TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN
PHAN NGUYỄN HOÀI CHIÊU
KHẢO SÁT HIỆN TRẠNG VÀ THỰC NGHIỆM NUÔI
TÔM CÀNG XANH (Macrobrachium rosenbergii)
XEN CANH TRONG RUỘNG LÚA TẠI HUYỆN GIÁ RAI
TỈNH BẠC LIÊU
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
TS. LAM MỸ LAN
Ths. TRẦN VĂN HẬN
2014
KHẢO SÁT HIỆN TRẠNG VÀ THỰC NGHIỆM NUÔI TÔM
CÀNG XANH XEN CANH TRONG RUỘNG LÚA TẠI
HUYỆN GIÁ RAI TỈNH BẠC LIÊU
Phan Nguyễn Hoài Chiêu
Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ, Email:
[email protected], điện thoại
0949592693
ABSTRACT
A survey on the status and trial on integrated rice - freshwater giant prawn (Macrobrachium
rosenbergii) culture in Gia Rai District, Bac Lieu Province was carried out for developing
system and increasing the economic efficiency to improve the income of farmers. The results
showed that there was 27 farmers (in 30 households) who integrated giant tiger prawn. The
productivity fluctuated was 61 ± 34 kg/ha/crop. The mean profit was 7.0 millions
VND/ha/crop and the benefit-cost ratio was 228%. The faming giant prawn farmers got
productivity fluctuated was 82 ± 41 kg/ha/crop. The mean profit was 3.6 milions
VND/ha/crop and the benefit-cost ratio was 41%.
The trial on integrated giant prawn in the rice field was carried out in 3 rice fields. Firstly,
nussing in pond with the area about 500 m2 for 1.5 months. Then prawns were collected and
stocked into the rice frield. Water quality parametters were in the suitable ranges for prawn
growth. The final mean weight of prawns after 5 months was 21.4 – 33.1 g/prawn, survival
rate was 12.7 ± 6.1% and field was 115 ± 72 kg/ha. The profit from rice – prawn was 7.2 ±
1.0 millions VND/ha and the benefit-cost ratio was 28 ± 40% with 1 deficit household. This
system increased the field and income of farmers.
Key words: freshwater prawn, productivity, benefit cost ratio, water quality
Tittle: A survey on the status and trial on integrated rice - giant prawn farming in Gia Rai
District, Bac Lieu Province.
TÓM TẮT
Khảo sát hiện trạng và thực nghiệm nuôi tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) xen
canh trong ruộng lúa tại huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu được thực hiện nhằm làm cơ sở phát
triển mô hình nuôi và nâng cao năng suất, lợi nhuận làm tăng hiệu quả kinh tế của vùng góp
phần cải thiện tình hình kinh tế của người dân. Kết quả điều tra 30 hộ nuôi cho thấy có 27
hộ nuôi tôm sú năng suất dao động từ 61 ± 34 kg/ha/vụ, lợi nhuận đạt 7,0 triệu đồng/ha/vụ,
tỷ suất lợi nhuận đạt 228%. Có 3 hộ nuôi tôm càng xanh năng suất trung bình 82 ± 23
kg/ha/vụ, lợi nhuận trung bình 3,6 triệu đồng/ha/vụ và tỷ suất lợi nhuận đạt 41%.
Thực nghiệm nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa được thực hiện trên 3 hộ nuôi. Tôm càng
xanh được ương trong ao có diện tích 500 m2 thời gian 1,5 tháng, sau đó đưa lên ruộng có
diện tích 1 ha . Các yếu tố môi trường trong quá trình nuôi nằm trong khoảng thích hợp cho
tôm. Sau 5 tháng nuôi khối lượng trung bình 21,4 – 33,1 g/con, tỷ lệ sống đạt 12,1 ± 8,6%,
năng suất trung bình đạt 115 ± 72 kg/ha. Lợi nhuận từ mô hình lúa – tôm càng xanh đạt 7,2
± 1,0 triệu đồng/ha, tỷ suất lợi nhuận 28 ± 40% và có 1 hộ nuôi bị lỗ vốn. Mô hình nuôi tôm
càng xanh xen canh trong ruộng lúa làm tăng năng suất tôm nuôi và thu nhập của người
nuôi.
1
I GIỚI THIỆU
1.1 Đặt vấn đề
Tôm càng xanh là một trong những đối tượng thủy sản nước ngọt có giá trị kinh tế
cao ở Việt Nam và nhiều nơi trên thế giới. Sản lượng tôm càng xanh của Việt Nam
đạt khoảng 3.000 tấn vào những năm 90, tăng lên khoảng 10.000 tấn vào năm 2002
(Nguyễn Thanh Phương và ctv., 2003). Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn tỉnh Bạc Liêu (2013) diện tích thả nuôi tôm càng xanh của tỉnh Bạc Liêu là
5.705 ha, chủ yếu tập trung nhiều nhất trên địa bàn huyện Phước Long 5.500 ha,
Hồng Dân 202 ha và Giá Rai 3 ha. Sau thời gian nuôi 5 – 6 tháng, năng suất tôm bình
quân 80 – 100 kg/ha/vụ, lợi nhuận khoảng 10 – 12 triệu/ha. Nhiều năm qua mô hình
tôm càng xanh xen canh trong ruộng lúa phù hợp với yêu cầu kỹ thuật, điều kiện tự
nhiên các địa bàn huyện Phước Long và Hồng Dân. Tuy nhiên, ở Giá Rai mô hình
nuôi tôm càng xanh xen canh trên ruộng lúa là một mô hình mới đang phát triển nên
còn gặp nhiều khó khăn về khâu chăm sóc, quản lý chất lượng nước. Từ thực tiễn
trên, đề tài: “Khảo sát hiện trạng và thực nghiệm nuôi tôm càng xanh xen canh trong
ruộng lúa tại huyện Giá Rai tỉnh Bạc Liêu” được thực hiện.
1.2 Mục tiêu đề tài
Khảo sát hiện trạng mô hình nuôi tôm sú, mô hình nuôi tôm càng xanh xen canh
trong ruộng lúa và thực nghiệm nuôi tôm càng xanh xen canh trong ruộng lúa làm cơ
sở cho việc phát triển mô hình ở huyện Giá Rai tỉnh Bạc Liêu.
1.3 Nội dung nghiên cứu
Điều tra hiện trạng mô hình nuôi tôm sú và mô hình nuôi tôm càng xanh xen canh
trong ruộng lúa tại huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu.
Thực nghiệm nuôi tôm càng xanh xen canh trong ruộng lúa ở huyện Giá Rai, tỉnh
Bạc Liêu.
Đề xuất các biện pháp kỹ thuật cho người nuôi tôm càng xanh xen canh trong ruộng
lúa đạt hiệu quả cao hơn.
II VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Địa điểm và thời gian thực hiện
Đề tài được thực hiện tại huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu. Thời gian thực hiện từ
9/2013 đến 5/2014.
2.2 Vật liệu nghiên cứu
Tôm giống có kích cỡ Postlarve 15 (PL15), 3 ao ương của 3 hộ nuôi diện tích 500
m2/ao, 3 ruộng nuôi của 3 hộ có diện tích 1 ha/ruộng. Thức ăn tươi sống (cá tạp,
khoai mì), thức ăn công nghiệp (Tomboy).
Bộ test Sera (pH, Oxy hòa tan, N-NH4+, P-PO43-), nhiệt kế, đĩa secchi. Vôi, dây thuốc
cá, lưới kéo, chài, thau nhựa, sàn cho ăn, cân điện tử.
2
2.3 Khảo sát hiện trạng mô hình nuôi tôm sú và tôm càng xanh
Thông tin được thu thập bằng cách phỏng vấn trực tiếp từ 30 hộ có mô hình nuôi tôm
sú (27 hộ) và nuôi tôm càng xanh xen canh trong ruộng lúa (3 hộ) ở huyện Giá Rai,
tỉnh Bạc Liêu theo phiếu điều tra đã soạn sẵn có một số nội dung chính như mô hình
canh tác hiện tại, diện tích canh tác, năng suất, lợi nhuận và hiệu quả của mô hình.
2.4 Thực nghiệm nuôi tôm càng xanh xen canh trong ruộng lúa
Thực nghiệm nuôi tôm càng xanh xen canh trong ruộng lúa được thực hiện trên 3 hộ
nuôi có diện tích 1 ha và diện tích ao ương là 500 m2, mật độ nuôi là 3 con/m2, mật
độ ương là 60 con/m2, thời gian nuôi 5 tháng. Ao ương được thiết kế liền kề với
ruộng, con giống mua từ trại sản xuất giống Bình Thủy II ở Cần Thơ.
Giai đoạn 1: Tôm được ương trong ao cùng với thời điểm sạ lúa trên ruộng nuôi. Ở
giai đoạn này cho tôm ăn 100% thức ăn công nghiệp với hàm lượng đạm 40%. Cho
tôm ăn 4 lần/ngày vào lúc 6, 11, 17 và 21 giờ. Tôm ương được 1,5 tháng thì tiến
hành đưa lên ruộng nuôi bằng cách kéo lưới.
Giai đoạn 2: Sau khi đưa lên ruộng nuôi thì tháng đầu không cho ăn, tháng sau bổ
sung bằng thức ăn tươi sống: cá tạp được cắt nhỏ cho tôm ăn với liều lượng 5% trọng
lượng thân/ngày và bổ sung thêm khoai mì được xay nhuyễn cho ăn 2 ngày/lần. Sau
5 tháng nuôi, tiến hành rút nước cho tôm xuống mương bao rồi dùng chài và lưới kéo
thu hoạch cho đến khi thu hết tôm trong ruộng.
2.5 Phương pháp thu và phân tích mẫu
Các yếu tố về môi trường nước được kiểm tra mỗi tháng 1 lần vào sáng sớm, nhiệt
độ đo bằng nhiệt kế, độ trong đo bằng đĩa secchi, oxy hòa tan, pH, N-NH4+, P-PO43được kiểm tra bằng bộ Test Sera.
Tốc độ tăng trưởng của tôm nuôi được thu định kỳ (30 con/ruộng) mỗi tháng 1 lần để
tiến hành cân khối lượng, thu tôm nuôi bằng cách chài nhiều điểm ở ruộng nuôi.
Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối (Daily weight gain – g/ngày)
DWG
W2 W1
t2 t1
Trong đó:
DWG: tốc độ tăng trưởng tuyệt đối về khối lượng (g/ngày)
W1: khối lượng tại thời điểm t1 (g)
W2: khối lượng tại thời điểm t2 (g)
Tỷ lệ sống (%) = (số tôm thu hoạch x 100)/số tôm thả nuôi
Năng suất tôm (kg/ha) = tổng khối lượng tôm thu được/diện tích ruộng nuôi
Hiệu quả mô hình nuôi tôm càng xanh xen canh trong ruộng lúa được tính từ tổng chi
phí lúa và tôm, tổng thu từ lúa và tổng thu từ tôm bao gồm các chi phí cải tạo, giống,
phân bón, thức ăn, hóa chất sử dụng và các chi phí khác.
3
Lợi nhuận = Tổng thu – Tổng chi
Tỷ suất lợi nhuận (%) = (Lợi nhuận/ Vốn đầu tư) x 100
2.6 Xử lý số liệu
Tất cả số liệu được thu thập, phân tích và xử lý bằng chương trình Excel để đánh giá
kết quả của mô hình nuôi.
III KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Kết quả điều tra hiện trạng mô hình nuôi tôm sú và tôm càng xanh
Kết quả điều tra 30 nuôi tại huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu cho thấy có 27 hộ nuôi tôm
sú và có 3 hộ nuôi tôm càng xanh xen canh trong ruộng lúa thời vụ từ tháng 8 đến
tháng 1 hằng năm. Diện tích đất canh tác của các hộ dao động từ 0,3 – 5,0 ha. Đa số
các hộ ít có ao ương dưỡng con giống trước khi thả nuôi, diện tích ao ương dao động
từ 300 – 1.500 m2. Mật độ thả nuôi dao động từ 1 – 4 con/m2. Nguồn giống cung cấp
cho các hộ nuôi chủ yếu mua từ các trại sản xuất giống nhân tạo ở tỉnh Bạc Liêu.
Hầu hết các hộ nuôi thủy sản đều ít thay nước mà chỉ cấp thêm nước mới. Nguồn
nước cấp được lấy trực tiếp từ sông, kênh, rạch, không sử dụng ao lắng để xử lý
nước. Thông qua Bảng 3.1 cho thấy kích cỡ thu hoạch tôm sú trung bình 34 ± 8
con/kg, tôm cành xanh là 32 ± 3 con/kg. Sản lượng tôm sú thu hoạch trung bình 206
kg, tôm càng xanh là 82 kg. Đa số các hộ thu hoạch tôm ở kích cỡ 30 – 40 con/kg,
đây là kích cỡ thu hoạch đảm bảo người nuôi có lợi nhuận và an toàn. Năng suất tôm
sú bình quân 61 ± 34 kg/ha/vụ, tôm càng xanh là 82 ± 23 kg/ha/vụ. Kết quả khảo sát
cho thấy năng suất nuôi trung bình của tôm sú thấp hơn tôm càng xanh, nguyên nhân
do diện tích nuôi tôm càng xanh nhỏ hơn tôm sú nên sản lượng thu hoạch thấp hơn
dẫn đến năng suất nuôi của tôm sú thấp hơn tôm càng xanh trên cùng 1 hộ nuôi.
Hiệu quả kinh tế của mô hình tôm sú qua khảo sát cho thấy với tổng chi phí bình
quân là 3,2 triệu đồng/ha/vụ. Chi phí này chủ yếu là con giống, dầu bơm nước và vôi.
Nhân công lao động chủ yếu là người nhà nên tiết kiệm thêm được một phần chi phí.
Tổng thu nhập bình quân 10,2 triệu đồng/ha/vụ, lợi nhuận đạt trung bình 7,0 triệu
đồng/ha/vụ. Tỷ suất lợi nhuận của mô hình là 228%. Mô hình nuôi tôm sú mang lại
lợi nhuận chưa cao, do hiện nay việc nuôi tôm sú gặp rất nhiều khó khăn, dịch bệnh
xuất hiện ngày càng nhiều, người dân không thể kiểm soát được bệnh. Hơn nữa chất
lượng con giống thả nuôi không ổn định, đa số các hộ nuôi không chọn được con
giống có chất lượng tốt và qua kiểm dịch. Tuy nhiên, so với mô hình nuôi tôm càng
xanh xen canh trong ruộng lúa có lợi nhuận trung bình 3,6 triệu đồng/ha/vụ, tỷ suất
lợi nhuận đạt 41 ± 19% cho thấy hiệu quả đạt không cao, chi phí đầu tư cao nhưng
lợi nhuận thấp. Mặt khác, người dân còn gặp khó khăn về mặt kỹ thuật nuôi, chưa có
kinh nghiệm. Bên cạnh đó, môi trường nước bị ô nhiễm, người nuôi bơm nước trực
tiếp vào ruộng nuôi không xử lý nước làm ảnh hưởng đến hiệu quả của mô hình. Hơn
nữa, giá bán tôm sú cao hơn tôm càng xanh nên hầu hết người dân nơi đây chỉ nuôi
tôm sú và chỉ có 3 hộ nuôi tôm càng xanh.
4
Bảng 3.1 Năng suất và hiệu quả mô hình nuôi tôm sú và mô hình nuôi tôm càng xanh
xen canh trong ruộng lúa (Đơn vị tính: 1.000 đồng)
Các thống số kỹ thuật
Diện tích canh tác (ha)
Ao ương (m2 )
Mật độ (con/m2)
Kích cỡ thu hoạch (con/kg)
Sản lượng thu hoạch (kg)
Năng suất (kg/ha/vụ)
Tổng thu (ha/vụ)
Tổng chi (ha/vụ)
Lợi nhuận (ha/vụ)
Tỷ suất lợi nhuận (%)
Tôm sú
Tôm càng xanh
2±1,2
654±336
2,4±0,9
34±8
206±131
61±34
10.241±5.084
3.203±1.690
7.037±3.965
228±98
1±0
500±0
2±0
32±3
82±23
82±23
12.117±3.405
8.500±1.323
3.617±2.125
41±19
3.2 Thực nghiệm mô hình nuôi tôm càng xanh xen canh trong ruộng lúa
3.2.1 Các yếu tố thủy lý - hóa
Bảng 3.2 Giá trị trung bình các yếu tố thủy lý ở các ruộng nuôi
Nhiệt độ (0C)
29,6±0,7
29,4±1,1
29,5±1,1
Ruộng nuôi
Ruộng 1
Ruộng 2
Ruộng 3
Độ trong (cm)
36,4±4,3
35,4±4,3
36,2±6,4
Nhiệt độ bình quân dao động từ 29,4 – 29,6 0C, độ trong của các ruộng nuôi trung
bình dao động từ 35,4 – 36,4 cm (Bảng 3.2). Giữa 3 ruộng nuôi cũng không có sự
khác biệt lớn về các yếu tố thủy lý và tất cả các giá trị điều thích hợp cho quá trình
sinh trưởng và phát triển của tôm nuôi. Tuy nhiên, trong quá trình nuôi độ mặn dao
động từ 5 - 15‰ làm ảnh hưởng trực tiếp đến sự tăng trưởng của tôm nuôi. Nhiệt độ
thích hợp cho tôm là từ 26 – 31 0C nếu nhiệt độ cao sẽ làm cho tôm thành thục sớm,
kích thước nhỏ. Ngoài ra, khi nhiệt độ tăng cao sẽ kéo theo hàm lượng NH3 tăng gây
bất lợi cho tôm nuôi. Độ trong tốt nhất cho tôm càng xanh là 25 - 35 cm (Nguyễn
Thanh Phương và Trần Ngọc Hải, 2004).
Bảng 3.3 Giá trị trung bình các yếu tố thủy hóa ở các ruộng nuôi
Ruộng nuôi
Ruộng 1
Ruộng 2
Ruộng 3
pH
7,6±0,4
8,0±0,5
7,5±0,4
Oxy hòa tan (ppm)
3,6±0,7
3,8±0,6
3,6±0,4
P-PO43- (ppm)
0,09±0,08
0,08±0,08
0,09±0,06
N-NH4+ (ppm)
0,38±0,40
0,32±0,22
0,40±0,34
Qua kết quả khảo sát các yếu tố thủy hóa từ 3 ruộng nuôi cho thấy các chỉ tiêu nằm
trong khoảng thích hợp để nuôi tôm càng xanh.
pH
Kết quả kiểm tra cho thấy giá trị pH trung bình ở 3 ruộng dao động từ 7,5 – 8,0.
Nhìn chung, pH qua các tháng nuôi biến động không lớn. Hoạt động bón vôi thường
xuyên khi trời mưa xuống và khi pH xuống thấp của các hộ nuôi là làm cho sự biến
5
động pH không nhiều. Khoảng pH thích hợp cho sự sinh trưởng của tôm là 7,0 – 8,5
(Nguyễn Thanh Phương và ctv., 2003).
Oxy hòa tan (ppm)
Hàm lượng oxy hòa tan qua kết quả khảo sát dao động trung bình từ 3,6 – 3,8 ppm ở
các ruộng nuôi. Theo Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải (2004) cho rằng hàm
lượng oxy hòa tan tốt cho tôm từ 3 – 7 ppm. Do thu hoạch lúa trước 1 tháng khi thu
hoạch tôm vì ảnh hưởng của nước mặn nên hàm lượng oxy hòa tan ở tháng thứ 5
giảm so với trước khi thu hoạch lúa, sự phân hủy vật chất hữu cơ từ gốc rạ khi bơm
nước vào ruộng nuôi và lượng thức ăn dư thừa càng nhiều về cuối vụ làm hàm lượng
oxy hòa tan trong ruộng giảm nhưng không làm ảnh hưởng nhiều tới tôm nuôi.
P-PO43- (ppm)
Kết quả khảo sát cho thấy hàm lượng P-PO43- dao động từ 0,08 – 0,09 ppm ở 3 ruộng
nuôi. Kết quả nằm trong nhận định của Trương Quốc Phú và ctv. (2006) cho rằng
trong thủy vực hàm lượng các muối phosphate hòa tan không vượt quá 1 ppm thì
hàm lượng dinh dưỡng trong ao nuôi khá phong phú, thuận lợi cho phiêu sinh vật
trong nước phát triển.
N-NH4+ (ppm)
Từ kết quả khảo sát cho thấy vào tháng đầu tiên ở giai đoạn ương tôm có hàm lượng
NH4 + trong ao ở mức 0,00 ppm do tôm còn ở giai đoạn nhỏ lượng chất thải từ tôm
không cao không làm tăng hàm lượng NH4+ trong ao và tăng dần theo các tháng
nuôi. Theo Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải (2004) cho rằng nên duy trì
hàm lượng NH4 + nhỏ hơn 1 ppm. NH4+ tăng cao về cuối vụ là do chất thải của tôm
(một phần của cá tạp) và sự phân hủy xác hữu cơ (thức ăn tươi sống, gốc lúa).
3.2.2 Tăng trưởng của tôm càng xanh trong ruộng nuôi
Kết quả khảo sát ở 3 ruộng nuôi cho thấy tốc độ tăng trưởng tăng dần qua các tháng
nuôi. Từ tháng nuôi thứ 2 trở đi tôm tăng trưởng nhanh hơn do gian đoạn này tôm đã
được chuyển lên ruộng lượng thức ăn trong ruộng nhiều và mật độ nuôi thấp hơn tạo
điều kiện thuận lợi cho tôm phát triển tốt. Sau 5 tháng nuôi khối lượng của tôm dao
động từ 21,4 – 33,1 g/con.
Khối lượng
(g/con)
35
Ruộng 1
Ruộng 2
Ruộng 3
30
25
20
15
10
5
Tháng nuôi
0
Tháng 1
Tháng 2
Tháng 3
Tháng 4
Tháng 5
Hình 3.1 Tăng trưởng của tôm qua các tháng nuôi
6
Tôm càng xanh nuôi ở ruộng 3 tăng trưởng chậm hơn ở ruộng 1 và ruộng 2 nguyên
nhân do lượng cá tạp trong ruộng 3 nhiều, cá cạnh tranh thức ăn với tôm, cho tôm ăn
ít, chế độ chăm sóc, quản lý chưa tốt. Kết quả thực nghiệm nuôi của Huỳnh Thị
Mộng Cầm (2012) tại huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu và của Nguyễn Thị Bích Ngọc
(2013) ở huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long lần lượt là 24,3 – 32,2 g/con và 29,3 –
33,3 g/con so sánh với kết quả thực nghiệm gần bằng nhau cho thấy tôm càng xanh
tăng trưởng tốt trong điều kiện môi trường ở huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu.
3.2.3 Tỷ lệ sống và năng suất tôm càng xanh trong ruộng nuôi
Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối qua khảo sát ở 3 ruộng nuôi dao động trung bình từ
0,14 – 0,22 g/ngày. Từ Bảng 3.4 cho thấy tốc độ tăng trưởng trong giai đoạn từ 0 - 90
ngày tuổi nhanh hơn so với giai đoạn nuôi từ 90 – 150 ngày. Kết quả này gần bằng
với kết quả nghiên cứu của Lam Mỹ Lan (2006), tốc độ tăng trưởng của tôm càng
xanh từ lúc thả giống đến 90 ngày tuổi dao động từ 0,05 – 0,50 g/ngày ở mật độ 2
con/m2, 4 con/m2 là 0,04 – 0,27 g/ngày và ở mật độ 6 con/m2 là 0,04 – 0,17 g/ngày.
So với kết quả khác từ mô hình nuôi tôm càng xanh kết hợp với lúa của Nguyễn Thị
Hậu Phương (2012) tốc độ tăng trưởng từ 0,14 – 0,27 g/ngày gần giống với kết quả
thực nghiệm nhưng có phần chậm hơn. Nguyên nhân do môi trường nước bị ngập
mặn, khoảng thời gian nuôi 120 – 150 độ mặn tăng lên đến 15‰ làm ảnh hưởng trực
tiếp đến tốc độ tăng trưởng của tôm nuôi. Điều này cho thấy tôm càng xanh có khả
năng tăng trưởng trong điều kiện nước ngập mặn ở huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu.
Bảng 3.4 Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối của tôm nuôi (g/ngày)
Ruộng
Ngày nuôi
30 ngày
60 ngày
90 ngày
120 ngày
150 ngày
Trung bình
Ruộng 1
Ruộng 2
Ruộng 3
0,05
0,13
0,33
0,34
0,22
0,21±0,13
0,04
0,13
0,19
0,18
0,17
0,14±0,06
0,05
0,14
0,40
0,24
0,28
0,22±0,13
Qua 5 tháng nuôi năng suất đạt trung bình là 36 - 176 kg/ha với tỷ lệ sống 2,6 –
19,4%. So với năng suất tôm nuôi của Huỳnh Thị Mộng Cầm (2012) tại huyện Hồng
Dân, tỉnh Bạc Liêu là 133 – 205 kg/ha, tỷ lệ sống từ 16,4 – 31,7 % năng suất tôm
thực nghiệm thấp hơn không nhiều. Kết quả của Nguyễn Thị Hậu Phương (2012)
thực nhiệm mô hình tôm – lúa ở huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu năng suất tôm dao
động từ 146 - 179 kg/ha và tỷ lệ sống là 18,7 – 28,2 % kết quả này cao hơn do mô
hình thực nghiệm có 1 hộ bị lỗ vốn. Ở huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liệu có điều kiện
nuôi tôm càng xanh thuận lợi hơn, người dân cũng có kinh nghiệm hơn còn ở huyện
Giá Rai mô hình nuôi tôm càng xanh xen canh trong ruộng lúa là mô hình mới còn
gặp nhiều khó khăn về khâu chăm sóc và quản lý do đó năng suất nuôi và tỷ lệ sống
thấp hơn.
7
Bảng 3.5 Tỷ lệ sống, năng suất của tôm nuôi trong các ruộng nuôi
Ruộng nuôi
Tỉ lệ sống (%)
Năng suất (kg/ha)
Ruộng 1
14,3
134
Ruộng 2
19,4
176
Ruộng 3
2,6
36
12,1±8,6
115±72
Trung bình
3.2.4 Hiệu quả kinh tế nuôi tôm càng xanh trong ruộng nuôi
Bảng 3.6 Hiệu quả kinh tế nuôi tôm càng xanh (Đơn vị tính: 1.000 đồng)
Ruộng nuôi
Ruộng 1
Ruộng 2
Ruộng 3
Trung bình
Tổng thu
Tổng chi
Lợi nhuận/ha
19.430
26.400
3.960
16.597±11.485
12.200
14.320
11.330
12.617±1.538
7.230
12.080
-7.370
3.980±10.124
Tỷ suất lợi
nhuận(%)
59
84
-65
26±80
Qua kết quả phân tích hiệu quả kinh tế mô hình nuôi tôm càng xanh xen canh trong
ruộng lúa cho thấy năng suất tôm ở ruộng 1 và ruộng 2 thu được lợi nhuận 7,2 và
12,1 triệu đồng/ha,đạt tỷ suất lợi nhuận từ 59 – 84%, ruộng của hộ còn lại bị lỗ 7,4
triệu đồng/ha từ nuôi tôm, nguyên nhân do cải tạo ao chưa kỹ, ít chăm sóc tôm nuôi.
Kết quả thực nghiệm nuôi tôm – lúa xen canh của Nguyễn Thị Bích Ngọc (2013) ở
huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long lợi nhuận 12,5 – 20,7 triệu đồng/ha, tỷ suất lợi
nhuận dao động từ 90 – 130% cao hơn hơn với kết quả thực nghiệm do tôm thu
hoạch sớm so với kế hoạch, khi thu hoạch lúa vật chất hữu cơ từ gốc rạ quá nhiều khi
bơm nước vào sẽ làm dơ nước và lượng dư thừa thức ăn về cuối vụ dẫn đến tôm bị
thiếu oxy và bị chết làm khối lượng tôm thu hoạch thấp nên lợi nhuận từ tôm thấp so
với mô hình trên. So với kết quả khảo sát mô hình nuôi tôm càng xanh trong ruộng
lúa thì kết quả thực nghiệm có hiệu quả kinh tế hơn.
Bảng 3.7 Hiệu quả kinh tế nuôi tôm càng xanh xen canh với lúa ( Đơn vị tính: 1.000 đồng)
Ruộng nuôi
Ruộng 1
Ruộng 2
Ruộng 3
Trung bình
Tổng thu
Tổng chi
Lợi nhuận/ha
33.510
41.965
18.700
31.391±11.776
24.230
25.920
22.280
24.143±1.822
9.280
16.045
-3.580
7.248±9.969
Tỷ suất lợi
nhuận (%)
38
62
-16
28±40
Lợi nhuận từ tôm và lúa của ruộng 1 và ruộng 2 đạt từ 9,3 – 16,0 triệu đồng/ha, và
lợi nhuận ruộng 3 là – 3,6 triệu đồng/ha (Bảng 3.7). So sánh kết quả này với kết quả
thực nghiệm mô hình nuôi tôm – lúa xen canh ở huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu của
Sơn Hồng Hoa (2013) có lợi nhuận từ 21,2 – 46,4 triệu đồng/ha thấp hơn nhưng
chênh lệch không cao là do điều kiện tự nhiên thuận lợi hơn. Từ kết quả thực nghiệm
cho thấy tôm càng xanh có khả năng phát triển trong điều kiện nuôi xen canh với
trồng lúa huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu làm tiền đề để triển khai rộng rãi mô hình
8
nuôi tôm càng xanh xen với trồng lúa góp phần tăng thêm thu nhập, cải thiện đời
sống cho những người dân.
3.3 Đề xuất các biện pháp kỹ thuật cho người nuôi tôm càng xanh xen canh
trong ruộng lúa ở huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu đạt hiệu quả cao hơn.
Người nuôi nên bắt đầu nuôi tôm càng xanh từ tháng 8 đến tháng 1 hằng năm để
tránh nguồn nước bị ngập mặn ảnh hưởng đến tăng trưởng của tôm nuôi.
Khi bơm nước vào ao phải diệt khuẩn và bón vôi xung quanh ao để tránh mầm bệnh
từ môi trường nước bên ngoài.
Dùng dây thuốc cá với liều lượng cao để diệt hết cá tạp khi cải tạo ao nuôi tránh cá
tạp ăn thức ăn của tôm.
Thường xuyên theo dõi về lượng thức ăn, cho tôm ăn vừa đủ không cho ăn dư thừa
giữ môi trường nước ổn định.
Theo dõi hàm lượng oxy hòa tan trong ruộng nuôi sau khi thu hoạch lúa để kịp thời
khắc phục tình trạng tôm bị nổi đầu.
IV KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
4.1 Kết luận
Kết quả điều tra 30 hộ nuôi cho thấy có 27 hộ nuôi tôm sú năng suất đạt 61 ± 34
kg/ha/vụ, lợi nhuận đạt 7,0 triệu đồng/ha/vụ, tỷ suất lợi nhuận đạt 228% và có 3 hộ
nuôi tôm càng xanh năng suất trung bình 82 ± 23 kg/ha/vụ, lợi nhuận trung bình 3,6
triệu đồng/ha/vụ và tỷ suất lợi nhuận là 41%.
Khối lượng tôm trung bình sau 5 tháng nuôi ở 3 ruộng dao động từ 21,4 – 33,1 g, tỷ
lệ sống dao động từ 2,6 – 19,4%, năng suất trung bình đạt 115 ± 72 kg/ha. Trong 3
hộ tham gia mô hình nuôi có 2 hộ có lãi và hộ còn lại bị lỗ vốn. Lợi nhuận từ tôm
trung bình 3 hộ nuôi đạt 4,0 triệu đồng/ha, lợi nhuận từ mô hình lúa – tôm càng xanh
đạt 7,2 triệu đồng/ha.
4.2 Đề xuất
Tiếp tục nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật mô hình nuôi tôm càng xanh xen canh
trong ruộng lúa nhằm nâng cao hiệu quả mô hình và cải thiện thu nhập.
LỜI CẢM TẠ
Xin chân thành cảm ơn Bộ môn Kỹ thuật nuôi thủy sản nước ngọt – Khoa Thủy sản
– Trường Đại học Cần Thơ đã tạo điều kiện cho tôi thực hiện đề tài. Xin cảm ơn
PGs.TS Dương Nhựt Long, TS. Lam Mỹ Lan, Ths. Trần Văn Hận và anh Phan Hải
Đăng đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn tôi trong suốt thời gian thực hiện và hoàn
thành luận văn tốt nghiệp. Xin cảm ơn đến các hộ nuôi và các cô chú anh chị ở huyện
Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu đã tạo điều kiện và cùng nhau hợp tác để tôi thực hiện được
đề tài. Xin chân thành cảm ơn!
9
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Huỳnh Thị Mộng Cầm, 2012. Hiện trạng mô hình nuôi và thực nghiệm nuôi tôm
càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) trong ruộng lúa kết hợp tại xã Vĩnh Lộc A,
huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu. Luận văn tốt ngiệp đại học. Khoa Thủy sản –
Trường Đại học Cần Thơ, 57 trang.
2. Lam My Lan, 2006. Freshwater prawn – rice culture: the development of a
sustainable system in the Mekong delta, VietNam. PhD Thesis. 159p.
3. Nguyễn Thanh Phương, Trần Ngọc Hải, Trần Thị Thanh Hiền và M.N.Wilder,
2003. Nguyên lý và kỹ thuật sản xuất giống tôm càng xanh. Khoa Thủy sản – Trường
Đại học Cần Thơ, 126 trang.
4. Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải, 2004. Giáo trình Kỹ thuật sản xuất
giống và nuôi giáp xác. Khoa Thủy sản – Trường Đại học Cần Thơ. 162 trang.
5. Nguyễn Thị Bích Ngọc, 2013. Thực nghiệm nuôi tôm càng xanh (Macrobrachium
rosenbergii) xen canh trong ruộng lúa ở huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Luận
văn tốt nghiệp đại học. Khoa Thủy sản – Trường Đại học Cần Thơ, 56 trang
6. Nguyễn Thị Hậu Phương, 2012. Thực nghiệm nuôi tôm càng xanh
(Macrobrachium rosenbergii) xen canh trong ruộng lúa tại xã Vĩnh Lộc, huyện Hồng
Dân, tỉnh Bạc Liêu. Luận văn tốt nghiệp đại học. Khoa Thủy sản – Trường Đại học
Cần Thơ, 52 trang.
7. Sơn Hồng Hoa, 2013. Thực nghiệm nuôi tôm càng xanh (Macrobrachium
rosenbergii) xen canh trong ruộng lúa tại huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu. Luận văn
tốt ngiệp đại học. Khoa Thủy sản – Trường Đại học Cần Thơ, 39 trang.
8. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bạc Liêu, 2013. Báo cáo tình hình
sản xuất thủy sản 6 tháng đầu năm 2013.
9. Trương Quốc Phú, Nguyễn Lê Hoàng Yến và Huỳnh Trường Giang, 2006. Giáo
trình Quản lý chất lượng nước nuôi trồng thủy sản. Khoa Thủy sản – Trường Đại học
Cần Thơ, 201 trang.
10