Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khảo sát nhóm từ gọi tên các loài thực vật trong tục ngữ việt nam...

Tài liệu Khảo sát nhóm từ gọi tên các loài thực vật trong tục ngữ việt nam

.PDF
66
301
124

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC ĐINH THỊ HẬU KHẢO SÁT NHÓM TỪ GỌI TÊN CÁC LOÀI THỰC VẬT TRONG TỤC NGỮ VIỆT NAM KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƠN LA, NĂM 2015 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC ĐINH THỊ HẬU KHẢO SÁT NHÓM TỪ GỌI TÊN CÁC LOÀI THỰC VẬT TRONG TỤC NGỮ VIỆT NAM Chuyên ngành: Tiếng Việt KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Ngƣời hƣớng dẫn: ThS. Nguyễn Trung Kiên SƠN LA, NĂM 2015 LỜI CẢM ƠN Bằng tấm lòng kính trọng và sự biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn Thạc sĩ Nguyễn Trung Kiên – người thầy đã quan tâm, hướng dẫn, động viên và giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn, Thư viện, cô chủ nhiệm, các bạn sinh viên lớp K52 ĐHSP Văn – GDCD, những người thân, bạn bè đã giúp đỡ em trong quá trình triển khai và hoàn thành khoá luận. Sơn La, tháng 5 năm 2015 Sinh viên Đinh Thị Hậu MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1 1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................ 1 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ................................................................................ 2 3. Đối tượng, phạm vi, mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu....................................... 5 4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 6 5. Những đóng góp của khoá luận ........................................................................ 6 6. Cấu trúc của khóa luận ...................................................................................... 7 PHẦN NỘI DUNG .............................................................................................. 8 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT ........................................................................ 8 1.1. Từ vựng tiếng Việt ......................................................................................... 8 1.1.1. Các quan niệm về “từ” ................................................................................ 8 1.1.2. Đặc điểm cấu tạo của từ tiếng Việt ............................................................. 9 1.1.2.1. Yếu tố, đơn vị cấu tạo từ, phương thức tạo từ ......................................... 9 1.1.2.2. Các kiểu từ xét về mặt cấu tạo ............................................................... 10 1.1.3. Nghĩa của từ tiếng Việt ............................................................................. 16 1.1.3.1. Nghĩa biểu vật ........................................................................................ 16 1.1.3.2. Nghĩa biểu niệm ..................................................................................... 17 1.1.3.3. Nghĩa biểu thái ....................................................................................... 18 1.1.4. Từ ngữ gọi tên thực vật ............................................................................. 18 1.2. Tục ngữ......................................................................................................... 19 1.2.1. Khái niệm tục ngữ ..................................................................................... 19 1.2.2. Phân biệt thành ngữ với tục ngữ ............................................................... 21 1.2.3. Ý nghĩa biểu trưng..................................................................................... 23 1.2.3.1. Định nghĩa biểu trưng ............................................................................ 23 1.2.3.2. Ý nghĩa biểu trưng của tục ngữ .............................................................. 24 TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ................................................................................... 27 Chƣơng 2: TÌM HIỂU TỪ GỌI TÊN CÁC LOÀI THỰC VẬT TRONG TỤC NGỮ VIỆT NAM ..................................................................................... 