc mesenteriodes được đem dùng ở giai đoạn đầu của sự lên men lactic. Sự chịu đựng được ở những nồng độ đường cao đến 55 – 60% (đối với Leuconostoc mesenteriodes) làm cho vi khuẩn có thể phát triển trong xiro bán lỏng và kem đá… sản sinh ra nhiều thán khí từ đường làm hư hỏng 1 số loại phomai, xiro. Hình 2.5 Vi sinh vật thuộc nhóm Leuconostoc [9] Streptococcus Streptococcus là cầu khuẩn hoặc trực khuẩn rất ngắn, chủ yếu lên men lactic đồng hình, kết song đôi hoặc thành chuỗi ngắn. Giống ưa ấm, nhiệt độ phát triển tối thiểu là 10 oC, tối đa là 40 – 45 oC và phát triển tốt ở 30 – 35 oC. Trong môi trường nó tích tụ được 0.8 – 1% acid. Một số chủng tạo thành bacteriocin. Một số dạng Streptococcus thường dùng để lên men lactic như: Streptococcus lactis: là liên cầu khuẩn Gram (+). Nhiệt độ phát triển từ 10 – 45 oC, có thể chịu được nồng độ NaCl 4%. Khi lên men đường glucose, maltose, lactose, xylose, arabinose, saccharose, trehalose, monnitol, tạo ra acid lactic, CO2, acid acetic, diacetyl. Chúng có khả năng lên men được raffinose, inulin, glycerol, sorbitol. Chúng được sử dụng rộng rãi trong chế biến các sản phẩm như sữa chua, cream – bơ chua, phomai. Streptococcus lactic có khả năng lên men 30 oC đối với sữa, đường glucose, mantose, lactose, galactose. SVTH: Trần Thị Thu Giang 10 Đồ án tốt nghiệp GVHD: TS.Nguyễn Thúy Hương Hình 2.6 Vi khuẩn Streptococcus lactis [10] Streptococcus cremoris : là tế bào hình cầu và kết thành chuỗi dài, ưa ấm và tạo ít acid trong môi trường. Nhiệt độ thích hợp cho phát triển là 25 oC, tối thiểu là 10 o C, và tối đa là 36 – 38 oC. Streptococcus thermophilus : có dạng hình cầu, kết thành chuỗi dài, phát triển tốt nhất ở nhiệt độ 40 – 45 oC, tích tụ khoảng 1% acid. Thường dùng phối hợp với trực khuẩn lactic để chế biến sữa chua và các loại đặc biệt, sữa chua nấu chín và phomai. Hình 2.7 Vi khuẩn Streptococcus thermophilus [10] Streptococcus falcalis : là tế bào Gram (+), chúng thường tạo thành chuỗi tế bào hình cầu, có khả năng chịu được nồng độ NaCl 5%, có khả năng lên men đường glucose, maltose, lactose, trehalose, silicin, sorbitol.[6] Gần đây, người ta nghiên cứu sản xuất phomai từ sữa dừa dưới tác dụng của vi khuẩn Streptococcus diacetylactis. Giống được bảo quản trong môi trường sữa và giữ trong tủ đông. Nhiệt độ nuôi cấy sinh trưởng và lên men mạnh nhất khi nuôi cấy SVTH: Trần Thị Thu Giang 11 Đồ án tốt nghiệp GVHD: TS.Nguyễn Thúy Hương ở 28 oC, phát triển khá ở 35 oC và thấp nhất ở 20 oC. Sau nhiều thử nghiệm cho thấy môi trường tốt nhất là môi trường sữa bột gầy bổ sung glucose và nước chiết nấm men. Streptococcus diacetylactis còn được gọi là Pneumococci, là cầu khuẩn Gram (+), xếp từng đôi hay thành chuỗi, có vỏ bằng polysaccharide. Pneumococci dễ bị ly giải bởi những chất hoạt động bề mặt như muối mật. Thường trú ở đường hô hấp trên của người và có thể gây viêm phổi, viêm xoang, viêm phế quản, nhiễm khuẩn máu, viêm màng não... Ở bệnh phẩm đàm hay mủ, vi khuẩn đứng riêng lẻ hay xếp thành chuỗi. Khi trở nên già thì biến thành Gram (-) và dễ tự ly giải. 2.1.4. Đặc điểm chung của Lactobacillus delbrueckii Lactobacillus delbrueckii thuộc: Giới: Bacteria Ngành: Fermicutes Lớp: Bacilli Bộ: Lactobacillilales Họ: Lactobacillaceae Giống: Lactobacillus Loài: Lactobacillus delbrueckii Trực khuẩn dài, kích thước 0,5- 0,8µm,2,0- 9,0 mm,không di động, Gram (+) Có khả năng lên men được các loại đường glucose, fructose, galactose, maltose và dexrin.Không có khả năng lên men xylose, arabinose, mannitol, inulin, rhamnose, lactose, raffinose, trehalose. Ngoài ra chúng có thể đồng hóa được tinh bột. Thường gặp trên hạt đại mạch, trên bề mặt của thực vật và xác cây đang phân giải, đây là trực khuẩn lớn. Trong quá trình phát triển của mình chúng có khả năng tạo thành sợi. Nhiệt độ tối ưu cho chúng phát triển từ 45 ÷ 50oC,pH là 4.5 – 6.8, khác với các loài khác chúng không có khả năng lên men đường lactose vì vậy chúng không được dùng trong chế biến sữa. Thông thường có khả năng lên men đường thành acid lactic trong điều kiện kỵ khí. SVTH: Trần Thị Thu Giang 12 Đồ án tốt nghiệp GVHD: TS.Nguyễn Thúy Hương 2.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của vi khuẩn lactic. 2.1.5.1. Ảnh hưởng của pH pH là số đo hoạt tính của ion hydrogen trong môi trường. Thang pH thay đổi từ 0-14, pH có ảnh hưởng rất lớn đến sinh trưởng và phát triển của vi sinh vật. Mỗi sinh vật điều có một phạm vi pH nhất định và pH sinh trưởng tốt nhất. Vi sinh vật ưa acid có pH phát triển tốt nhất khoảng 0-5.5, vi sinh vật trung tính từ 5.5-8, vi sinh vật ưa kiềm từ 8.5-11.5, vi sinh vật ưa kiềm cực đoan sinh truởng tối ưu ở pH 10 và lớn hơn. Mặc dù mỗi nhóm vi sinh vật có khoảng pH khá rộng nhưng mức chịu đựng của chúng có giới hạn nhất định. Khi pH của tế bào có sự biến đổi đột ngột sẽ phá vỡ màng sinh chất, ức chế hoạt tính của enzyme hay protein chuyển màng.[ 11] Khi pH môi trường thay đổi tương đối lớn, vi sinh vật vẫn có phương pháp thích nghi ở một giới hạn cho phép. Phần lớn pH nội bào của vi sinh vật vẫn giữ trung tính, nguyên nhân là do tính thấm H+ qua màng sinh chất tương đối thấp. Vi sinh vật trung tính thông qua hệ thống vận chuyển đã sử dụng K+ thay cho H+. Vi sinh vật ưa kiềm cực đoan dung Na+ thay cho H+ từ môi trường bên ngoài. Ngoài ra hệ thống chất đệm nội bào cũng có tác dụng ổn định pH nội bào. Trong quá trình trao đổi chất của vi sinh vật sinh ra các chất có tính acid hoặc bazơ giúp trung hòa pH môi trường. Chẳng hạn, Thiobacillus có thể oxy hóa các hợp chất chứa lưu huỳnh tạo acid sulfuric, một số vi khuẩn phân giải acid amin tạo NH3 làm kiềm hóa môi trường.[11] Vi khuẩn lactic nói chung và Lactobacillus delbrueckii nói riêng có thể phát triển được trong môi trường acid, khoảng pH của chúng có thể từ 4.5 – 8.5. Trong quá trình lên men, vi khuẩn sẽ sinh ra acid lactic, khi pH thấp hơn 4 một mặt nó sẽ ứu chế các vi khuẩn tạp nhiễm, tuy nhiên nó cũng ức chế sự phát triển của Lactobacillus delbrueckii, do đó cần phải theo dõi suốt quá trình lên men, dùng bazơ để điều chỉnh pH về thích hợp. 2.1.5.2. Ảnh hưởng của nhiệt độ Cũng giống như các sinh vật khác, nhiệt độ môi trường cũng ảnh hưởng rất lớn đối với vi sinh vật. Trên thực tế, do vi sinh vật thường là các vi sinh vật đơn bào cho nên chúng rất mẫn cảm với sự biến hóa của nhiệt đô, và thường bị biến hóa cùng với sự biến hóa về nhiệt độ của môi trường xung quanh. Chính vì vậy, nhiệt độ của tế SVTH: Trần Thị Thu Giang 13 Đồ án tốt nghiệp GVHD: TS.Nguyễn Thúy Hương bào vi sinh vật cũng phản ánh trực tiếp nhiệt độ của môi trường xung quanh. Một nhân tố quyết định ảnh hưởng của nhiệt độ đối với sự sinh trưởng của vi sinh vật đó là tính mẫn cảm với nhiệt độ của các phản ứng xúc tác nhờ enzyme. Trong phạm vi nhiệt độ thấp, khi nhiệt độ tăng lên sẽ làm tăng tốc độ sinh trưởng của vi sinh vật, vì phản ứng xúc tác nhờ enzyme cũng giống như các phản ứng hóa học nói chung, khi nhiệt độ tăng lên 10 oC tốc độ phản ứng sẽ tăng gấp đôi. Vì các phản ứng trong tế bào đều tăng cho nên toàn bộ hoạt động trao đổi chất sẽ tăng lên khi nhiệt độ cao hơn, và vi sinh vật sẽ sinh trưởng nhanh hơn. Lúc nhiệt độ tăng lên đến một lúc nhất định thì nhiệt độ càng tăng, tốc d 9ộ sinh trưởng càng giảm. Khi nhiệt độ tăng quá cao, vi sinh vật sẽ chết. Khi nhiệt độ quá cao sẽ gây ra sự biến tính của enzyme, của cá cthể vận chuyển ( transport carryers) và các protein khác. Màng sinh chất sẽ bị tổn thương vì 2 lớp lippit sẽ bị hòa tan. Do đó mặc dầu ở nhiệt độ cao các phản ứng xúc tác tiến hành càng nhanh, nhưng do các nguyên nhân nói trên mà tế bào bị tổn thương đến mức khó hồi phục và dẫn đến việc ức chế sinh trưởng. Tại điều kiện nhiệt độ rất thấp màng sinh chất bị kết đông lại, enzyme cũng ngừng hoạt động. Nói chung, nếu vựt quá nhiệt độ tốt nhất đối với vi sinh vật, chức năng và kết cấu tế bào điều bị ảnh hưởng. Nếu nhiệt độ rất thấp, tuy chức năng chịu ảnh hưởng nhưng thành phần hóa học và kết cấu không nhất thiết bị ảnh hưởng.[11] Vi khuẩn lactic trong cơ thể phát triển tốt nhất ở nhiệt độ từ 36 – 38 oC, ngược lại trong cơ thể động vật thì cao hơn từ 41 – 43 oC và có thể đạt đến 46.5 oC. Nhiệt độ tối ưu cho sự phát triển của Lactobacillus từ 30 – 40 oC. Lactobacillus delbrueckii phát triển trong khoảng nhiệt độ 10 – 50 oC (Buchta, 1983) 2.1.5.3. Ảnh hưởng của oxy Các vi sinh vật sinh trưởng trong điều kiện có oxygen được gọi là vi sinh vật hiếu khí (aerobe), còn các vi sinh vật sinh trưởng trong điều kiện không có oxygen được gọi là các vi sinh vật kỵ khí (anaerobe). Hầu hết các cơ thể đa bào đều phải cần sinh trưởng trong điều kiện có oxygen, chúng là các hiếu khí bắt buộc (obligate aerobes). Oxygen là chất nhận điện tử cuối cùng trong chuỗi vận chuyển điện tử khi hô hấp hiếu khí. Ngoài ra các vi sinh vật nhân thực (eucaryotes) hiếu khí còn dùng oxygen để tổng hợp sterol và các acid béo không bão hòa. Các vi sinh vật kỵ khí không bắt buộc ( facultative anaerobes ) không cần oxygen để sinh trưởng nhưng khi SVTH: Trần Thị Thu Giang 14 Đồ án tốt nghiệp GVHD: TS.Nguyễn Thúy Hương có oxygen thì sinh trưởng tốt hơn. Khi có oxygen chúng sử dụng phương thức hô hấp hiếu khí. Các vi sinh vật kỵ khí tùy nghi (aerotolerant anaerobes ) như vi khuẩn Enterrococcus faecalis có thể sinh trưởng như nhau trong điều kiện có hay không có oxygen. Ngược lại vi khuẩn Bacteroides, Fusobacterrium, Clostridiun pasteurianum, Methanococcus…. Sẽ bị chết khi có oxygen.[11] L. delbrueckii là vi khuẩn hiếu khí tùy tiện.Trong điều kiện hiếu khí sinh khối của vi khuẩn sẽ phát triển nhanh hơn so với điều kiện kỵ khí. Trong điều kiện hiếu khí, từ 1 phân tử glucose sẽ bị oxy hóa hoàn toàn thành CO2 và H2O và tổng hợp các enzyme, từ 1 phân tử glucose tạo ra 36 hoặc 38 ATP, trong điều kiện kỵ khí từ 1 phân tử glucose tạo ra 2ATP do đó lượng cơ chất bị phân hủy rất nhanh và tổng hợp một số chất kháng khuẩn. 2.1.6. Công nghệ sản xuất acid lactic: 2.1.6.1. Phương pháp sản xuất truyền thống: Theo phương pháp truyền thống, công nghệ sản xuất acid lactic phải trải qua 3 giai đoạn chính: Chuẩn bị môi trường lên men Người ta thường sử dụng nguồn mật rỉ vì rẻ và dễ kiếm. Trước tiên mật rỉ cần được xử lý để tẩy màu và tách các chất keo có trong mật rỉ. Để xử lý màu, người ta thường dùng than hoạt tính. Trước tiên mật rỉ cần phải được làm loãng theo tỉ lệ 1:3, sau đó cho chảy qua cột than hoạt tính.Than hoạt tính sẽ hấp phụ các chất màu. Sau đó làm loãng mật rỉ đến nồng độ chất khô 15% và dùng H2SO4 5% theo khối lượng dịch để acid hóa môi trường.H2SO4 có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình xử lý mật rỉ: H2SO4 như một chất chuyển hóa đường saccharose thành đường nghịch đảo giúp quá trình lên men sau này tốt hơn. Trong giai đọan này người ta đun dung dịch 90 – 95 oC trong 6 giờ. Tiếp tục pha loãng dung dịch đường xuống còn 5 – 10% đường và điều chỉnh pH ngược lại đến 6,3 – 6,5. Làm nguội dung dịch đường xuống 50 oC và bơm chúng vào thùng lên men để tiến hành quá trình lên men. [5] Giai đoạn lên men Vi khuẩn lactic được nuôi cấy riêng ở phân xưởng nhân giống,khi lượng giống đảm bảo về số lượng tế bào (khỏang.106 tế bào/ml) người ta chuyển giống vào SVTH: Trần Thị Thu Giang 15 Đồ án tốt nghiệp GVHD: TS.Nguyễn Thúy Hương thùng lên men với tỉ lệ giống là 2,5 – 3%. Trong quá trình lên men, người ta sử dụng vôi mịn để trung hòa lượng acid tạo thành nhằm tránh hiện tượng acid hóa dung dịch lên men và tạo ra lactate canxi.Số lượng CaCO3 cho vào tùy thuộc vào lượng acid lactic tạo thành.Duy trì pH trong dịch lên men ở mức 5 – 6. Trong quá trình lên men, người ta tiến hành khuấy trộn liên tục môi trường. Giai đoạn tạo lactate canxi và thu nhận acid lactic Sau khi lên men xong,dung dịch lên men được đun nóng đến 80 – 90 o C.Người ta dùng CaCO3 để điều chỉnh dịch đến pH 10 – 11 để yên từ 3 – 5 giờ.Sau đó loại bỏ chất lắng,lọc dịch bằng máy lọc khung bản ở nhiệt độ 70 – 80 oC. Sau khi lọc xong, toàn bộ dịch lên men được chuyển sang thiết bị kết tủa lactate canxi. Quá trình tạo kết tủa lactate canxi phải mất 10 – 16 giờ.Kết thúc quá trình, người ta đem lọc bằng máy lọc khung bản. Để riêng kết tủa và dịch lọc.Dịch lọc được đem đi cô đặc lại và tiến hành kết tủa lại 1 lần nữa để thu hồi toàn bộ lượng acid lactic có trong dịch lên men. Phần kết tủa này được trộn chung với phần trước và đem sang thiết bị thu nhận acid lactic.Để thu nhận acid lactic người ta cho H2SO4 vào phần tủa.Phản ứng sẽ xảy ra và tạo thành CaSO4 kết tủa và dung dịch chứa acid lactic ( C3H6O3). Dung dịch acid lactic được đem đi khử màu bằng than hoạt tính và đem cô đặc chân không để thu nhận acid lactic tinh khiết. [5] 2.1.6.2. Phương pháp sản xuất hiện đại: Phương pháp thẩm tích điện và trao đổi ion Phương pháp này khác với phương pháp truyền thống ở 2 nội dung:  Thay đổi giống và môi trường lên men.  Thay đổi phương pháp thu nhận acid lactic. Giống và môi trường lên men: Giống dùng trong quá trình lên men là Lactobacillus acidophilus. Lượng giống cho vào để lên men là 5% so với dung dịch lên men. Dung dịch chứa đường: 40 – 100 đường trong 1000ml 1% dầu bắp thô 1 – 4% nước chiết bắp Người ta bổ sung khá nhiều khoáng vi lượng vào môi trường lên men. SVTH: Trần Thị Thu Giang 16 Đồ án tốt nghiệp GVHD: TS.Nguyễn Thúy Hương Nhiệt độ lên men 40 – 50 oC Điều chỉnh pH trong suốt quá trình lên men là 4,8 – 5,7 bằng NaOH [5] Phương pháp thu nhận acid lactic Sau khi lên men người ta dùng CaCO3 đưa pH dung dịch lên men đến pH 6,5 và thực hiện các điều kiện cho việc tạo thành lactic canxi như phương pháp truyền thống. Toàn bộ dung dịch, cả phần lactate và sinh khối được đưa vào thiết bị thẩm tích điện (eletro dialysis) để thu nhận lactate canxi ở dạng lỏng và sinh khối vi sinh vật. Sinh khối vi sinh vật có khả năng lên men sẽ được chuyển ngược lại để lên men mẻ kế tiếp. Lactat canxi được cô đặc chân không và chuyển sang máy thẩm tích điện trích ly (water spiltting eletrodialysis ) để thu nhận acid lactic. Dung dịch acid lactic sẽ được đưa qua cột trao đổi ion để tách các ion Ca+ và các cation khác. Acid lactic sau khi thu được sẽ có độ tinh thiết 99%. [5] 2.1.6.3.Phương pháp thu nhận acid lactic Phương pháp thu nhận acid lactic ở pH > pKa Đầu tiên người ta cho dung dịch lên men tiếp xúc với chất hấp thụ alamin 336 (tricaprylylamin hòa tan trong methyl iso butylketone). Tiếp đến, chất hấp phụ sẽ tiếp xúc với ammoniac và trialkylamin phân tử thấp là trimethylamin (TMA). TMA sẽ được tạo thành trimethylamonium (TMAm), sau đó TMA và hơi nước sẽ được tái sử dụng, còn acid lactic sẽ được thu nhận. Phương pháp tách pha Acid lactic được chuyển thành lactat canxi ở dung dịch lên men. Dung dịch này được chuyển qua thiết bị lọc. Phần sinh khối được tái sử dụng. Phần lactat hòa tan được cô đặc đến khoảng 40 – 70% khối lượng ban đầu. ( Người ta điều chỉnh pH bằng NaCO3 đến pH 6,0 – 6,5 để tạo ra lactate natri). Lactat natri được đưa vào thiết bị chứa trialkylamin và khí CO2 ở áp suất 75pSi. Lúc này dung dịch sẽ tạo thành hai pha: * Pha hữu cơ gồm chất hấp phụ acid lactic. * Pha hòa tan gồm muối carbonate natri và acid carbonic. Người ta thu hồi acid lactic từ pha hữu cơ bằng phương pháp chưng cất chân không với áp suất 2 – 10mmHg, ở nhiệt độ 80 – 240 oC. [5] SVTH: Trần Thị Thu Giang 17 Đồ án tốt nghiệp GVHD: TS.Nguyễn Thúy Hương 2.2. Giới thiệu về rỉ đường mía. 2.2.1. Thành phần cấu tạo Rỉ đường mía là phần còn lại của dung dịch đường sau khi đã tách phần đường kính kết tinh. Số lượng và chất lượng của rỉ đường phụ thuộc vào giống mía, điều kiện trồng trọt, hoàn cảnh địa lý và trình độ kỹ thuật chế biến của nhà máy đường. Thông thường rỉ đường mía thu được bằng 3 ÷ 4% trọng lượng mía đưa vào chế biến. Thành phần chính của rỉ đường là đường, các chất phi đường và nước. Rỉ đường mía có khoảng 20% nước, 62% đường và 10% chất phi đường hoặc cao hơn một chút. Đường trong rỉ đường bao gồm 25 – 40% saccaroza. 15 – 25% đường khử ( glucoza và fructoza ) và 3 – 5% đường không lên men được tạo nên trong quá trình chế biến đường. Ở đây do nhiều lần pha loãng và cô đặc một lượng nhất định saccaroza bị biến thành hợp chất tương tự dextrin do tác dụng của nhiệt. Chất này có tính khử nhưng không lên men được và không có khả năng kết tinh. [2] Ngoài saccaroza, glucoza và fructoza rỉ đường mía còn có một lượng nhỏ các loại đường khác như rafinoza, lactoza, mantoza và xyloza. [3] Các chất phi đường gồm phi đường hữu cơ và phi đường vô cơ. Phi đường hữu cơ chứa nitơ của rỉ đường mía chủ yếu là các acid amin cùng với một lượng rất nhỏ protein và sản phẩm phân giải của nó. Các acid amin từ nước mía dễ dàng đi vào rỉ đường vì phần lớn chúng rất dễ hòa tan trong nước trừ tiroxin và xixtin.. Nitơ tổng số trong rỉ đường mía của Mỹ xê dịch trong khoảng 0.4 ÷ 1.5% trung bình là 0.7% trọng lượng của rỉ đường Hợp chất phi đường không chứa nitơ bao gồm pectin, araban, galactan hoặc các sản phẩm thủy phân của chúng là arabinoza và galatoza, chất nhầy, chất màu và chất thơm. Pectin bị kết tủa trong quá trình chế biến đường nhưng các chất vừa nói không kết tủa và gần như toàn vẹn đi vào rỉ đường (1.22 – 1.56%). Matubara. K. và Kinoshita, S. đã phân tích định tính các loại acid hữu cơ và cho biết các acid sau đây có trong rỉ đường mía của các nước Đông Nam Á : acid aconitic, lactic, malic, xucxinic, glycolic, xitric và lượng nhỏ fumaric, oxalic và gluconic. Riêng acod aconitric có nồng độ khá cao, xấp xỉ 1.0 – 1.5%. Sự có mặt của acid này càng nhiều thì sản lượng đường càng thấp. Đặc biệt các loại mía có vị chua SVTH: Trần Thị Thu Giang 18 Đồ án tốt nghiệp GVHD: TS.Nguyễn Thúy Hương không thể đưa vào sản xuất được. Mía trồng ở những vùng quá nóng như Louisiana và Florida phát triển rất nhanh nên nồng độ aconitic trong mía là 0.1 – 0.2% và trong rỉ đường là 3 – 7%. Do vậy người ta đã tiến hành thu hồi loại acid này làm phụ phẩm của nhà máy đường trước khi đem rỉ đường đi chế biến. Các chất màu của rỉ đường bao gồm các chất caramen, melanoit, melanin và phức phenol-Fe+2. Cường độ màu tăng ba lần khi nhiệt độ tăng thêm 10 oC. Có thể chia các hợp chất màu thành nhiều nhóm: _ Chất caramen: Xuất hiện nhờ quá trình nhiệt phân sacharoza kèm theo lọai trừ nước và không chứa một chút nitơ nào. Khi pH không đổi, tốc độ tạo chất caramen tỉ lệ thuận với nhiệt độ phản ứng. _ Phức chất polyphenol -Fe+2: là Fe+2- brenzcatechin có màu vàng xanh không thể loại hết ở giai đoạn làm sạch nước mía và đi vào rỉ đường. _ Melanoidin: Đây là sản phẩm ngưng tụ của đường khử và acid amin mà chủ yếu là acid aspactic. Sản phẩm ngưng tụ quen biết nhất là acid fuscazinic đóng vai trò quan trọng làm tăng độ màu của rỉ đường. _ Melanin: Được hình thành nhờ phản ứng oxy hóa khử các acid amin thơm nhờ xúc tác của enzyme polyphenol-oxydaza khi có mặt của O2 và Cu+2. Các acid amin thơm thường bị oxy hóa là tiroxin và brenzocatechin. Các melanin thường bị loại hết ở giai đoạn làm sạch nước đường nên chỉ tìm thấy lượng rất nhỏ trong rỉ đường. _ Humin: Được trùng hợp từ 66 – 68 các đơn vị cấu tạo của acid amin. Từ đó phân tích ra khoảng 52 – 53 gốc acid aspactic, 5 gốc acid amino-β-butyric, 2 gốc acid glutamic, 2 gốc β- amino propionic và 1 gốc acid p- butyric, 2 gốc acid -p- aminoizovaleric. _ Ngoài ra rỉ đường còn chứa hợp chất màu nâu có công thức cấu tạo C1718H26-27O10N. [3] _ Chất keo: Có trong rỉ đường chủ yếu là pectin, chất sáp và chất nhầy. Các chất này ảnh hưởng rất nhiều đến sự phát triển của vi sinh vật tạo thành màng bao bọc quanh tế bào ngăn cản quá trình hấp thụ các chất dinh dưỡng và thải các sản phẩm trao đổi chất của tế bào ra ngoài môi trường. Ngoài ra các chất keo là nguyên SVTH: Trần Thị Thu Giang 19 Đồ án tốt nghiệp GVHD: TS.Nguyễn Thúy Hương nhân chính tạo ra một lượng bọt lớn trong nuôi cấy vi sinh vật, giảm hiệu suất sử dụng thiết bị. _ Các chất phi đường vô cơ chủ yếu là các loại muối tìm thấy trong thành phần tro của rỉ đường. Độ tro của rỉ đường mía thấp hơn độ tro của rỉ đường củ cải đường. Muối Kali có khá nhiều trong rỉ đường tiếp đến là canxi và dư lượng SO2. Điều này dễ hiểu vì muối Kali được dùng để bón cho mía còn muối canxi và gốc sunfat được thêm vào ở giai đoạn xử lý nước mía và tinh luyện đường. Bảng 2.1 Thành phần tro trong chất khô của rỉ đường mía và rỉ đường củ cải (%) [2] Thành phần Rỉ đường củ cải Rỉ đường mía K2 O 3.9 3.5 CaO 0.26 1.5 SiO2 0.10 0.5 P2O5 0.06 0.2 MgO 0.16 0.1 Na2O 1.30 Al2O3 0.07 Fe2O3 0.02 Dư lượng CO2 3.50 - Dư lượng SO2 0.55 1.6 Cl- 1.60 0.4 Tổng số 11.52 8.0 0.2 2.2.2. Thành phần các chất sinh trưởng Ngoài các nguyên tố kim loại và các á kim kể trên, rỉ đường mía còn chứa nhiều các nguyên tố khác với lượng cực kỳ nhỏ chỉ có thể tính bằng mg/kg rỉ đường như: Fe 115 mg, Zn 34 mg, Mn 18 mg, Cu 4.9 mg, B3.0 mg, Co 0.59 mg và Mo 0.2 mg. Rỉ đường mía rất giàu các chất sinh trưởng như acid pantotenic, nicotinic, folic, B1, B2 và đặc biệt là biotin. Rỉ đường mía Mĩ không thua kém cao ngô là loại SVTH: Trần Thị Thu Giang 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan