BỘYTẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI
ĐINH HẢI YÉN
KHẢO SÁT
MÔ HÌNH CẢNH GIÁC DƯỢC
CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
KHÓA LUẬN TÓT NGHIỆP D ư ợ c s ĩ
HẢ NỘI - 2010
.ĩ
£ Ờ I
C Ấ M
ƠJV
Trong suốt quá trình thực hiện đề tài khóa luận, ngoài sự nỗ lực của bản
thân tôi đã nhận được sự quan tâm và giúp đỡ của rất nhiều người. Thời điểm
hoàn thành khóa luận cũng là lúc tôi gửi lời biết ơn sâu sắc đến họ.
Trước hết, với lòng biết ơn sâu sắc nhất, tôi xin được chân thành cảm ơn
DS. Nguyễn Thị Phương Nhung - giảng viên Bộ môn Quản lý và Kinh tế
Dược đã hết sức quan tâm, hướng dẫn và chỉ bảo cho tôi trong suốt quá trình
làm khóa luận tốt nghiệp.
Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn PGS.TS. Lê Viết Hùng - hiệu trưởng
trường Đại học Dược Hà Nội, thầy đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi rất nhiều để
thực hiện đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Bộ môn Quản lý và Kinh tế
Dược đã mang lại cho tôi những kiến thức về kinh tế làm nền tảng và cơ sở
cho tôi thực hiện đề tài này.
Tôi cũng xin cảm ơn BS. Hoàng Thanh Mai - cán bộ Cục Quản lý Dược
Việt Nam, các cán bộ tại Trung tâm quốc gia thông tin thuốc và theo dõi phản
ứng có hại của thuốc đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập thông
tin cho khóa luận.
Tôi xin cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng Đào tạo đại học và các thầy cô
giáo trường Đại học Dược Hà Nội đã giảng dạy và tạo mọi điều kiện cho tôi
trong suốt năm năm học tập và nghiên cứu tại trường.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cha mẹ và những người
thân trong gia đình đã chăm lo, động viên cho tôi trong suốt quá trình học tập.
Hà nội, tháng 5 năm 2010
Sinh viên
Đinh Hải Yến
MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN Đ È ....................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN.................................................................... 3
1.1. Tổng quan về cảnh giác dược....................................................... 3
1.1.1. Lịch sử ra đời và phát triển........................................................... 3
1.1.2. Một số khái niệm cơ bản.............................................................. 4
1.1.3.Vai trò của cảnh giác dược............................................................. 6
1.2. Tổng quan về mô hình cảnh giác dược....................................... 9
1.2.1. Khái niệm mô hình....................................................................... 9
1.2.2. Các hệ thống báo cáo phản ứng có hại của thuốc........................ 10
1.2.3. Các thành phần trong mô hình...................................................... 11
1.2.4. Chức năng của các trung tâm cảnh giác dược.............................. 18
1.3. Tổng quan các đề tài đã làm về vấn đề cảnh giác dưọc
22
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN c ứ u
23
2.1. Đối tượng nghiên cứu.................................................................... 23
2.2. Nội dung nghiên cứu...................................................................... 23
2.3. Phương pháp nghiên cứu.............................................................. 24
2.3.1. Phương pháp chọn m ẫu................................................................ 25
2.3.2. Phương pháp điều tra, thu thập số liệu......................................... 25
2.4. Trình bày kết quả............................................................................. 26
Chương 3: KÊT QUẢ NGHIÊN cứu ................................................ 27
3.1. Mô hình cảnh giác dược tại nước Anh.......................................... 27
3.1.1. Bộ máy tổ chức.............................................................................. 27
3.1.2. Phương thức hoạt động................................................................. 29
3.2. Mô hình cảnh giác dược tại New Zealand.................................. 37
3.2.1. Bộ máy tổ chức............................................................................. 37
3.2.2. Phương thức hoạt động................................................................. 38
3.2.3. ư u nhược điểm của các chương trình kiểm soát thuốc của
Trung tâm cảnh giác dược New Zealand
45
3.3. Mô hình cảnh giác dược tại Hoa Kỳ
48
3.3.1. Bộ máy tổ chức............
48
3.3.2. Phương thức hoạt động........
49
3.4. Mô hình cảnh giác dược tại Ấn Độ
52
3.4.1. Bộ máy tổ chức
52
3.4.2. Phương thức hoạt động
55
3.5. Hoạt động cảnh giác dược tại Việt Nam
55
3.5.1. Thực trạng hoạt động cảnh giác dược tại Việt Nam
55
3.5.2. Đe xuất mô hình cảnh giác dược tại Việt Nam
60
Chương 4: BÀN LUẬN
63
4.1. Mô hình cảnh giác dưọ’c tại Anh
63
4.2. Mô hình cảnh giác dược tại New Zealand
63
4.3. Mô hình cảnh giác dược tại Hoa Kỳ
64
4.4. Mô hình cảnh giác dược tại Ấn Độ
65
4.5. Mô hình cảnh giác dược tại Việt Nam
65
KẾT LUẬN
ĐỀ XUẤT
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIÉT TẮT
CGD
cảnh giác dược
ADR
adverse drug reaction: phản ứng có hại của thuốc
ADE
adverse drug event: biến cố bất lợi liên quan đến thuốc
WHO
World Health Organization: Tổ chức y tế thế giới
W HO-ART
WHO Adverse Reaction Terminology: Thuật ngữ phản
ứng có hại của WHO
UMC
Uppsala Monitoring Centre: Trung tâm kiểm soát Uppsala
PEM
Prescription-Event Monitoring: kiểm soát biến cố thông
qua đơn thuốc
DSRU
the Drug Safety Research Unit: Đơn vị nghiên cứu an
toàn của thuốc
PPD
Prescription Pricing Division: Phòng đánh giá việc kê đơn
NHS
National Health Service: Dịch vụ y tế quốc gia
MHRA
the UK Medicines and Healthcare products Regulatory
Agency: Cơ quan quản lý dược phẩm và sản phẩm y tế
của Anh
MCA
Medicines Control Agency: Cơ quan kiểm soát dược
phẩm
MDA
Medical Devices Agency: Cơ quan dịch vụ y tế
RMC
Regional Monitoring Centre:Trung tâm kiểm soát vùng
YCS
Yellow Card Scheme: Dự án thẻ vàng
ADROIT
Adverse Drug Reactions On-line Information Tracking:
Theo dõi thông tin trực tuyến phản ứng có hại của thuốc
PPD
Prescription Pricing Division: Đơn vị đánh giá đơn thuốc
Drug Safety Research Unit: Đơn vị nghiên cứu an toàn
DSRU
của thuốc
NZ
= New Zealand
NZPhvC
= Trung tâm cảnh giác dược New Zealand
CARM
= Centre for Adverse Reactions Monitoring: Trung tâm
kiểm soát các phản ứng có hại
IMMP
= Intensive Medicines Monitoring Programme: Chương
trình kiểm soát thuốc mạnh
IVMP
=
Intensive Vaccine Monitoring Programme: Chương trình
kiểm soát vacxin mạnh
MeNZB T M
=
Chương trình tiêm chủng quốc gia vaccin viêm màng não
B
PMS
= Practice Management Software: Phần mềm quản lý thực
hành
MWS
= Medical Warnings System: Hệ thống các cảnh báo y tế
MARC
= Medicines Adverse Reactions Committee: ủ y ban phản
ứng có hại của thuốc
NHI
= New Zealand Health Information Service: Dịch vụ thông
tin y tế New Zealand
CDSCO
=
Centre Drugs Standards Control Organization: TỔ chức
kiểm soát các tiêu chuẩn của thuốc cấp trung ương
AIIMS
= All India Institute of Medical Sciences: tất cả đơn vị
nghiên cứu và giảng dạy các ngành y học Àn Độ
NPAC
National Pharmacovigilance Advisory Committee: ủ y
ban tư vấn cảnh giác dược quốc gia
DCGI
= Drug Controller General of India: Cơ quan quản lý thuốc
trên toàn Ấn Độ
PSUR
= Periodic Safety Update Reports; Các báo cáo cập nhật an
toàn định kỳ
ZPC
= Zonal Pharmacovigilance Centre: Trung tâm cảnh giác
dược khu vực
RPC
= Regional Pharmacovigilance Centre: Trung tâm cảnh giác
dược vùng
PPC
= Peripheral Pharmacovigilance Centre: Trung tâm cảnh
giác dược ngoại biên
FDA
= Food and Drug Administration: Cơ quan quản lý thuốc và
thực phẩm Hoa Kỳ
AERS
= Adverse Event Reporting System: Hệ thống báo cáo biến
cố có hại có thể liên quan đến thuốc
VAERS
= Vaccine Adverse Event Reporting System: Hệ thống báo
cáo biến cố có hại có thể liên quan đến vaccin
MAUDE
= Manufacturer and User Facility Device Experience
Database: Cơ sở dữ liệu của nhà sản xuất và người sử
dụng thiết bị y tế
MDR
= Medical Devices Reporting: Báo cáo thiết bị y tế
CDC
= Centrers for Disease Control and Prevention: Trung tâm
kiểm soát và phòng tránh bệnh
SIDA
Swedish International Development Cooperation Agency:
tổ chức hợp tác phát triển quốc tế Thụy Điển
TT A&D
Trung tâm quốc gia về thông tin thuốc và theo dõi phản
ứng có hại của thuốc
DANH MỤC CÁC BẢNG
Tên bảng
Trang
Bảng 1.1: Sự khác nhau giữa ADR và ADE
6
Bảng 1.2: số lượng báo cáo từ các nguồn khác nhau tại Đan Mạch
15
năm 2008
Bảng 3.3: Sự khác nhau giữa PEM và YCS
37
Bảng 3.4. ư u nhược điểm các chương trình của trung tâm cảnh giác
46
dược New Zealand
Bảng 3.5. Số lượng báo cáo ADR trong các năm vừa qua tại Việt
58
Nam
Bảng 4.6. Sự khác nhau giữa mô hình cảnh giác dược tại Anh và
New Zealand
63
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, Đ ồ THỊ
Tên hình
Trang
Hình 1.1. Mối quan hệ giữa ADR và ADE
5
Hình 1.2. Quá trình phát triển lâm sàng của thuốc
7
Hình 1.3. Cấu trúc mô hình cảnh giác dược
12
Hình 1.4. Phần trăm số lượng báo cáo từ các nguồn khác nhau tại
16
Đan Mạch năm 2008
Hình 1.5. Các nguồn báo cáo tại Hoa Kỳ năm 2008
17
Hình 2.6. Sơ đồ khái quát nội dung nghiên cứu của đề tài
23
Hình 2.7. Sơ đồ xử lý dữ liệu của đề tài
24
Hình 3.8. Sơ đồ bộ máy tổ chức cảnh giác dược tại Anh
27
Hình 3.9. Sơ đồ hoạt động của Chương trình thẻ vàng
30
Hình 3.10. Sơ đồ quy trình hoạt động của PEM
33
Hình 3.11. Sơ đồ bộ máy tổ chức cảnh giác dược tại New Zealand
37
Hình 3.12. Sơ đồ phương thức hoạt động cảnh giác dược New
39
Zealand
Hình 3.13. Sơ đồ hoạt động cảnh giác dược tại Hoa Kỳ
48
Hình 3.14. Cơ sở dữ liệu của Medwatch
49
Hình 3.15. Sơ đồ cấu trúc hệ thống cảnh giác dược Án Độ
52
Hình 3.16. Sơ đồ hoạt động cảnh giác dược tại Việt Nam giai đoạn
55
dưới sự tài trợ của tổ chức SIDA
Hình 3.17. Sơ đồ hoạt động cảnh giác dược tại Việt Nam hiện nay
56
Hình 3.18. Số lượng báo cáo ADR trong các năm vừa qua tại Việt
58
Nam
ĐẶT VẤN ĐÈ
Thuốc đóng vai trò hết sức quan trọng trong đời sống của con người.
Thuốc giúp mang lại sức khỏe và cải thiện đời sống. Song thuốc là con dao
hai lưỡi, bên cạnh những lợi ích to lớn mà nó đem lại thì những tác hại do nó
gây ra cho con người cũng không hề nhỏ. Tại Hoa Kỳ, phản ứng có hại của
thuốc là nguyên nhân gây tử vong đứng thứ 4 đến thứ 6 [32]. Từ năm 2004
đến 2006 các lỗi liên quan đến dùng thuốc gây ra 238.337 trường hợp tử vong
có thể ngăn chặn được và gây thiệt hại cho chương trình y tế Hoa Kỳ 8.8 tỷ
USD. Tại Anh phản ứng có hại của thuốc là nguyên nhân của 6,5% tổng số
bệnh nhân nhập viện. Tính trong năm 2006 tại Anh tổng số bệnh nhân nhập
viện là 16 triệu người, điều này có nghĩa là 1.040.000 bệnh nhân nhập viện là
do phản ứng có hại của thuốc [33]. Dịch vụ y tế quốc gia của Anh hàng năm
mất gần 2 tỷ euro để điều trị cho các bệnh nhân gặp ADR [33]. Đặc biệt thảm
họa thalidomide năm 1961 - 1962 gây dị tật bẩm sinh cho khoảng 10.000 đứa
trẻ mà mẹ của chúng đã sử dụng thalidomide trong thời kỳ mang thai là thảm
họa liên quan đến sử dụng thuốc lớn nhất trong lịch sử và là nỗi đau không
thể quên của nhân loại. [32]
Những con số trên đặt ra một yêu cầu cần thiết phải có một hệ thống
kiểm soát an toàn của thuốc không chỉ trước khi thuốc được phép đưa ra thị
trường mà ngay cả sau khi thuốc được phép lưu hành. Chính vì vậy hệ thống
cảnh giác dược đã được thành lập ở nhiều quốc gia trên thế giới như: Hà Lan
(1963), Anh (1964), Pháp (1973)...[32]. Cùng với các quốc gia, Tổ chức y tế
thế giới WHO cũng đã có những nỗ lực đặc biệt để thiết lập một mạng lưới
theo dõi, ghi nhận và kiểm soát tác dụng phụ của thuốc bằng việc cho ra đời
Chương trình kiểm soát thuốc quốc tế WHO vào năm 1968.[32
Việt Nam là thành viên của Chương trình kiểm soát thuốc quốc tế WHO
vào năm 1999 [32], [38]. Tuy nhiên tại Việt Nam hoạt động thông tin thuốc
không có định hướng lâu dài, thiếu hẳn đội ngũ triển khai thông tin thuốc và
cảnh giác dược. Thuốc tại Việt Nam còn bị sử dụng bừa bãi, gần như không
có những thông tin liên quan đến việc báo cáo phản ứng có hại của thuốc
được đưa ra. Chỉ khi nào những phản ứng có hại của thuốc gây ra khiến bệnh
nhân phải nhập viện hoặc cần đến bác sỹ tư vấn thì những thông tin này mới
được ghi nhận lại. Nhưng nhiều báo cáo còn không ghi đầy đủ thông tin về
tên thuốc, liều dùng. Ngoài ra, mô tả diễn biến bệnh và các biểu hiện phản
ứng nhiều khi còn sơ sài. Tại Cục quản lý Dược, công việc thu thập dữ liệu
liên quan đến Thông tin thuốc cũng chỉ do bộ phận nhỏ phụ trách, thiếu thốn
về cơ sở vật chất và nguồn nhân lực. Như vậy hệ thống cảnh giác dược tại
Việt Nam vẫn còn rất nhiều bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu sử dụng thuốc
an toàn, hợp lý và hiệu quả của cộng đồng.
Chính vì lý do trên chúng tôi thực hiện đề tài; ‘‘Khảo sát mô hình cảnh
giác dược của một số nước trên thế giới” nhằm các mục tiêu sau:
1. Mô tả mô hình cảnh giác dược của một số nước: Anh, New Zealand,
Hoa Kỳ và Ấn Độ
2. Đề xuất mô hình cảnh giác dược tại Việt Nam
Chương 1: TỔNG QUAN
1.1. Tổng quan về cảnh giác dược
1.1.1. Lịch sử ra đời và phát triển
Cảnh giác dược ra đời từ sau thảm họa thalidomide [28]. Năm 19611962 thảm họa thalidomide xảy ra, đây là thảm họa lớn nhất trong việc sử
dụng thuốc. Thalidomide được đưa ra và chào đón như là một loại thuốc để
điều trị chứng mất ngủ và buồn nôn ở phụ nữ có thai. Nhưng thật không may
nó gây dị tật bẩm sinh cho khoảng 10.000 đứa trẻ mà mẹ của chúng đã sử
dụng thuốc này. Câu chuyện đau lòng về thảm họa thalidomide được lan
truyền nhanh chóng khắp nơi. Các quốc gia nhận thấy cần thiết phải có một
hệ thống phát hiện, đánh giá và thông báo các phản ứng có hại của thuốc sau
khi thuốc được đưa ra thị trường. Chính vì vậy hệ thống cảnh giác dược đã ra
đời ở nhiều quốc gia như: Hà Lan (1963), Anh (1964), Pháp (1973)....[32]
Sau thảm họa thalidomide hội nghị Y tế thế giới lần thứ 16 (1963) thông
qua nghị quyết WHA (16.63) tái khẳng định lại yêu cầu cần thiết phải có
những hành động sớm để phổ biến thông tin về các phản ứng có hại của thuốc
một cách nhanh chóng.[46] Năm 1968 dự án thí điểm Chương trình kiểm soát
thuốc quốc tế của WHO đã ra đời với sự tham gia của 10 nước thành viên đây là các nước đã có hệ thống CGD quốc gia tại thời điểm này: Australia,
Canada, Tiệp Khắc, Cộng hòa liên bang Đức, Ireland, Hà Lan, New Zealand,
Thụy Sỹ, Anh và Hoa Kỳ. Sau đó là Thụy Điển và Na Uy. [32],[42]
Trung tâm kiểm soát thuốc quốc tế của WHO ban đầu có trụ sở tại
Geneva - Thụy Sỹ. Sau đó vào năm 1978 Trung tâm này đã chuyển trụ sở đến
Trung tâm hợp tác kiểm soát thuốc quốc tế của WHO ở Uppsala - Thụy Điển.
Đây là kết quả của một hiệp định giữa WHO và chính phủ Thụy Điển trong
đó Thụy Điển sẽ chịu trách nhiệm điều hành Chương trình này còn trụ sở của
WHO tại Geneva vẫn giữ trách nhiệm về các vấn đề thuộc chính sách. Trung
tâm hợp tác kiểm soát thuốc quốc tế của WHO ở Uppsala thường biết đến với
cái tên Trung tâm kiểm soát Uppsala (Uppsala Monitoring Centre) .[32],[18]
Những năm gần đây ngày càng nhiều các quốc gia tham gia Chương
trình giám sát thuốc quốc tế: năm 2005 Chương trình có 78 quốc gia thành
viên[46], năm 2009 có 90 nước và đến năm 2010 đã có 98 nước.[38]
Điều này cho thấy CGD ngày càng được mở rộng và đóng vai trò quan
trọng trong việc giám sát thuốc ở các nước trên thế giới.
1.1.2. Môt
cơ bản
• số khái niêm
•
Từ khi ra đời vào những năm 60, cảnh giác dược đã có nhiều định nghĩa
khác nhau nhưng theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cảnh giác dược được
định nghĩa như sau: "'Cảnh giác dược là môn khoa học và các hoạt động liên
quan đến phát hiện, đánh giá, hiểu biết, và phòng ngừa các phản ứng có hại
của thuốc hoặc bất kỳ vấn đề khác có thể liên quan đến thuốc”. [32],[45],[47]
Quá trình sử dụng thuốc luôn chứa đựng những rủi ro. Khi con người
dùng thuốc, họ có thể gặp phải các biến cố lâm sàng bất lợi ví dụ như: chóng
mặt, đau đầu, ban da hoặc các hội chứng khác, nhưng không phải tất cả các
biến cố có hại này đều gây ra bởi thuốc; một vài biến cố có thể do tình trạng
bệnh hoặc thể trạng của bệnh nhân, hay do giới tính hoặc các nhân tố môi
trường, do chế độ ăn hoặc các nguyên nhân khác. Còn các biến cố liên quan
đến thuốc cũng có nhiều nguyên nhân như do thuốc kém chất lượng, do các
sai sót liên quan đến thuốc (trong kê đơn, chuẩn bị, phân phát hoặc dùng
thuốc), hoặc các tính chất dược lý đã biết hoặc chưa biết của thuốc. Chính vì
vậy có sự khác nhau giữa hai định nghĩa “phản ứng có hại của thuốc” (ADR)
và “biến cố bất lợi liên quan đến thuốc” (ADE).
Phản ứng có hại của thuốc (ADR) được định nghĩa là đáp ứng của con
người hoặc động vật với một thuốc mà đáp ứng này gây độc, không mong
muổn và xcty ra ở liều sử dụng bình thường của con người để phòng, chẩn
đoán hoặc điều trị bệnh hoặc thay đôi chức năng sinh lý cua cơ //ìể.[32J,[42J
Biển cố bất lợi liền quan đến thuốc (ADE) là bẩt kỳ vấn đề y tế nào xảy
ra trong suốt quá trình điều trị với thuốc nhưng không nhất thiết phải có mối
quan hệ nhân quả với việc điều /r/.[32],[42
Để thấy rõ được sự khác nhau giữa ADR và ADE ta xét mối quan hệ
giữa ADR và ADE được biểu diễn theo hình dưới đây;
Các sai sót ỉiên
ADBs
ADRs
Hình 1.1. Mối quan hệ giữa ADR vàADE
Như vậy phạm vi của ADE rộng hơn ADR, ADE bao gồm ADR. Nhưng
sự khác nhau cơ bản giữa ADR vàADE là ở chỗ:[18]
Bảng 1.1. S ự khác nhau giữa ADR và ADE
ADE
ADR
Không khẳng định mối quan hệ nhân Xác định mối quan hệ chắc chắn hoặc
quả được xác định giữa thuốc và sự có thể hơn, cơ chế có thể giải thích
kiện mà chỉ là một chút nghi ngờ, theo tác dụng dược lý hoặc trong vài
ngoài thuốc ra còn do các yếu tố khác trường hợp không thể giải thích theo
như: di truyền, chế độ ăn, môi như bình thường được.
trường...
Hệ thống CGD không chỉ kiểm soát các ADR của thuốc mà kiểm soát tất
cả các ADE trong đó có cả nguyên nhân do sai sót liên quan đến thuốc và do
chất lượng thuốc (thuốc giả hay thuốc kém chất lượng).
1.1.3. Vai trò của cảnh giác dược
Báo cáo thường niên năm 1969, 1970 của Hội đồng an toàn của thuốc
(Committee on Safety of Drugs) đã khẳng định: “ không phải tất cả các nguy
cơ của thuốc đều được biết trước khi thuốc được đưa ra ngoài thị
Nguyên nhân là do các giới hạn của thử nghiệm lâm sàng trước
khi thuốc được phép lưu hành. Chính vì vậy kiểm soát thuốc sau khi đưa ra
thị trường là cần thiết. Để hiểu rõ các giới hạn của thử nghiệm tiền lâm sàng,
lâm sàng và vai trò của CGD ta xét sơ đồ dưới đây:
Hiase ĩĩ
Phase IV
m õi tươna nehien cứu
■ ■ ■ ■ ■ ■ ■ ■ ■ ■ ■ ■ ■ ■ ■ ■ I
M M ^ M B M M i i M l g M g j lMfWTr'miinwriTTOlTrrTTTin-Ti
m ếm nm m nm m
mrnmmf^«mmịmímmw3mỄmỉ
ề^^ĩmm
S88ffll®9!IMI ẼlữSS^ÊSĩSỀ WtĩỉWÍSSSĩĩ9Ế
Phát triển
Đăng ký
Hình 1.2. Sơ đồ quả trình phát triển lâm sàng của thuốc[46J
Theo sơ đồ trên ta thấy: một thuốc trước khi đưa ra thị trường phải trải
qua các thử nghiệm tiền lâm sàng và lâm sàng rồi mới được cấp phép. Tuy
nhiên không phải thuốc sau khi được cấp phép là đã được đảm bảo an toàn
hoàn toàn bởi vì các thử nghiệm trước khi cấp phép không phản ánh hết được
các tác dụng phụ của thuốc do các hạn chế sau; [32],[46;
• Thứ nhất là do hạn chế của cỡ mẫu nghiên cứu tức là số lượng người
trung bình tham gia vào các thử nghiệm lâm sàng trước khi thuốc được cấp
phép còn giới hạn, ví dụ tại Anh chỉ khoảng hơn 1500 người, số lượng
người vẫn còn quá nhỏ để phát hiện ra các ADR không thông thường hoặc
hiếm xảy ra cho dù nó rất nghiêm trọng đi chăng nữa. Ví dụ để phát hiện
ra một ADR có tần suất là 1/1000 thì cần 18.200 bệnh nhân. Thường thì
chỉ có các ADR có tần suất lớn hơn 1/1.000-1/500 mới được phát hiện
trong các thử nghiệm lâm sàng. Vì hạn chế của số người tham gia thử
nghiệm nên độ an toàn của thuốc phụ thuộc rất lớn vào việc giám sát thuốc
khi nó được đưa ra thị trường.
• Thứ hai là do hạn chế về độ tuổi và tình trạng bệnh của đối tượng tham
gia nghiên cứu. Những người tình nguyện và các bệnh nhân tham gia thử
nghiệm lâm sàng trước khi thuốc đưa ra thị trường là những người có độ
tuổi trung bình, các thử nghiệm lâm sàng không được tiến hành trên người
già, trẻ em và phụ nữ có thai. Trong khi đó trên thực tế đây là các đối
tượng rất hay phải dùng thuốc. Như vậy các thử nghiệm lâm sàng không
phát hiện được hết các ADR có thể xảy ra trên người già, trẻ em và phụ nữ
có thai tức là bệnh nhân người mà sẽ dùng các thuốc này khi thuốc được
đưa ra thị trường có đặc điểm rất khác với những người tình nguyện và các
bệnh nhân tham gia thử nghiệm lâm sàng trước khi thuốc được đưa ra thị
trường. Hầu hết các bệnh nhân trong các thử nghiệm lâm sàng thông
thường chỉ có duy nhất một bệnh đang được điều trị với duy nhất một
thuốc. Trong khi đó trên thực tế một bệnh nhân có thể mắc nhiều bệnh đặc
biệt là người cao tuổi - rất nhiều người trong số họ mắc nhiều hơn một
bệnh nên họ phải dùng rất nhiều loại thuốc. Do đó thử nghiệm lâm sàng
không đánh giá được hết các tương tác thuốc có thể xảy ra trong thực tế.
•
Nguyên nhân thứ ba là do giới hạn về thời gian nghiên cứu, các thử
nghiệm lâm sàng chỉ được tiến hành trong một khoảng thời gian nhất định
trong khi có nhiều ADR chỉ biểu hiện sau một thời gian dài dùng thuốc. Ví
dụ như finasteride dùng để điều trị phì đại tuyến tiền liệt ở nam giới gây ra
chứng vú to ở nam giới.[32'
Chính vì vậy theo dõi tính an toàn của thuốc trong pha IV hay các hoạt
động cảnh giác dược đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc kiểm soát an
toàn của thuốc thúc đẩy việc sử dụng thuốc an toàn, hợp lý và hiệu quả hơn,
cải thiện chăm sóc và đảm bảo an toàn cho bệnh nhân.
Hiện nay phạm vi của CGD không chỉ dừng lại ở kiểm soát an toàn của
thuốc tân dược mà đã mở rộng bao gồm nhiều lĩnh vực cả thảo dược, thuốc cổ
truyền và thuốc hỗ trợ điều trị, các chế phẩm sinh học và các chế phẩm từ
máu để đảm bảo an toàn cho bệnh nhân toàn diện hơn.[45],[47'
1.2. Tổng quan về mô hình cảnh giác dược
1.2.1. Khái niệm
Theo từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam, mô hình theo nghĩa hẹp là:
‘'"mẫu, khuôn, tiêu chuẩn theo đó mà chế tạo ra sản phẩm hàng loạt; là thiết
bị, cơ cấu tái hiện hay bắt chước cấu tạo và hoạt động của cơ cấu khác (của
nguyên mẫu hay cái được mô hĩnh hoá) vĩ mục đích khoa học và sản xu ẩ f\
nghĩa rộng là '"hĩnh ảnh (hình tượng, sơ đồ, sự mô tả, vv.) ước lệ của một
khách thể (hay một hệ thống các khách thể, các quá trình hoặc hiện tượng).
10
1.2.2. Các hệ thống báo cáo phản ứng có hại của thuốc
Theo WHO (2002) [43] có 2 hệ thống chính được sử dụng để báo cáo
ADR:
- Hệ thống báo cáo tự nguyện (spontaneous reporting) đây là hệ thống
báo cáo thụ động (passive reporting)[19;
- Hệ thống các cơ sở dữ liệu có cấu trúc (structured database) đây là hệ
thống báo cáo chủ động (passive reporting)[19]
I.2.2.I. Hệ thống báo cáo tự nguyện
Trong tất cả các nguồn dữ liệu cung cấp cho việc kiểm soát an toàn của
thuốc, hệ thống báo cáo tự nguyện cung cấp lượng thông tin lớn nhất với chi
phí nhỏ nhất. [47'
Hệ thống báo cáo tự nguyện được định nghĩa như sau: “ một hệ thống mà
các báo cáo đơn lẻ về các biến cố bất lợi có thể liên quan đến thuốc được báo
cáo tự nguyện bởi các cán bộ y tế và các công ty dược đến trung tâm cảnh
giác dược quốc gỉứ”[47].
Chức năng chính của hệ thống báo cáo tự nguyện là phát hiện các đặc
điểm mới hoặc một sự thay đổi so với mô tả sơ lược các phản ứng có hại của
thuốc. Hoạt động này có thể tạo ra một giả thiết về nguồn gốc của ADR. Vì
vậy đây là một công cụ thiết lập giả thiết, các phương pháp dịch tễ dược học
có thể được sử dụng để kiểm tra các giả thiết này.
Điểm mạnh của hệ thống báo cáo tự nguyện là có thể kiểm soát liên tục
việc sử dụng thuốc trong suốt quá trình nó lưu hành trên thị trường. Tuy nhiên
điểm yếu lớn nhất của nó là báo cáo không đầy đủ (under-reporting).[32],[15]
Do kinh phí tổ chức thấp và dễ thực hiện nên hệ thống báo cáo tự nguyện
được sử dụng ở hầu hết tất cả các nước có hệ thống CGD để thu thập các báo
cáo ADR đặc biệt là các nước đang phát triển có hệ thống CGD mới được
thành lập.
11
I.2.2.2. Hệ thống các cơ sở dữ liệu có cấu trúc
Các vấn đề liên quan đến an toàn của thuốc được đánh giá không chỉ
thông qua hệ thống báo cáo tự nguyện mà còn được đánh giá thông qua thông
tin thu được từ cơ sở dữ liệu của một số lượng lớn bệnh nhân [16]. Cơ sở dữ
liệu ghi lại tất cả các sự kiện liên quan đến các vấn đề y tế của một nhóm các
bệnh nhân hoặc tất cả các trường họp cá biệt khi một thuốc cụ thể được kê
đơn. Cơ sở dữ liệu này cực kỳ hữu ích vì nó ghi lại tất cả các biến cố xảy ra
trong điều kiện bình thường thay vì chỉ ghi lại một vấn đề an toàn của thuốc
hay một ADR. Các cơ sở dữ liệu này là nguồn quan trọng cho việc thử
nghiệm các giả thiết được hình thành từ hệ thống báo cáo tự nguyện. [26]
Ví dụ các cơ sở dữ liệu có cấu trúc như: PEM - Anh và New Zealand
1.2.3. Các thành phần trong mô hình
Hệ thống CGD của một quốc gia phải phối hợp được hoạt động của tất
cả các thành viên ở cấp địa phương, cấp quốc gia và cấp quốc tế góp phần
đảm bảo an toàn của thuốc.
- Xem thêm -