28 2.1. Khảo sát về số lượng từ gọi tên các loài thực vật trong tục ngữ .................. 28 2.1.1. Tục ngữ có chứa một từ gọi tên thực vật .................................................. 32 2.1.2. Tục ngữ chứa hai từ gọi tên các loài thực vật trở lên................................ 32 2.2. Từ gọi tên các loài thực vật xét trên bình diện cấu tạo ................................ 33 2.2.1. Từ gọi tên các loài thực vật trong tục ngữ là từ đơn ................................. 33 2.2.2. Từ chỉ thực vật trong tục ngữ là từ ghép ................................................... 34 2.2.2.1. Từ ghép đẳng lập .................................................................................... 34 2.2.2.2. Từ ghép chính phụ ..............................................................................................34 2.3. Từ ngữ gọi tên các loài thực vật trong tục ngữ xét trên bình diện ngữ nghĩa ......35 2.3.1. Từ có ý nghĩa chỉ tổng thể thực vật........................................................... 35 2.3.2. Từ có ý nghĩa chỉ một loài cây .................................................................. 35 2.3.3. Từ có ý nghĩa chỉ một loại cây cụ thể ....................................................... 36 2.4. Một số ý nghĩa biểu trưng của từ chỉ thực vật trong tục ngữ ....................... 37 2.4.1. Nhóm ý nghĩa biểu trưng tích cực ............................................................. 37 2.4.2. Nhóm ý nghĩa biểu trưng tiêu cực ............................................................. 38 2.5. Đặc trưng văn hoá của người Việt thông qua nhóm từ chỉ thực vật trong tục ngữ ....................................................................................................................... 39 TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ................................................................................... 42 PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................................ 44 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 46 PHỤ LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Tục ngữ là một loại hình văn học dân gian ra đời từ xa xưa, tục ngữ được sáng tạo ra nhằm mục đích tổng kết và phổ biến kinh nghiệm của đời sống, kinh nghiệm lịch sử - xã hội của quần chúng lao động. Những kinh nghiệm như thế ngày càng được bổ sung, bồi đắp, thêm đa dạng, phong phú theo thời gian, không gian. Do đó, việc bảo tồn và phát huy luôn là sự quan tâm của giới nghiên cứu. 1.2. Tục ngữ tiếng Việt là đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ Việt. Tục ngữ phong phú về số lượng, đa dạng về kiểu loại kết cấu và nội dung ý nghĩa. Trong các chất liệu cấu tạo nên tục ngữ tiếng Việt có lớp từ gọi tên thực vật. Khảo sát nhóm tục ngữ này chúng tôi đi sâu vào nghiên cứu từ và ý nghĩa biểu trưng của tục ngữ, để tìm hiểu mối quan hệ giữa nhóm từ có trong vốn từ cơ bản của tiếng Việt với tục ngữ. 1.3. Việt Nam là đất nước có nền văn minh nông nghiệp, có thế giới thực vật hết sức đa dạng, phong phú. Đời sống người Việt xưa nay có mối quan hệ mật thiết, hữu cơ với cỏ cây hoa lá. Điều này cắt nghĩa tại sao, trong tục ngữ Việt, bộ phận tục ngữ có chứa từ chỉ thực vật lại chiếm số lượng lớn như thế. Việc nghiên cứu, tìm hiểu nhóm tục ngữ có từ gọi tên các loài thực vật nhằm góp phần tìm hiểu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá, ngôn ngữ và thực tế bên ngoài ngôn ngữ trong đó có thế giới thực vật. Vai trò của lớp từ gọi tên các loài thực vật trong tục ngữ, phản ánh sự nhận thức thế giới nhận thức bên ngoài ngôn ngữ theo phương thức ẩn dụ, hoán dụ, so sánh, người Việt tạo ra đơn vị tục ngữ với lớp nghĩa bóng bẩy (dùng tương đương như lớp từ cơ bản). Từ các hình ảnh về thực vật bên ngoài khi đi sâu vào ngôn ngữ chỉ là hình ảnh biểu trưng. Chính vì thế, khảo sát nhóm từ gọi tên các loài thực vật góp phần nghiên cứu sâu hơn về ý nghĩa biểu trưng của tục ngữ tiếng Việt nói chung và của nhóm tục ngữ gọi tên các loài thực vật nói riêng. 1.4. Trong chương trình Ngữ văn ở phổ thông hiện nay, tục ngữ được đưa vào giảng dạy ở các cấp học. Trong số các câu tục ngữ được chọn đưa vào 1 chương trình, có không ít câu có từ chỉ thực vật. Vì thế, việc nghiên cứu khảo sát những câu tục ngữ có từ gọi tên các loài thực vật, của bộ phận tục ngữ này sẽ ít nhiều góp phần nâng cao hiệu quả của việc dạy học Ngữ văn trong nhà trường. Đó là lí do thúc đẩy chúng tôi chọn vấn đề: Khảo sát nhóm từ gọi tên các loài thực vật trong tục ngữ Việt Nam làm đề tài nghiên cứu trong khoá luận. 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 2.1. Lịch sử nghiên cứu tục ngữ trong Văn học Từ trước đến nay, việc tìm hiểu, nghiên cứu tục ngữ đã được nhiều người quan tâm. Chính với những bài viết của mình, được viết một cách công phu, ở nhiều khía cạnh, có giá trị trong việc góp phần tìm hiểu tục ngữ. Những vấn đề của tục ngữ, có liên quan đến vấn đề người viết đang nghiên cứu, tìm hiểu, có các loại sách, bài viết sau: Những công trình nghiên cứu sớm nhất về tục ngữ có thể kể đến Về tục ngữ và ca dao của tác giả Phạm Quỳnh, được công bố vào năm 1921. Về Phong dao, ca dao phương ngôn, tục ngữ của Nguyễn Văn Chiểu (1936); Ngạn ngữ ca dao của Nguyễn Can Mộng (1941)… Các công trình sưu tập trên đây ít nhiều đã có đóng góp vào việc bảo tồn và giới thiệu một phần quan trọng vốn tục ngữ cổ truyền của dân tộc ta. Tuy nhiên về nội dung và phương pháp biên soạn chưa đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu tục ngữ và thường sưu tập một cách bao hàm cả thành ngữ, tục ngữ và ca dao. Tiếp đến, bộ sách có ý nghĩa hơn cả trong việc đi tìm sự phân biệt giữa tục ngữ và thành ngữ là tác giả Dương Quảng Hàm trong cuốn Việt Nam Văn học sử yếu (1943). Năm 1975, nhóm tác giả Chu Xuân Diên, Lương Văn Đang và Phương Tú cho ra đời tập sách Tục ngữ Việt Nam với số lượng 4151 câu tục ngữ. Năm 1996 với Tục ngữ Việt Nam chọn lọc của tác giả Vương Trung Hiếu gồm 9000 câu tục ngữ và được sắp xếp theo chủ đề. Đặc biệt, công trình sưu tập tục ngữ với số lượng lớn nhất phải kể đến Kho tàng tục ngữ người Việt (2002) của nhóm tác giả Nguyễn Xuân Kính, Nguyễn Thuý Loan, Phan Lan Hương, Nguyễn Luân với số lượng 16.098 câu tục ngữ. 2 Tiếp đến có thể kể thêm một số công trình như của Hoàng Tiến Tựu với giáo trình Văn học dân gian Việt Nam (1990). Với Tuyển tập Văn học dân gian Việt Nam tập IV (Quyển 1) Tục ngữ - Ca dao của nhóm tác giả Trần Thị An – Nguyễn Thị Huế in năm 2001. Nhóm tác giả đã biên soạn tuyển chọn, tập hợp tục ngữ ca dao của người Việt (Kinh). Với số lượng lớn những câu tục ngữ được xếp theo vần A, B, C, D… tiện lợi cho việc nghiên cứu, khảo sát và tìm đọc. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã thể hiện tính công phu trong việc sưu tập và sắp xếp tục ngữ theo một nội dung chủ đề. 2.2. Lịch sử nghiên cứu tục ngữ trên phƣơng diện ngôn ngữ học Ở góc độ ngôn ngữ học đã có nhiều công trình nghiên cứu về tục ngữ và có sự phân biệt thành ngữ với tục ngữ như: Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại (1968) của Nguyễn Văn Tu. Hơn nữa, còn có các bài viết có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến tục ngữ đăng trên các tạp chí như: Về ranh giới giữa thành ngữ và tục ngữ (1972) của Nguyễn Văn Mệnh, Tạp chí Ngôn ngữ, số 3. Tác giả bài viết đã đi tìm sự khác nhau giữa thành ngữ và tục ngữ xét ở hai phương diện nội dung và hình thức. “Có thể nói, nội dung của thành ngữ mang tính chất hiện tượng, còn nội dung của tục ngữ nói chung là mang tính chất quy luật… về hình thức ngữ pháp, nói chung mỗi thành ngữ chỉ là một cụm từ chưa phải là một câu hoàn chỉnh”. Tục ngữ thì khác hẳn “Mỗi tục ngữ tối thiểu là một câu.” [11;13]. Bài viết của tác giả đã có những đóng góp nhất định, làm cơ sở cho những bước nghiên cứu thành ngữ và tục ngữ sau này. Tiếp sau bài viết của Nguyễn Văn Mệnh là bài góp ý kiến về Phân biệt thành ngữ với tục ngữ (1973) của Cù Đình Tú , Tạp chí Ngôn ngữ, số 1. Theo tác giả, bài viết của Nguyễn Văn Mệnh có đôi chỗ chưa thật chính xác. Ông cho rằng: “Sự khác nhau cơ bản giữa thành ngữ và tục ngữ là sự khác nhau về chức năng. Thành ngữ là những đơn vị có sẵn mang chức năng định danh… tục ngữ đứng về mặt ngôn ngữ học, có chức năng khác hẳn so với thành ngữ. Tục ngữ cũng như các sáng tạo khác của dân gian như ca dao, truyện cổ tích, đều là các thông báo.” [17;40-41]. Ý kiến của Cù Đình Tú đã bổ sung thêm cách tiếp cận để nhận diện tục ngữ. 3 Vũ Ngọc Phan trong cuốn Tục ngữ, ca dao dân ca Việt Nam đã phân biệt tục ngữ với thành ngữ dựa trên hai tiêu chí nội dung và hình thức ngữ pháp: “Tục ngữ là một câu tự nó diễn trọn vẹn một ý, một nhận xét, một kinh nghiệm, một luân lí, một công lí, có khi là một sự phê phán. Còn thành ngữ là một phần câu sẵn có, nó là một bộ phận của câu mà nhiều người đã quen dùng, nhưng tự riêng nó không diễn được một ý trọn vẹn.” [14;31]. Tiếp đến, năm 1975 nhóm tác giả Chu Xuân Diên, Lương Văn Đang, Nguyễn Phương Tri với công trình Tục ngữ Việt Nam ở phần thứ nhất: Tiểu luận về tục ngữ Việt Nam, được chia thành 6 chương. Chương 1, các tác giả đã điểm qua lại việc sưu tầm và nghiên cứu tục ngữ ở Việt Nam trước 1975 một cách tương đối đầy đủ. Các chương tiếp theo lần lượt trình bày: tục ngữ là một hiện tượng ý thức xã hội; tục ngữ và lối sống của thời đại; tục ngữ và lối nghĩ của nhân dân; tục ngữ và lối nói của dân tộc; di sản tục ngữ và thời đại mới. Phần thứ hai tục ngữ được tập hợp, giới thiệu và phân theo từng nội dung cụ thể. Đây là cuốn sách có nhiều đóng góp đáng kể trong việc sưu tầm và nghiên cứu tục ngữ. Về sau, với Lịch sử văn học Việt Nam (tập 1) Văn học dân gian (phần I) của nhóm tác giả Bùi Văn Nguyên, Nguyễn Ngọc Côn, Nguyễn Nghĩa Dân, Lý Hữu Tấn, Hoàng Tiến Tựu, Đỗ Bình Trị, Lê Trí Viễn (1978) nhận đinh “Tục ngữ là câu nói thường ngắn gọn có vần hoặc không có vần, có nhịp hoặc không có nhịp điệu đúc rút kinh nghiệm sản xuất hay đấu tranh xã hội, rút ra một phần chân lí phổ biến, ghi lại một nhận xét về tâm lí, phong tục tập quán của nhân dân. Tục ngữ do nhân dân sáng tác và được toàn thể xã hội công nhận.” [12;227]. Trong cuốn Văn học dân gian Việt Nam của nhóm tác giả Đinh Gia Khánh – Chu Xuân Diên – Võ Quang Nhơn năm 2009, cho rằng “Tục ngữ gần với lời ăn tiếng nói về mặt chức năng. Tục ngữ từ xưa tới nay vẫn được nhân dân dùng xen vào tiếng nói hàng ngày.” [10;243]. Nhằm khẳng định tục ngữ gần gũi và tồn tại chính trong cuộc sống hàng ngày. Ngoài ra còn có rất nhiều luận án thạc sĩ, đề tài nghiên cứu về tục ngữ như tác giả Nguyễn Như Sanh với Đặc điểm ngữ nghĩa của tục ngữ Việt Nam. Cấu 4 trúc và ngữ nghĩa của bộ phận tục ngữ có chứa từ chỉ thực vật của tác giả Phạm Thị Liên. Như vậy vấn đề tục ngữ đã có rất nhiều công trình nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau đề cập đến những vấn đề có liên quan đến đề tài về tục ngữ. Đó chính là những tài liệu tham khảo rất cần thiết giúp chúng tôi có hướng triển khai khoá luận. Tuy nhiên, tục ngữ có chứa từ gọi tên các loài thực vật còn là một đề tài có nhiều điều thú vị, cần nhiều khám phá. Mặc dù, việc nghiên cứu tục ngữ dưới góc độ ngôn ngữ - văn hoá không phải là một hướng tiếp cận mới mẻ, tuy nhiên vẫn còn rất ít công trình đi sâu vào tìm hiểu một nhóm tục ngữ cụ thể. 3. Đối tƣợng, phạm vi, mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu Tiếp thu những lí thuyết về ngữ nghĩa học và Văn học dân gian, với kho tàng phong phú của thể loại tục ngữ. Chúng tôi tiến hành thực hiện khoá luận này gắn với đối tượng cụ thể đó là Nhóm từ gọi tên các loài thực vật trong tục ngữ. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Từ ngữ sử dụng trong tục ngữ rất phong phú, đa dạng. Song trong khoá luận này, chúng tôi chỉ tập trung vào Nhóm từ gọi tên các loài thực vật. Để thực hiện đề tài này, chúng tôi chọn Tuyển chọn Tục ngữ Việt Nam hay nhất của tác giả Phúc Hải, Nxb Thời đại, in năm 2014. Đây là tập tuyển chọn những câu tục ngữ hay nhất bao gồm những câu tục ngữ nêu lên được các vấn đề của đời sống con người, thể hiện tâm tư, nguyện vọng, lao động, sinh hoạt, các lĩnh vực của đời sống, trải nghiệm của con người, đúc rút kinh nghiệm từ thiên nhiên, từ trải nghiệm cuộc sống… chúng tôi chỉ chọn lựa những câu tục ngữ có từ gọi tên thực vật, bao gồm 338 câu. 3.3. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở lí thuyết ngữ nghĩa học, thực hiện nghiên cứu khoá luận nhằm mục đích “Khảo sát nhóm từ gọi tên các loài thực vật trong tục ngữ Việt Nam”. Qua đó, rút ra những kết luận về việc sử dụng hành vi ngôn ngữ gián tiếp trong 5 tục ngữ, đồng thời thấy được ý nghĩa biểu trưng của từ gọi tên các loài thực vật trong tục ngữ Việt. 3.4. Nhiệm vụ nghiên cứu Tìm hiểu những lí thuyết liên quan đến khoá luận: lí thuyết về từ (khái niệm, đặc điểm, cấu tạo, nghĩa của từ tiếng Việt), lí thuyết về tục ngữ (khái niệm, phân loại). Thống kê, phân loại, miêu tả cấu tạo từ gọi tên các loài thực vật và ý nghĩa biểu trưng của nhóm từ gọi tên các loài thực vật trong tục ngữ. Để nhằm làm rõ sự phong phú và đa dạng của tục ngữ Việt Nam, mối quan hệ đặc biệt với thế giới bên ngoài ngôn ngữ, thấy rõ tầm quan trọng trong sự tác động qua lại giữa chúng. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp thống kê phân loại dựa vào cơ sở biểu thị nội dung và ý nghĩa của nhóm tục ngữ chúng tôi tập hợp thống kê các tục ngữ có chứa từ gọi tên các loài thực vật rồi đưa chúng về một nhóm cụ thể trên cơ sở đó tiến hành lập bảng phân loại. 4.2. Phương pháp so sánh từ kết quả thống kê phân nhóm, chúng tôi tiến hành so sánh đối chiếu các đơn vị ngôn ngữ có chứa từ gọi tên các loài thực vật nhằm làm rõ cấu tạo và ý nghĩa biểu trưng của nhóm từ gọi tên các loài thực vật khi tham gia cấu thành nên tục ngữ. 4.3. Phương pháp phân tích tổng hợp. Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng các phương pháp phân tích tổng hợp nhằm làm rõ mục đích, yêu cầu của khoá luận. 5. Những đóng góp của khoá luận Có cái nhìn tổng quát, hệ thống toàn diện về tục ngữ qua từ vựng, cấu tạo và ý nghĩa của từ gọi tên các loài thực vật trong tục ngữ. Làm phong phú thêm con đường tìm hiểu, khám phá tục ngữ. Nghĩa là hiểu được nội dung của từ gọi tên các loài thực vật trong tục ngữ, ngoài ý nghĩa đương đại, ý nghĩa chung, còn hiểu được ý nghĩa biểu trưng của từ gọi tên các loài thực vật đó trong tục ngữ. 6 Giúp cho việc giảng dạy, học tập tục ngữ trong nhà trường đạt hiệu quả hơn và việc vận dụng tục ngữ trong cuộc sống hàng ngày linh hoạt và có ý thức. 6. Cấu trúc của khóa luận Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, thư mục tài liệu tham khảo, phần phụ lục, nội dung của khoá luận gồm 2 chương: Chƣơng 1. Cơ sở lí thuyết Chƣơng 2. Tìm hiểu từ gọi tên các loài thực vật trong tục ngữ Việt Nam 7 PHẦN NỘI DUNG Chƣơng 1 CƠ SỞ LÍ THUYẾT 1.1. Từ vựng tiếng Việt 1.1.1. Các quan niệm về “từ” Trong số các các đơn vị từ vựng, “từ” là một đơn vị cơ bản nhất, tập hợp các từ là việc làm đầu tiên của những người làm từ điển và các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học. Cái khó là ở chỗ phải nêu ra một định nghĩa có tính lí thuyết về từ. Cho đến nay, trong ngôn ngữ học các định nghĩa về từ đã được đưa ra không ít. Các định nghĩa đó, ở mặt này hay mặt kia đều đúng, nhưng đều không đủ và không bao gồm hết được tất cả các sự kiện được coi là từ trong ngôn ngữ hay trong một ngôn ngữ cụ thể. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài chúng tôi, trích dẫn hai khái niệm về “từ” của các tác giả Đỗ Hữu Châu, và Nguyễn Thiện Giáp làm định nghĩa về từ. Theo tác giả Đỗ Hữu Châu trong cuốn Từ vựng - Ngữ nghĩa tiếng Việt nhận định: “Từ của tiếng Việt là một hoặc một số âm tiết cố định, bất biến, mang những đặc điểm ngữ pháp nhất định, nằm trong những kiểu cấu tạo nhất định, tất cả ứng với một kiểu ý nghĩa nhất định, lớn nhất trong tiếng Việt và nhỏ nhất để cấu tạo câu.” [3;16]. Đây là một khái niệm khi nhận diện về từ tiếng Việt, tác giả đã chú ý đến cả tính tách biệt và tính đồng nhất của từ. Có thể thấy rằng đây là một khái niệm giúp người đọc hiểu được một cách toàn diện nhất về “từ”. Tác giả Nguyễn Thiện Giáp đưa ra khái niệm về “từ” như sau: “Từ tiếng Việt là đơn vị có nghĩa, nhỏ nhất, có tính hoàn chỉnh và khả năng tách biệt khỏi các đơn vị khác; nó có hình thức một âm tiết, một chữ viết liền.” [7;125]. Định nghĩa về “từ” của tác giả gần với những định nghĩa về từ trong các ngôn ngữ khác. Ngoài ra, định nghĩa này còn chỉ ra được nét đặc trưng của từ tiếng Việt: từ tiếng Việt có vỏ ngữ âm là âm tiết. Theo đó, chúng tôi chọn định nghĩa về từ của tác giả Đỗ Hữu Châu làm định nghĩa về “từ”. 8 1.1.2. Đặc điểm cấu tạo của từ tiếng Việt 1.1.2.1. Yếu tố, đơn vị cấu tạo từ, phương thức tạo từ Trong tiếng Việt, các yếu tố cấu tạo từ là những hình thức ngữ âm có nghĩa nhỏ nhất – được dùng để cấu tạo ra các từ theo các phương thức cấu tạo của từ tiếng Việt. Theo tác giả Đỗ Hữu Châu, gọi các yếu tố có đặc điểm và chức năng như trên bằng thuật ngữ có tính quốc tế là: Hình vị Phương thức tạo từ là cách thức mà ngôn ngữ tác động vào hình vị để cho ta các từ. Tiếng Việt sử dụng ba phương thức: từ hoá hình vị, ghép hình vị và láy hình vị. Từ hoá hình vị là phương thức tác động vào bản thân ,một hình vị, làm cho nó có những đặc điểm ngữ pháp và ý nghĩa của từ, biến hình vị thành từ mà không thêm bớt gì cả vào hình thức của nó. Ghép là phương thức tác động vào hai hoặc hơn hai hình vị có nghĩa, kết hợp chúng với nhau để sản sinh ra một từ mới (mang đặc điểm ngữ pháp và ý nghĩa như một từ). Láy là phương thức tác động vào một hình vị làm cơ sở làm xuất hiện một hình vị láy giống nó toàn bộ hay bộ phận về âm thanh. Cả hình vị cơ sở và hình vị láy tạo thành một từ (mang đặc điểm ngữ pháp và ngữ nghĩa của từ). Theo tác giả Đỗ Hữu Châu, khả năng cấu tạo từ của hình vị xét về mặt ngữ nghĩa, được xem là tiêu chí hàng đầu để phân loại hình vị. Về mặt hoạt động, hình vị được chia thành ba loại: - Hình vị không độc lập tức là những hình vị cho đến nay chưa từ hoá thành từ như: thuỷ (nước), hoả (lửa), thổ (đất)… - Hình vị độc lập, tức là những hình vị vừa là hình vị, vừa là từ hóa thành từ như: xe, máy, nhà, tiện, học… - Hình vị bán độc lập là những hình vị tuy không bị gắn bó chặt chẽ với một loại hình vị khác, vẫn có thể tách rời khỏi các từ khác trong câu song chúng rất ít khi một mình làm thành phần chính phụ của câu như hình vị: đã, sẽ, đang, rất… Ngoài ra, căn cứ về mặt ý nghĩa có thể phân chia hình vị thành: 9 - Hình vị thực. Ví dụ: nhà, xe, áo, đường, trời, nước... tức là những hình vị mà mang ý nghĩa của chúng liên hệ với những sự vật, hiện tượng có thể hình dung được hay nhận thức được một cách cụ thể. - Hình vị hư. Ví dụ: nhưng, rất, sẽ, đang, nên, thì, mà… là những hình vị mà ý nghĩa thường chỉ quan hệ hoặc tình thái – tức là những biểu hiện của sự vật, hiện tượng hoặc chỉ cách nói năng (các hành vi ngôn ngữ), chỉ quan hệ giao tiếp – hết sức chung chung và trừu tượng. - Hình vị không có nghĩa là những hình vị như: bươu trong ốc bươu, hâu trong diều hâu, xít trong bọ xít, nẹt trong bọ nẹt, róm trong sâu róm… 1.1.2.2. Các kiểu từ xét về mặt cấu tạo Theo xu hướng chung, từ tiếng Việt được phân chia thành ba loại chính: từ đơn, từ láy, từ ghép. a. Từ đơn * Khái niệm Từ đơn là những từ một hình vị. Về mặt ngữ nghĩa chúng không lập thành những hệ thống có một kiểu ngữ nghĩa chung. Chúng ta lĩnh hội và ghi nhớ nghĩa của từng từ một riêng rẽ. Kiểu cấu tạo không đóng vai trò gì đáng kể trong việc lĩnh hội ý nghĩa của từ. Ví dụ: bàn, ghế, nhà, cây… * Phân loại Từ đơn được chia làm hai loại là: từ đơn đơn âm và từ đơn đa âm. - Từ đơn đơn âm là những là những từ được cấu tạo từ một hình vị và mang một kiểu ý nghĩa nhất định. Ví dụ: đi, chạy, hoa, ăn… - Từ đơn đa âm là những từ được cấu tạo từ hai hình vị trở lên, một hình vị đã mất nghĩa. Từ đơn đa âm được chia làm hai loại: từ đơn đa âm thuần Việt như: bù nhìn, bồ các, ễnh ương, chèo bẻo, ác là, mắc cọt, mồ hôi, bồ hóng… và từ đơn đa âm vay mượn (đại bộ phận các từ đơn đa âm là các từ vay mượn từ ngôn ngữ Ấn Âu) như: a pa tít, a xít, cà phê, lắc lê, mô tô, pô pơ lin… 10 b. Từ láy * Khái niệm Từ láy là những từ được cấu tạo theo phương thức láy, đó là phương thức lặp lại toàn bộ hay bộ phận hình thức âm tiết (với thanh điệu giữ nguyên hay biến đổi theo quy tắc biến thanh tức là quy tắc thanh điệu biến đổi theo hai nhóm gồm nhóm cao: thanh hỏi, thanh sắc, thanh ngang và nhóm thấp: thanh huyền, thanh ngã, thanh nặng) của một hình hay đơn vị có nghĩa. * Phân loại b1: Từ láy đôi: là từ láy gồm có hai tiếng Có các dạng cấu tạo láy đôi sau: - Từ láy bộ phận: Từ giống nhau ở phần vần hoặc phụ âm đầu. + Giống nhau ở phụ âm đầu gọi là láy âm. Ví dụ: sạch sẽ, dễ dàng, đông đúc… + Giống nhau ở phần vần gọi là từ láy vần. Ví dụ: chói lọi, co ro, lanh chanh.. - Từ láy hoàn toàn: Ngoại trừ những từ láy bộ phận, còn lại là các từ láy hoàn toàn. Bao gồm các dạng sau: + Giống cả phần vần, phụ âm đầu và thanh điệu. Ví dụ: đu đủ, đo đỏ, tim tím.. + Giống nhau phụ âm đầu và âm chính, khác nhau ở thanh điệu và phụ âm cuối do sự chi phối của quy luật dị hoá. Ví dụ: đèm đẹp, sành sạch… Dạng biến đổi này xảy ra trong các trường hợp các tiếng gốc có phụ âm cuối là -p, -t, -k ( thể hiện trên chữ viết là c và ch). Trong trường hợp này, thanh điệu cũng có biến đổi theo quy luật vừa nói trên. Còn phụ âm cuối biến đổi theo quy luật là tiếng gốc tận cùng bằng các phụ âm tắc – vô thanh sẽ được chuyển thành các phụ âm mũi – hữu thanh ở tiếng láy. Cụ thể: Tiếng gốc Tiếng láy ( Âm tắc, vô thanh) (Âm mũi – hữu thanh) Ăm ấp -p -m Phơn phớt -t -n Sành sạch -k 11 b2: Từ láy ba và láy tư - Từ láy ba: chủ yếu dựa trên cơ chế láy hoàn toàn. Ví dụ: xốp => xốp xồm xộp; khít => khít khìn khịt; sát => sát sàn sạt; dửng => dửng dừng dưng; con => cỏn còn con. Từ láy ba có kiểu phối thanh thường gặp là: + Tiếng thứ hai mang thanh bằng (thường xuất hiện thanh huyền hơn thanh ngang). Ví dụ: dửng dừng dửng, cỏn còn con. + Tiếng thứ nhất và tiếng thứ ba đối lập nhau về bằng / trắc hoặc về âm vực cao / thấp. Ví dụ: khít khìn khịt, sát sàn sạt, xốp xồm xộp. Từ láy ba dạng láy bộ phận chiếm số lượng rất ít. Ví dụ: lơ tơ mơ, tù lù mù… - Từ láy tư: Phần lớn từ láy dựa trên cơ sở từ láy đôi, một số ít có phần gốc là từ ghép. So với từ láy ba, từ láy tư khá đa dạng về kiểu cấu tạo. Sau đây là một số kiểu thường gặp: + Láy bộ phận kết hợp với đổi vần - a, - à hay -ơ. Ví dụ: ấm ớ --- ấm a ấm ớ hì hục --- hì hà hì hục + Láy toàn bộ kết hợp với biến thanh. Ví dụ: bồi hồi --- bổi hổi bồi hồi lảm nhảm --- lảm nhảm làm nhàm + Láy bộ phận kết hợp với tách, xen. Ví dụ: thơ thẩn --- lơ thơ lẩn thẩn nhồm nhoàm --- lồm nhồm loàm nhoàm + Láy toàn bộ kết hợp với tách, xen Ví dụ: hăm hở --- hăm hăm hở hở vội vàng --- vội vội vàng vàng c. Từ ghép * Khái niệm Từ ghép là những từ có hai hoặc hơn hai tiếng được ghép lại với nhau dựa 12 trên quan hệ ý nghĩa. * Phân loại Dựa vào quan hệ ngữ pháp giữa các yếu tố, có thể phân từ ghép ra làm hai loại chính: c1: Từ ghép đẳng lập Từ ghép đẳng lập có đặc trưng chung là: - Quan hệ ngữ pháp giữa các thành tố trong từ là quan hệ bình đẳng. - Xét về mặt quan hệ ý nghĩa giữa các thành tố có thể thấy: + Hoặc các thành tố đồng nghĩa với nhau, trong đó: . Có thể có một yếu tố thuần Việt và một yếu tố Hán Việt. Ví dụ: bạn hữu, bụng dạ, máu huyết… . Có thể cả hai yếu tố đều là Hán Việt. Ví dụ: tư duy, thổ địa, tiện lợi… . Có thể hai yếu tố đều là thuần Việt. Ví dụ: đợi chờ, máu mủ, xinh đẹp… . Có thể có một yếu tố toàn dân và một yếu tố vốn là từ địa phương. Ví dụ: chân cẳng, bát đọi, chợ búa… + Hoặc các thành tố gần nghĩa nhau. Ví dụ: thương nhớ, nhà cửa, quần áo, ăn uống… + Hoặc các thành tố trái nghĩa nhau. Ví dụ: đầu đuôi, sống chết, già trẻ… - Xét về mặt nội dung, nói chung, từ ghép đẳng lập thường gợi lên những phạm vi sự vật mang ý nghĩa phi cá thể hay tổng hợp (tức biểu thị sự vật, tính chất hay hành động chung, mang tính chất khái quát). - Tuy nhiên có quan hệ bình đẳng về mặt ngữ pháp, nhưng không đưa đến hệ quả là ý nghĩa từ vựng của các thành tố trong từ đều có giá trị ngang nhau trong mọi trường hợp. Như ta sẽ thấy, những trường hợp một trong hai thành tố phai mờ nghĩa xảy ra phổ biến trong từ ghép đẳng lập. - Căn cứ vào vai trò của các thành tố trong việc tạo nghĩa và phạm vi biểu đạt của từ ghép, có thể phân từ ghép đẳng lập thành ba loại nhỏ như sau: + Từ ghép đẳng lập gộp nghĩa: bao gồm những từ ghép thuộc mô hình ngữ nghĩa AB = A+B. Tức là loại mà nghĩa của từng thành tố cùng nhau gộp lại để biểu thị ý nghĩa khái quát chung của cả từ ghép, trong ý nghĩa chung đó có ý 13 nghĩa riêng của từng thành tố. Chẳng hạn, từ quần áo chỉ đồ mặc nói chung, trong đó có cả quần lẫn áo. Các ví dụ khác về từ ghép gộp nghĩa: điện nước, xăng dầu, tầu xe, xưa nay, chạy nhảy, học tập, thu phát, ăn uống, tốt đẹp… + Từ ghép đẳng lập đơn nghĩa: bao gồm từ ghép thuộc mô hình ngữ nghĩa AB = A hoặc B. Tức là loại mà nghĩa khái quát chung của cả từ ghép tương ứng và ý nghĩa của một thành tố có mặt trong từ. Ví dụ: núi non, binh lính, thay đổi, tìm kiếm… Do nghĩa của cả từ ghép tương đương với nghĩa của một số thành tố nên thành tố còn lại có xu hướng bị mờ nghĩa hoặc bị mất nghĩa. Yếu tố này sẽ làm chỗ dựa cho ý nghĩa của cả từ ghép. Có thể nói sự mờ nghĩa của núc (bếp núc), búa (chợ búa)… chính là kết quả cực đoan của mô hình đơn nghĩa này. Ví dụ về từ ghép đẳng lập đơn nghĩa: bếp núc, chợ búa, đường sá, áo xống, viết lách… + Từ ghép đẳng lập hợp nghĩa: bao gồm những từ ghép nằm trong mô hình ngữ nghĩa AB > A + B. Tức là loại mà ở đó nghĩa của cả từ không phải chỉ là phép cộng đơn thuần nghĩa của các thành tố, mà nó là sự tổng hợp nghĩa của các thành tố kèm theo sự trừu tượng hoá dựa trên cơ sở liên tưởng ẩn dụ hay hoán dụ. Do đó nghĩa của cả từ mới hơn so với nghĩa của từng thành tố. Ví dụ, đất nước không phải để chỉ đất và nước nói chung hay chỉ đất hoặc nước, mà hai yếu tố được hợp lại để chỉ lãnh thổ của một quốc gia trong đó có những nét tiêu biểu là đất và nước. Trường hợp non sông, sông núi, sơn hà cũng vậy. Một số ví dụ khác, ruột thịt không phải chỉ ruột hay thịt nói chung mà cả hai hợp lại để chỉ quan hệ máu mủ, huyết thống. Hay gan dạ để chỉ sự mạnh mẽ không lùi bước trước nguy hiểm cũng là một trường hợp tương tự. Bàn về từ ghép đẳng lập, người ta thường bàn đến khả năng hoán vị giữa các thành tố. Tuy nhiên cần chú ý khả năng ấy không xảy ra phổ biến đối với toàn bộ lớp từ ghép đẳng lập, và không phải xảy ra vô điều kiện trong mọi trường hợp. Về hiện tượng này có thể nêu mấy nhận xét như sau: +Có thể hoán vị được đối với một số từ ghép gộp nghĩa trường hợp không có yếu tố Hán – Việt. Ví dụ: quần áo – áo quần, rủi may – may rủi, tươi tốt – tốt tươi… 14 + Khả năng hoán vị ít xảy ra giữa các thành tố trong từ ghép đơn nghĩa, đặc biệt đối với trường hợp từ ghép có yếu tố mờ nghĩa, mất nghĩa. + Khả năng hoán vị bị sự khống chế của một số yêu cầu: . Không được phép làm thay đổi ý nghĩa của từ ghép ban đầu. Ví dụ: đi lại – lại đi; cơm nước – nước cơm khác nghĩa. . Không đi ngược lại tập quán cổ truyền của dân tộc. Ví dụ: nam nữ - nữ nam; ông bà – bà ông; vua quan – quan vua… không hoán vị được. c2: Từ ghép chính phụ Là những từ ghép mà ở đó có ít nhất một thành tố cấu tạo nằm ở vị trí phụ thuộc vào thành tố cấu tạo khác, tức trong kiểu từ ghép này thường có một yếu tố chính và một yếu tố phụ về mặt ngữ pháp. Loại này có những đặc điểm sau: - Xét về mặt ý nghĩa, nếu từ ghép đẳng lập có khuynh hướng gợi lên sự vật, tính chất có ý nghĩa khái quát, tổng hợp, thì kiểu cấu tạo này có khuynh hướng nêu lên các sự vật theo mang ý nghĩa cụ thể. - Trong từ ghép chính phụ,yếu tố chính thường giữ vai trò chỉ loại sự vật, đặc trưng hoặc hoạt động lớn, yếu tố phụ thường được dùng để cụ thể hoá loại sự vật, hoạt động hoặc đặc trưng đó. - Căn cứ vào vai trò của các thành tố trong việc tạo nghĩa, có thể chia từ ghép chính phụ thành hai tiểu loại: + Từ ghép chính phụ dị biệt: là từ ghép trong đó yếu tố phụ có tác dụng phân chia loại sự vật, hoạt động, đặc trưng lớn thành những loại sự vật, hoạt động, đặc trưng cụ thể. Vì vậy, có thể nói tác dụng của các yếu tố phụ ở hiện tượng này là tác dụng phân loại. Ví dụ: Máy bay, máy may,máy bơm, máy nổ, máy tiện… Làm việc, làm thợ, làm duyên, làm ruộng, làm dâu… Vui tính, vui tai, vui mắt… Chú ý, ở kiểu từ ghép này trật tự của các yếu tố trong từ ghép thuần Việt, hoặc Hán – Việt Việt hoá khác từ ghép Hán – Việt, ở hai trường hợp đầu, yếu tố chính thường đứng trước, ở trường hợp cuối, yếu tố phụ thường đứng trước. Ví dụ: 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan