Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khảo sát khái niệm câu đơn theo quan điểm truyền thống và cú đơn theo quan điểm ...

Tài liệu Khảo sát khái niệm câu đơn theo quan điểm truyền thống và cú đơn theo quan điểm của ngữ pháp chức năng (hệ thống)

.PDF
92
1975
148

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------★ ★ ★ ----------------- H O À N G A NH T U  N KHẢO S Á T KHÁI NIỆM CÂU ĐƠN THEO QUAN ĐIỂM TRU YỀN THỐNG V À c ú ĐƠN THEO QUAN ĐIỂM CỦ A NGỮ PHÁP CHỨC NĂNG (HỆ THốNG) LUệN VÃN TH6C sĩ NGÔN NGỨ HỌC Chuyên ngành. LÝ LUẬN NGÔN NGỮ Mũ SỐ : 5 04 08 Người hướng dân khoa học. PGS. TS. HOÀIMG V Ă N V  N ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM THÔNG TIN THỰ VIỆN V- iz/ M Hà Nội, 2005 LỜI CẢM ƠN Ẩ Ltiù ii lì/m n à i/ ittírío . h o à n t h à n h o iii u i (JỈÚ ỊI it ĩỉ, (Tôm/ lù è n (‘ủ a u h ì ĩ u m / itò i. (cĩrtìti(ị. it í) rp c ị< s . íc7 cV ^ỉôoàiii/ <7)011 r( ) â n là n t Ị i iò i c ó D a i trì) (/11(111 t r t ìn ỊỊ n / u ĩt. Q u ã n g , t h ò i Ị/ ia n lù m lù ẻ e o íf í 'r ĩh t ỉy lù q n ã u ụ t h ò i Ị/Ù m em có t h ỉ III I i l t i ỉ u U iêu th u a hì) íc h t ừ c h ín h .111 ( liu ( lắ t , c h í b ả n â n c ầ n CŨI K Ị I ilm t h ú i itô ỉù u t D Ìêc i i t / h iỉu i t ú c c ú n \ Jh u i/ . -r iu (tứ ríe. h iu / tó lò m / h iè t (tu MĨII sắ ti D Ì it liu iK / q ì ú ị i đ õ to ló 'u (ìt/. & n t e ĩm q Jf!ii itù tìe ỉ)à y tó lò n t Ị /ùêí ó(t ĩ t ĩ u c á c Q ỉit ĩi / fJô In ìiK / D C h tìu (K /ô n 111) 17 h o e , ^ n ỉỒ tU Ậ ( Đ ụ i h o e k lu ) a h tìe x ã h ộ i u à n h ã n v t ìn - rt ìt f ì họe. q u ố c ( jìa 1ÕÙ Q ỈẬ Ì, D Ì M t U h ú h lê , ĩtô iH ) D Ì i n e ũ n ỊỊ l i l i n i i l n l i K / c h í h á o q u i Ị) ĩtõ ’ I t l i i ĩ l tìn h cả ( í aá a 'c7 lia ij, ê r ) . l ù à Q l ệ i 2 4 t liú n i) 1 0 n ă m 2 0 0 5 7 ? (/ ĩ): 'dôtìàiM Ị c  iili (r jiiã 'u 1 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa lừng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn 2 NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN ƯT ứ n g thế Đht Đại hiện tượng ĐN Đ ề ngữ ĐNT Đích ngôn thế ĐT:đt Đích thế: đối tượng Đth Đương thê BN B ổ ngữ BN:đt B ổ ngữ: đối tượng cc Chu cảnh CC:tg Chu cảnh thời gian CC1 Chu cảnh I CC2 Chu cảnh 2 CN Chủ ngữ CT Cảm th ể HHT Hiện hữu th ể HT Hành th ể KNgh Kinh nghiệm LG Lô 2ích LN Liên nhân NgB Ngôn bản PN Phụ ngữ PN1 Phụ ngữ 1 PN2 Phụ n gữ 2 PNT Phất ngôn th ể QT: hh Quá trình hiện hữu QT: hv Quắ trình hành vi QT: pn Quá trình phát ngôn 3 QT: qh Quá trình quan hệ QT: tt Quấ trình tinh thẩn QT: vc Quá trình vật chất ThN Thuyết ngữ ThT Tham th ể TNT Tiếp ngôn th ể VN Vị ngữ a Cú chính p Cú thứ HỆ THỐNG KÍ HIỆU QUY ƯỚC / Ranh giớ i cụm từ, nhóm từ II Ranh giới cú III Ranh giới cú phức Ranh giớ i cụm từ bị bao [] Quan hệ m ở rộng 1+2 Quan hệ phóng chiếu a + p a Ap Quan hệ phóng chiếu p phụ thuộc o. 1 A2 Quan hệ bành trướng 2 phụ thuộc 1 4 MỤC LỤC Trang PHẦN MỞ ĐẦU /. Mục đích, ỷ nghĩa của luận văn 7 1.1 Đối tượng nghiên cứu và lý do chọn đề tài 7 1.2 Dự kiến những đóng góp của luận văn 9 1.3 Nhiệm vụ nghiên cứu 9 1.4 Lịch sử vấn đề 10 1.4.1 Giai đoạn trước 1945 11 1.4.1.1 Vấn đề thứ nhất : Câu là gì? 12 1.4.1.2 Vấn đề thứ h a i : Cú là gì? 12 1.4. 12 2 Giai đoạn từ 1945 đến nay 1.4.2.1 Vấn đề thứ nhất: Câu là gì ? 13 1.4.2.2 Vấn đề thứ hai: Cú là gì? 15 2. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu 17 3. Bô cục của luận văn 18 Chương l . CÚ PHÁP - NHŨNG VẤN ĐỀ CHUNG VÀ VIỆC NGHIÊN c ú u CÚ PHÁP TIẾNG VIỆT 1.1 Đối tượng của cú pháp học, mối QH giữa từ pháp và cú pháp 19 1.2 Quan hệ cú pháp và hình thức cú pháp 21 1.3 Nghiên cứu cú pháp ở nước ngoài 23 1.4 Nghiên cứu cú pháp tiếng Việt ở trong nước 25 1.5 Một vài đặc điểm của cú pháp tiếng Việt 28 1.6 Tiểu kết 29 Chưonư 2 : KHÁI NIỆM CÂU (ĐƠN) THEO QUAN ĐlỂM t r u y ề n THốNG 2.1 Giới thiệu 30 2.2 Cáu theo quan niệm truyền thống 31 2.2.1 Định nghĩa về câu 31 2.2.2 Tiêu chí nhận diện câu theo quan niệm truyền thống 33 5 2.2.2.1 Tiêu chí về ngữ nghĩa - lô gich 33 22.2.2 Tiêu chí về cấu trúc 34 2.2.2.3 Tiêu chí nhận diện câu dựa trên mục đích nói 36 2.2.2. 4 Tiêu chí dựa trên ngôn điệu, âm vị và văn tự 36 2.2.3 Xung quanh vấn đề tiêu chí nhận diện câu tiếng Việt 36 2.2.4 Tiêu chí phân loại câu tiếng Việt 42 2.2.5 Vấn đề phân loại câu theo cấu trúc ngữ pháp 44 2.3. Cáu đon theo quan niệm truyền thông 45 2.3.1 Câu đơn là gì? 46 2.3.2 Câu đơn đặc biệt(phần dư) 53 2.3.2.1 Phủ nhân sự tồn tại của các kiểu câu này 54 2.3.2.2 Chấp nhận sự tồn tại của kiểu câu này 54 56 2.4. Tiêu kết Chuông 3: KHÁI NIỆM c ú TIÊNG VIỆT THEO QUAN ĐlỂM c ủ a NGỮPHÁP CHỨC NÂNG HỆ THÔNG 3.1 Vai trò và vị th ế của cú trong ngũ pháp truyền thống 57 3.2 Vai trò và vị th ế của cú trong lý thuyết chức năng hệ thống 59 3.3 Cú tiếng Việt giải thích theo quan điểm chức năng hệ thông 64 3.3.1 Các tiêu chí ngữ nghĩa 65 3.3.2 Các tiêu chí ngữ pháp - từ vựng 71 3.4 Thử vận dụng các tiêu NN, NPTVđểnhận diện cú tiếng Việt 76 3.5 Cú chính và cú phụ 80 3.6 So sánh khái niệm càu (đơn) theo quan điểm truyền thống 8] và cú (đơn) theo quan điểm chức năng hệ thông 86 3.7 Tiểu kết PHẦN KẾT LUẬN 87 PHỤ LỤC 89 6 PHẦN MỞ ĐẨU 1. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA LUẬN VĂN 1.1. Đối tượng nghiên cứu và lý do chọn đ ề tài Định nghĩa thế nào là câu, vấn đề từ xưa tới nay vẫn được xem là khó khăn bậc nhất của cú pháp học nói riêng và ngữ pháp học nói chung. Con số trên 300 định nghĩa về câu (Hoàng Trọng Phiến 1980: 14) hẳn đã phần nào chứng tỏ được điều này. Bên cạnh khái niệm câu ( sentence ) trong Iruyền thống nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt còn tổn tại một khái niệm khác - khái niệm cú ( clause ), sẽ chẳng có gì phải bàn cãi nếu chỉ nhìn qua hai thuật ngũ' này. Tuy nhiên, khác với câu trong truyền thống nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt, khái niệm cú rất ít khi được thảo luận, nó chủ yếu được đặt trong khái niệm câu đơn. Điều này không khỏi dẫn đến nhiều hoài nghi xung quanh vai trò và vị thế của hai khái niệm được xem là “có nhiều điểm tương đồng” này. Trong các đường hướng nghiên cứu ngôn ngũ' hiện nay, ngữ pháp chức năng được đánh giá là hướng đi mới đầy triển vọng. Ra đời muộn hơn (chỉ vào khoảng những năm 70 của thế kỷ 20) nhưng ngay lập tức ngữ pháp chức năng đã thu hút được sự chú ý của rất nhiều nhà nghiên cứu. Trong nội bộ của ngữ pháp chức năng người ta thấy có nhiều hướng đi khác nhau nhưng có hai hướng đi giành được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Đó là hướng chức năng của s . Dik (Funtional Grammar) và hướng ngữ pháp chức năng thiên về (hệ thống) của M.A.K Halliday (Systemic Funtional Grainmar). Cả hai dòng ngữ pháp chức năng này đều gắng đạt đến tính phổ quát cao, mong muốn bao quát được mọi ngôn ngữ. Tuy nhiên, khi so sánh hai dòng ngữ pháp này người ta thấy ngữ pháp chức năng hệ thống của M.A.K Halliday có tính ưu việt hơn hẳn trong quan điểm ba bình diện ngữ pháp câu xét về mặt lý thuyết. Tính ưu việt của ngữ pháp chức năng của M.A.K Halliday còn thể hiện ở lý thuyết các loại hình sự thể 7 với một vòng tròn khép kín bởi ba khu vực lớn với ba miền trune gian, phản ánh được tất cả các loại hình sự thể. Ngoài ra ngữ pháp chức năng của M.A.K Halliday còn được đánh giá cao về tính linh hoạt trong ứng dụng thực tiễn (Diệp Quang Ban 2003: 14, 15). Đi theo hướng ngữ pháp chức năng, cả s. Dik và M.A.K Halliday đều lấy cú làm trung tâm, đối tượng nghiên cứu, làm điểm xuất phát. Theo M.A.K Halliday thì cú là một đơn vị có vị thế quan trọng nó là đơn vị hội tụ đầy đủ ba siêu chức năng (tư tưởng, ngôn bản, liên nhân), nó nằm ớ giao điểm của ba bình diện (tầng, cấp độ và siêu chức năng). M.A.K Halliday cho rằng “cú (cú phức) có thể giúp ta giải thích đầy đủ tổ chức, chức năng của các câu vì thế không nhất thiết phải'đưa vào khái niệm câu như là một phạm trù ngữ pháp tách biệt”, chỉ nên xem “nó như là đơn vị nằm giữa hai dấu chấm”. “Làm như vậy sẽ tránh được sự tối nghĩa” (M .A.H nlliday (bản dịch tiếng Việt) - 2001: 358). Tuy đạt được những kết quả khá khả quan nhưng sự vận dụng các đường hướng nghiên cứu vào tiếng Việt vẫn còn rất hạn chế, đặc biệt là các công trình có vận dụng ngữ pháp chức năng còn khá khiêm tốn. Đến nay, tính ứng dụng rộng rãi và tính ưu việt của ngữ pháp chức năng đã rõ ràng, nhưng những lý thuyết chung mà M.A.K Halliday lấy tiếng Anh làm ví dụ minh hoạ cho đến một ngữ pháp chức năng (hệ thống) của tiếng Việt là một con đường không ngắn, và dễ đi đòi hỏi có sự góp sức của nhiều người, chính vì thế, việc vận dụng lý thuyết này vào thực tế tiếng Việt lúc này là một việc làm cần thiết. Chính vì nhũng lý do trên, chúng tôi đã chọn đề tài “Khảo sắt khíỉi niệm câu (đơn) theo quan điểm truyền thốns và cú(đơn) theo quan điểm của ngữ pháp chức năng hệ thôhg". Lấy câu (cú đơn) trong tiếng Việt làm đối tượng nghiên cứu. Hy vọng có thể làm sáng tỏ một số vấn đề. 8 / . 2. Dự kiến những đóng góp của luận vãn Đề tài dự kiến sẽ có những đóng góp sau đây: ■ Chỉ rõ bản chất của hai khái niệm “câu đơn” trong ngữ pháp truyền thống và “cú” trong ngữ pháp chức năng. ■ Cho thấy được vai trò và vị thế quan trọng của cú trong nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt, một khái niệm xưa nay chưa được công nhận là đơn vị ngữ pháp cao nhất. ■ Góp phần giải quyết vấn đề vẫn còn tồn tại lâu nay, trong ngữ pháp tiếng Việt. 1. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu Muốn làm được vậy chúng tôi đặt ra những nhiệm vụ sau đây: ■ Khảo sát khái niệm về câu theo quan điểm truyền thống, nhũng đóng góp và những vấn đề còn tồn tại. ■ Các tiêu chí phân loại câu theo truyền thống những ưu, nhược điểm của những tiêu chí phân loại này. ■ Khảo sát vai trò của cú trong tiếng Việt theo quan điểm của ngữ pháp chức năng hệ thống của M.A.K Halliday, so sánh với khái niệm câu trong ngữ pháp truyền thống, từ đó chỉ rõ vai trò của nó trong nghiên cứu ngữ pháp. ■ Tiêu chí đề phân loại cú, có so sánh với các tiêu chí phân loại câu, từ đó chỉ rõ những điểm mạnh của những tiêu chí này. 9 / . 4. Lịch sử vấn đê Do nhiều nguyên nhân khác nhau mà ngành khoa học ngôn ngữ ớ Việt Nam phát triển muộn hơn nhiều nơi trên thế giới. Tuy nhiên, những thành tựu mà ngành ngôn ngữ học nói chung và cú pháp học ở Việt Nam nói riêng đã đạt được là khá khả quan. Các nhà Việt ngữ học đã cố gắng vận dụng những đường hướng, quan điểm tiên tiến của nhiều tác giả, trường phái ngôn ngũ' trên thế giới để giải quyết các vấn đề cụ thể của liếng Việt. Trong số những vấn đề nổi lên, thu hút được sự quan tâm của đông đáo các nhà nghiên cứu thì việc tìm ra một định nghĩa cho câu tiếng Việt là vấn đề được quan tâm hơn cả. Song cũng như nhiều nơi có ngành khoa học ngôn ngữ phát triển vấn đề về câu tiếng Việt đến nay vẫn chưa được giải quyết ổn thoả. Với câu hỏi câu là gì? Các nhà nghiên cứu vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau. Bên cạnh khái niệm câu, khái niệm cú trong truyền thống nghiên cứu ngũ' pháp tiếng Việt cũng tồn tại như là một đơn vị có vai trò và vị thế đặc biệt. Tuy nhiên, theo Cao Xuân Hạo “Thật không có một thuật ngũ' nào bất hạnh hơn”. Khái niệm cú rất ít khi được thảo luận và chủ yếu được đặt trong khái niệm câu đơn. Sở dĩ, cú ở đây được chúng tôi đề cập đến là vì trong Iruyền thống câu và cú là hai khái niệm chưa được phân biệt một cách rạch ròi. Vì những lý do trên, chúng tôi chọn trình bày lịch sử của hai vấn đề mà các nhà nghiên cứu còn nhiều ý kiến khác nhau. Hai vấn đề không nằm ngoài phạm vi câu hỏi mà các nhà nghiên cứu theo quan niệm truyền thống đã cố gắng tìm cho nó câu trả lời thoả đáng, đó chính là hai vấn đề và cũng là hai nhiệm vụ quan trọng của cú pháp học: Câu và cú là gì? Để tiện cho việc trình bày chúng tôi chia lịch sử nghiên cứu vấn đề thành hai giai đoạn. Giai đoạn từ 1945 trở về trước và giai đoạn từ 1945 đến nay. Lý do chúng tôi chọn năm 1945 làm ranh giới phân chia hai giai đoạn là vì năm này đánh dấu sự ra đời của nhà nước Việt Nam. Sự ra đời này có vai trò to lớn với sự phát triển không chỉ của ngôn ngũ' học mà còn với 10 nhiều ngành khoa học khác. Nhà nước Việt Nam với vị thế mới, đã nâng tiếng nói Việt Nam lên một tầm cao tương ứng và cũng nhờ những chính sách đúng đắn về ngôn ngữ, đã tạo ra được một sự chuyển biến to lớn cả về chất và lượng. Đây cũng là mốc thời gian vững chắc để Nguyễn Tài cẩ n phân kỳ “Giai đoạn tiếng Việt hiện nay” (Nguyễn Tài cẩn - 1998 : 8). 1.4 .1 Giai đoạn trước 1945 Ớ giai đoạn này việc nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt xét về đại cục chưa có tính chất của một ngành khoa học đích thực. Tuy nhiên, có thể xem đó là nhũng “thử nghiệm đầu tiên” đối với một ngành khoa học còn rất mới ở Việt Nam. Nhìn chung, có thể tóm lược việc nghiên cứu giai đoạn này bằng hai từ “thực tế” và “mô phỏng” (Đinh Văn Đức - 1986: 3, Lưu Vân Lăng - 1988: 5). Có thể thấy rõ điều này qua một số công trình tiêu biểu giai đoạn này như: Grammaire de la langue Annamite của Trương Vĩnh Kí (1883). Études sưr la langue Annamite của Grammond & Lê Quang Trinh (1911). Cours élémentaire d ’ Annamite của Bouchet (1912). Việt Nam văn phạm của Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm Duy Khiêm (1940) v.v. 1.4.1.1 Vấn để thứ nhất: Câu là gì? Với vấn đề “câu là gì” các nhà nghiên cứu ngũ’ pháp tiếng Việt giai đoạn này, không đặt ra cho mình nhiệm vụ phải trả lời và mặc nhiên coi vấn đề như đã được giải quyết xong, hi hữu có những tác giả định nghĩa “nhưng đó cũng chỉ là những định nghĩa nhắc lại những định nghĩa về câu trong các sách ngữ pháp dùng ở trường trung tiểu học Pháp” (Nguyễn Kim Thản- 1997: 501). Ngữ pháp nhà trường của Pháp vốn dĩ đã mang dấu ấn đậm nét của ngữ pháp duy lý (chủ yếu dựa vào các khái niệm lô gíc như : nhận định (đề nghị / phán đoán) chủ ngữ / vị ngữ.v.v. Định nghĩa câu của Trần Trọng Kim - Bùi Kỷ - Phạm Duy Khiêm trong cuốn “ Việt Nam Văn - p h ạ m là một ví dụ tiêu biểu cho nhận định này. Theo tác giả của “ Việt - Nam - vãn - phạm ” thì phép đặt câu là phép đặt các tiếng lập thành mệnh đề và các mệnh đề thành câu. Theo các tác giả này thì một mệnh đề bao gồm một chú 11 từ cộng với một tĩnh từ hay một động từ, chủ từ là tiếng đứng làm chú ớ trong mệnh đề. Tính từ là tiếng chỉ cái thể của chủ từ, những lừ này có thể có nhiều bổ từ (túc từ).v.v, định nghĩa của họ có thể diễn giải như sau: Câu = Một chủ từ 4- một tính từ (hay một động từ) N túc từ. Càu = N chủ từ + N tính từ (hay N động từ) + N túc từ ( Nguyễn K im Thản- 1997: 501 ) 1.4.1.2 Vấn đề thứ h a i : Cú là gì? Trong giai đoạn này tên gọi “cú” chưa được các nhà nghiên cứu đề cập đến. Tuy nhiên có thể thấy về cơ bản nội dung của chúng đã được thảo luận dưới tên gọi mệnh đề. Cách làm này có thể thấy ó' các tác giả cuốn “ Việt Nam Văn - phạm ” theo họ thì phép đặt câu bao gồm hai bước: bước đặt các tiếng thành mệnh đề và bước đặt mệnh đề thành câu và trong phần tiếp theo các tác giả đã đi thảo luận khá kĩ về các kiểu loại mệnh đề, cách (phép) lập mệnh đề thành câu. Song họ lại không cho biết thế nào là một mệnh đề. Cách làm này xuất phát từ sự ảnh hướng sâu rộng của chủ nghĩa truyền thống Pháp và dấu ấn của nó còn để lại đến mãi về sau này. Có thế thấy, sự khác biệt giữa câu và mệnh đề theo các tác giả của cuốn “Việt Nam văn phạm” chỉ là sự khác biệt về mặt số lượng của các mệnh đề và sự khác biệt đó không phải thuộc về những phẩm chất co' bản của đơn vị mà nó mang tên. 1.4.2 Giai đoạn từ 1945 đến nay Giai đoạn này đã chứng kiến sự trưởng thành và lớn mạnh của ngành ngôn ngữ học ở Việt Nam, với sự phát triển mạnh mẽ cả về số lượng lẫn chất lượng, là giai đoạn đánh dấu sự vận dựng có chọn lọc các đường hướng nghiên cứu ngôn ngữ trên thế giới. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan khác nhau mà việc nghiên cứu ngôn ngữ học ở Việt Nam giai đoạn này cũng còn nhiều điểm hạn chế. Một trong những hạn chế đó xuất phát từ nguyên nhàn chiến tranh, hai miền Nam - Bắc vì thế trong một thời gian dài không có sự trao đổi qua lại về mặt học thuật và hậu quả lất 12 yếu là mỗi miền lại phát triển theo một xu hướng riêng của mình. Cũng do hoàn cảnh chiến tranh nên các đường hướng nghiên cứu ngôn ngữ du nhập vào Việt Nam bằng nhiều nguồn và không đầy đủ. Điều này đã gây trỏ ngại không nhỏ cho việc có được một giải pháp trọn vẹn theo một đường hướng nào đó. 1.4.2.1 Ván đề thứ nhất: Cảu là gì? Trước câu hỏi câu là gì, mặc dù chưa đưa ra được trả lời có sự nhất trí hoàn toàn nhưng khác với giai đoạn trước, giai đoạn này các nhà nghiên cứu tiếng Việt đã cho thấy sự tìm tòi và có sự vận dụng sáng tạo trong nghiên cứu. Đi theo những đường hướng khác nhau mỗi nhà nghiên cứu có cánh nhìn nhận vấn đề riêng, và có sự vận dụng cụ thể. Đi tìm câu trả lời, có tác giả nhấn mạnh đến bình diện cấu trúc của câu, có tác giả nhấn mạnh đến ý nghĩa hoặc cả hai. Giai đoạn này chứng kiến ba hướng đi nổi bật đó là : ■ Hướng đi thiên hơn về ngữ pháp truyền thống. ■ Hướng đi chịu ảnh hưởng của cấu trúc luận và cấu trúc chức năng luận. ■ Hướng đị chịu ảnh hưởng của ngũ' pháp chức năng. ỉ . 4.2.1.1 Hướng đi thiên hơn vê ngữ pháp truyền thông Tiếng Việt là một ngôn ngữ không biến hình từ nên có lẽ vì vậy trong hầu hết các công trình nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt “không có công trình đáng kể nào mà lại theo khuynh hướng hình thức một cách tuyệt đối”. Đi theo hướng ngũ' pháp truyền thống các nhà nghiên cứu ngữ pháp giai đoạn này đã nhìn nhận vấn đề theo hướng chú ý đến cả hình thức lẫn nội dung, thậm chí coi trọng mặt nội dung hơn cả hình thức. Định nghĩa của tác giả cuốn “N gữ phấp Việt Nam"' là một ví dụ. Định nghĩa này không chỉ phản ánh sự tìm tòi, thể nghiệm của tác giả khi đi giải quyết một vấn đề nan giải của cú pháp mà nó còn đánh dấu bước phát triển của ngữ pháp tiếng Việt đang cố thoát ra khỏi cái bóng của ngữ pháp nhà trường Pháp, mặc dầu nó không khỏi gợi ra cho người ta nhiều thắc mắc như: liệu câu có nhất thiết 13 do nhiều từ hợp lại? Một ý hoàn toàn Ịà nhu' thế nào?.v.v. Đi theo hướng này còn phải kể đến Phan Khôi với Việt ngữ nghiên cứu (1955), Thanh Ba- Bùi Đức Tịnh với Văn phạm Việt Nam (1952), Nguyễn Hiến Lê với Để hiểu văn phạm (1952). 1.4.2.1.2 Hướng đi chịu ảnh hưởng của càu trúc luận và cáu trúc chức năng luận Do chiến tranh nên giai đoạn này Việt Nam bị chia cắt thành hai miền Nam - Bắc. Đi theo hướng cấu trúc nhưng ở mỗi miền lại có sự khác biệt. Miền Nam chịu ảnh hưởng của trường phái cấu trúc miêu tả Mỹ, còn miền Bắc lại chịu ảnh hưởng của trường phái cấu trúc châu Âu (đặc biệt là lý thuyết đại cương của Ferdinand de Saussure). Theo hướng cấu trúc luận, ở miền Nam, giai đoạn này nổi bật lên đó là “Khảo luận ngữ phấp Việt Nam ” (1963) của Trương Văn Trình và Nguyễn Hiến Lê. Còn tiêu biểu cho hướng đi chịu ảnh hưởng của trường phái miêu tả Mỹ, ớ miền Nam, đó là những công trình nghiên cứu về tiếng Việt của Lê Văn Lý. Cũng theo hướng này còn có nhũng tác giả như: Bùi Đức Tịnh với “ Văn phạm Việt Nam - siản dị và thực dụng' (1962), Trần Ngọc Ninh với “Cơ cấu Việt ngữ ' (1973). Ớ miền Bắc, giai đoạn này, do những nguyên nhân cả chủ quan lẫn khách quan, các nhà nghiên cứu Việt ngữ chịu ảnh hướng nhiều quan điểm của các học giả Nga (Liên Xô cũ). Định nghĩa về câu của viện sĩ Vinagradov là một trong số đó. Có thể tìm thấy sự ảnh hưởng này trona những công trình nghiên cứu về câu của nhiều học giả Việt Nam giai đoạn này như: Hoàng Trọng Phiến “Cú pháp tiếng Việt (câu) (1980)”, Diệp Quang Ban “Câu đơn tiếng Việt (1978)”, Hoàng Tuệ “Giáo trình về Vịêt ngữ {\9Ố2Ỵ\ Nguyễn Kim Thản “Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt { 1963)”, Lê Cận, Phan Thiều “Giáo trình ngữ pháp tiếng Việt { 1983)” v.v. 1.4.2.3 Hướng đi chịu ảnh hưởng của ngữ pháp chức năng Ra đời muộn hơn nên ngũ' pháp chức năng đã kế thừa được những ưu điểm và khắc phục được những điểm hạn chế của các đường hướng nghiên 14 cứu trước nó. Ngữ pháp chức năng xuất hiện ở Việt Nam khá muộn - vào đầu thập niên 90 của thế kỷ 20 - nghĩa là chậm hơn so với việc xuất hiện của nó ở một số nước khoảng 20 năm. Con số những công trình có vận dụng lý thuyết chức năng cũng còn rất “khiêm tốn”, ơ Việt Nam công trình có vận dụng ngữ pháp chức năng được biết đến đầu tiên đó là “ Tiếng Việt: sơ thảo ngữ pháp chức năng' (quyển 1) Cao Xuân Hạo do nhà xuất bản KHXH ấn hành năm 1991. Khác với các đường hướng ngữ pháp hình thức, câu hỏi để khái luận hoá câu thường là “câu có cấu trúc hình thức nhu' Ihế nào ?”. Ngữ pháp chức năng lại nhìn nhận vấn đề ở góc độ khác : “Câu có chức năng gì ?”. Cùng theo quan điểm này còn có Hoàng Xuân Tâm, Nguyễn Văn Bằng, Bùi Tất Tươm trong cuốn “N gữ pháp chức năng tiếng Việt. Quyến 1. Cảu trong tiếng Việt. Cấu trúc, nghĩa, công dụng' do Cao Xuân Hạo chủ biên, nhà xuất bản giáo dục ấn hành năm 1992. 1.4.3 Vấn đề thứ hai: Cú là gì? Trong giai đoạn này đi theo quan niệm truyền thống khái niệm cú cũng đã được một vài nhà nghiên cứu thảo luận tuy nhiên vẫn chưa có sự phân biệt rạch ròi về bản chất giữa hai loại đơn vị này, chủ yếư sự phân biệt vãn dựa trên tiêu chí về số lượng. Ví dụ: theo Trương Văn Trình và Nguyễn Hiến Lê, “Trong một câu diễn tả nhiều sự tình thì mỗi tổ hợp diễn tả một sự tình chúng tôi gọi là một cú. Câu diễn tả một sự tình là câu đơn cú ( Trương Văn Trình, Nguyễn Hiến Lê 1963: 477). Quan niệm này không khác với quan niệm về cú ở giai đoạn trước. Đa số các nhà nghiên cứu giai đoạn này thảo luận cú dưới hình thức câu đơn và sự phân biệt giữa câu và cú chí diễn ra khi có một bộ phận của câu được cấu tạo nên từ một ngữ đoạn có cấu trúc của một câu đơn nhưng chúng chỉ giữ vai trò bổ sung nếu đem so với cấu trúc lớn. Theo Cao Xuân Hạo thì sự khác biệt giữa cáu và cú “tiểu cú” chí ở chỗ câu thể hiện một nhận định (statement) còn cú không có được điều này, hành động này được thực hiện ngay khi phát ngôn để đưa ra một mệnh đề mà biểu thị một cái gì đó được xem nhu' có sẵn và mặc dù ở đó có kết cấu 15 được xem là cấu trúc chủ vị đi chăng nữa thì hành động mà nó phản ánh được xem như là có sẫn và thuộc về quá khứ. Nó là tiền giả định chứ không có mặt trong câu và ngôn ngữ nào cũng có những đặc trưng để phân biệt tiểu cú với câu. Cũng chịu ảnh hướng của ngũ' pháp chức năng, nhưng theo hướng (hệ thống). “N gữ pháp kinh nghiệm của cú tiếng Việt m ô tả theo quan điếm chức năng hệ tỉiống’' của Hoàng Văn Vân, do nhà xuất bản KHXH ấnhành năm 2002 là một thể nghiệm khác của việc vận dụng lí thuyết chức năng vào thực tế tiếng Việt. Lấy cú làm đơn vị mô tả và xem xét nó ó' cả ba bình diện: chuyển tác, thức, văn bản. Xem cú như là một đơn vị ngữ pháp cao nhất. Đày là một cách làm mới vì trong truyền thống cú không được công nhận nhu' là một đơn vị mô tả một cách hiển ngôn. Trong truyền thống nghiên cứu tiếng Việt, khái niệm cú cũng nhiều lần được nhắc đến. Tuy nhiên, vai trò của chúng rất mờ nhạt, các nhà nghiên cứu dành cho nó một sự quan tâm không nhiều. Việc khẳng định vai trò và tiềm năng to lớn của cú trong mô tả ngữ pháp là một hướng đi mới. Như vậy, có thể thấy vấn đề về “cầu” trong tiếng Việt là một vấn đề rất phức tạp, được tiếp cận và nhìn nhận từ rất nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, vấn đề câu là gì đến nay xem ra vẫn còn là một thách thức lớn bời trước một vấn đề đa diện lại được nhìn nhận từ nhiều góc đội khác nhau thì việc có được sự nhất trí cao là một việc rất khó. Hầu hết các đường hướng nghiên cứu trước ngữ pháp chức năng, đều xem ngôn ngữ là tập hợp các quy tắc, ở đó bình diện xã hội của câu (cú) chưa được quan tâm một cách thoả đáng. Chính vì vậy không khỏi có sự phiến diện trong nghiên cứu vấn đề này. Do vậy việc xem xét câu (cú) tiếng Việt, xã hội là một việc làm cần thiết lúc này. . 16 trong cảnh huống/ văn hoá 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN c ứ u VÀ NGUỔN T ư LIỆU Phương pháp làm việc chính là phương pháp so sánh kết hợp với các phương pháp luận khoa học chung là quy nạp, diễn dịch: trên cơ sớ phân tích những cứ liệu được rút ra từ các tài liệu, các văn bản bằng tiếng Việt, từ đó đem so sánh để tìm ra những tồn tại, hạn chế của các dường hướng nghiên cứu khác khi nghiên cứu vấn đề câu. Luận văn còn sử dụng phương pháp chức năng hệ thống của M.A.K Halliday phát triển từ lý luận ngôn ngữ học chức năng. Từ quan niệm xã hội học - ký hiệu về ngôn ngữ, lấy cú làm trung tám từ đó xem xét nhận diện nó từ các bình diện khác nhau nhằm mục đích làm sáng tỏ đơn vị ngữ pháp quan trong của tiếng Việt. Nguồn tư liệu chủ yếu được lấy từ các tài liệu, sách báo, tạp chí bằng tiếng Việt, xuất bản trong nước, và những văn bản đã được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng. 3. BỐ CỤC CỦA LUẬN VÃN Luận văn trừ phần mở đầu và phần kết luận sẽ được cấu trúc thành ba chương với nội dung cơ bản như sau: Chương Ị : Cứ pháp - những vấn đề chung và việc nghiên cứu cú pháp tiếng Việt. Chương này, chúng tôi trình bày về cú pháp với những vấn đề cơ bản như: vấn đề về đối tượng của cú pháp, mối quan hệ giữa quan hệ ngữ pháp với hình thức cú pháp. Chúng tôi cũng trình bày khái quát về việc nghiên cứu cú pháp ỏ trong và ngoài nước, sau đó trình bày một vài đặc điểm cơ bản của cú pháp tiếng Việt với tư cách là một ngôn ngữ đơn lập. Chương 2 : Khái niệm câu đơn tiếng Việt theo quan niệm truyền thống. Trong chương này chúng tôi sẽ đi tìm hiểu và phân tích khái niệm về câu (đơn) theo quan niệm truyền thống và các tiêu chí đề phân loại và nhận diện đơn vị câu. Từ đó chỉ ra những tồn tại của vấn đề theo đường hướng này. Chương 3.Khái niệm cú tiếng v.iệt theo quan điểm chức năng hệ thống. Trong chương này chúng tôi sẽ trình bày về khái niệm cú (đơn) trong .7 ĐẠI HỌ C Q U Ổ C G IA HÀ NỘI L/ TRUNG TẨM THÕNG TIN THƯ VIỆN J tAỉlMũ-... tiếng Việt theo quan điểm của lý thuyết chức năng hệ thống, vận dụng các tiêu chí nhận diện cú theo lý thuyết này để giải quyết vấn đề cú trong tiếng Việt. Các tiêu chí nhận diện được chia theo hai nhóm: nhóm các tiêu chí về ngữ nghĩa và nhóm các tiêu chí về ngữ pháp - từ vựng. Trong chương này chúng tôi dành một phần (3.5) để so sánh giữa việc khái luận cú theo quan điểm truyền thống với cú theo quan điểm của ngôn ngữ học chức năng hệ thống từ đó chỉ ra tính chất ưu việt của ngôn ngữ học chức năng hệ thống trong việc giải quyết vấn đề câu. 18 Chương 1 CÚ PHÁP - NHỮNG VẤN ĐỂ CHUNG VÀ VIỆC NGHIÊN CỨU CÚ PHÁP TIẾNG VIỆT 1.1 Đôi tượng của cú pháp học, môi quan hệ giữa từ pháp và cú pháp Cú pháp là một trong hai bộ phận tạo thành của ngữ pháp. Cú pháp là thuật ngữ được dịch từ thuật ngữ “syntax” trong tiếng Anh hay “syntaxe” trong tiếng Pháp có nguồn gốc từ thuật ngữ “suntaksis” trong tiếng Hi Lạp có nghĩa là sự tổ hợp. Trong quá trình phát triển của ngôn ngữ học, những vấn đề của cú pháp học đã thu hút được sự quan tâm của đông đảo các nhà nghiên cứu thuộc nhiều trường phái khác nhau. Tuy nhiên, sự nhất trí trong tên gọi khái niệm này chưa hẳn đã đảm bảo cho sự nhất trí trong quan niệm về nó và sự thực, cho đến nay vẫn còn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm cú pháp cũng như xung quanh việc xác định đối tượng và đơn vị của cú pháp học. Dưới đây là một vài quan niệm tiêu biểu cho việc xác định đối tượng của cú pháp học. Một số học giả quan niệm, đối tượng của cú pháp học chỉ là câu (hoặc mệnh đề) nhưng có khi nó lại được dùng để chỉ “sự tổ hợp của từ” (của động từ, của danh từ .v.v), ví dụ như: Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm Duy Khiêm, Bùi Đức Tịnh .v.v. Có quan niệm, xem việc nghiên cứu hình thức bên ngoài cúa câu là đối tượng của hình thái học hay còn gọi là từ pháp học, còn đối tượng của cú pháp học chỉ là việc nghiên cứu hình thức bên trong (hình thức của những ý niệm được biểu đạt). Quan niệm như vậy dẫn đến việc thừa nhận có nhiều cú pháp khác nhau và hẳn là không đầy đủ phiến diện. Bới vì tín hiệu ngôn ngữ là thể thống nhất của mặt ý niệm (cái được biểu đạt) với mặt hình thức (cái biểu đạt) {theo Hoàng Trọns Phiến-1980: ỉ). Một số học giả khác lại quan niệm đối tượng của cú pháp học là từ tổ chứ không phải là câu. Đây là quan niệm của một số học giả Nga như: Foóc-tu-na-top, Poóc-jê-zin-xki, Pê-téc-xon.v.v. 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan