Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khai thác, sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử lớp 8...

Tài liệu Khai thác, sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử lớp 8

.DOC
24
843
123

Mô tả:

KHAI THÁC SỬ DỤNG KÊNH HÌNH TRONG SÁCH GIÁO KHOA LỊCH SỬ LỚP 8 Trần Thị Luân Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng dạy Chính tả lớp 5 PHẦN I PHẦN MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI. Trong sách giáo khoa lịch sử hiện nay kiến thức lịch sử không chỉ tập trung ở kênh chữ mà còn cả ở kênh hình. Như vậy kênh hình trong dạy học lịch sử hiện nay không chỉ được sử dụng giới hạn ở việc minh hoạ cho nội dung bài học mà là một trong những nguồn cung cấp kiến thức lịch sử quan trong cho học sinh trong quá trình học tập. Trong dạy học lịch sử, khai thác và sử dụng kênh hình là biện pháp quan trong tích cực để nâng cao chất lượng dạy học bộ môn, gây hứng thú học tập hơn cho học sinh. Đối với giáo viên khai thác sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa, không chỉ làm cho bài giảng trở nên sinh động, hấp dẫn mà còn góp phần quan trong trong việc tạo biểu tượng, hình thành khái niệm lịch sử cho học sinh; phát triển ở học sinh kĩ năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy ngôn ngữ; giáo dục tư tưởng cảm xúc, cảm nghĩ ở học sinh. Đối với học sinh thông qua “làm việc” với bản đồ, tranh ảnh, sơ đồ các em sẽ hiểu sâu sắc hơn bản chất của sự kiện lịch sử, nắm vững các quy luật của sự phát triển xã hội, nhớ kỹ, hiểu sâu những hình ảnh, những kiến thức lịch sử. Hỉnh ảnh được giữ lại đặc biệt vững chắc trong trí nhớ là hình ảnh thu nhận bằng trực quan. Mặc dù việc khai thác sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa là biện pháp quan trong để nâng cao chất lượng dạy học bộ môn, nhưng hiện nay vấn đề này vẫn chưa được quan tâm một cách đầy đủ. Nguyên nhân của tình trạng này có nhiều, song chủ yếu là: Trường THCS Tân Phong -1- Năm 2010-2011 KHAI THÁC SỬ DỤNG KÊNH HÌNH TRONG SÁCH GIÁO KHOA LỊCH SỬ LỚP 8 Trần Thị Luân + Giáo viên trong giảng dạy mới chỉ chú ý đến kênh chữ của sách giáo khoa và coi đây là nguồn cung cấp kiến thức lịch sử duy nhất trong dạy - học lịch sử mà không thấy rằng kênh hình không chỉ là nguồn kiến thức quan trọng cung cấp một lượng thông tin đáng kể, mà còn là phương tiện trực quan có giá trị giúp bài học lịch sử trở nên sinh động hấp, dẫn hơn, gây hứng thú học tập hơn cho học sinh. + Không ít giáo viên chưa hiểu rõ xuất xứ, nội dung, ý nghĩa của kênh hình trong sách giáo khoa. Trong các đợt bồi dưỡng thay sách, giáo viên hầu như chỉ được giải thích về cấu tạo chương trình, những điểm mới về nội dung sách giáo khoa mà chưa được chú trọng bồi dưỡng về việc khai thác sử dụng kênh hình, mặc dù số lượng kênh hình trong sách giáo khoa hiện hành tăng lên đáng kể so với trước. + Nhiều giáo viên nhận thức đầy đủ giá trị, nội dung của kênh hình nhưng lại ngại sử dụng và sợ mất thời gian hoặc nếu có sử dụng phần nhiều vẫn mang tình hình thức minh hoạ cho bài giảng. Chình vì những lí do trên đây, tôi đã chọn vấn đề “Khai thác, sử dụng kênh hình trong Sách giáo khoa Lịch sử lớp 8” làm đề tài nghiên cứu với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn lịch sử ở THCS hiện nay nói chung và bộ môn Lịch sử 8 nói riêng. II. PHẠM VI, ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI. 1. Phạm vi nghiên cứu của đề tài. Kênh hình trong Sách giáo khoa Lịch sử lớp 8. 2. Đối tượng nghiên cứu của đề tài. Học sinh khối 8 trường THCS Tân Phong. Trường THCS Tân Phong -2- Năm 2010-2011 KHAI THÁC SỬ DỤNG KÊNH HÌNH TRONG SÁCH GIÁO KHOA LỊCH SỬ LỚP 8 Trần Thị Luân III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI. Thông qua việc khái thác sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa, truyền thụ tốt những kiến thức lịch sử cho học sinh, giúp học sinh lĩnh hội kiến thức lịch sử một cách chủ động tích cực sáng tạo, đồng thời cải tiến dạy học lịch sử theo phương pháp mới. Trường THCS Tân Phong -3- Năm 2010-2011 KHAI THÁC SỬ DỤNG KÊNH HÌNH TRONG SÁCH GIÁO KHOA LỊCH SỬ LỚP 8 Trần Thị Luân PHẦN II NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI A. NỘI DUNG. I. Cơ sở lí luận, khoa học của đề tài. Đặc trưng nổi bật của việc nhận thức lịch sử là học sinh không thể tri giác trực tiếp được những sự kiện lịch sử đã xảy ra trong quá khứ, cũng không thể dựng lại lịch sử trong phòng thí nghiệm. Lịch sử là những gì đã xảy ra trong quá khứ, là hiện thực trong quá khứ tồn tại khách quan nên không thể phán đoán, suy luận để biết về lịch sử. Vì vậy nhiệm vụ quan trọng của người giáo viên trong dạy học lịch sử là phải tái tạo lại những gì đã diễn ra trong quá khứ một cách chính xác nhưng không kém phần hấp dẫn và sinh động. Trong phương pháp dạy học lịch sử, nội dung của một sự kiện lịch sử được học sinh nhận thức thông qua việc tạo nên hình ảnh của quá khứ bằng những hoạt động của tri giác và cảm giác. Trong sách giáo khoa Lịch sử cũ kênh hình hầu như không được chú trọng nếu có cũng chỉ để minh hoạ cho nội dung kênh chữ. Vì vậy khi giảng dạy lịch sử người giáo viên chủ yếu sử dụng lời nói để tái tạo lại các sự kiện, hiện tượng lịch sử nên giờ học thường trở nên nhàm chán và khô cứng. Hiện nay sách giáo khoa đã rất chú trọng đến kênh hình, thể hiện số lượng kênh hình tăng lên đáng kể so với trước, hơn nữa kênh hình trong sách giáo khoa hiện hành không chỉ giới hạn ở việc minh hoạ cho nội dung bài học mà nó thường chứa đựng những kiến thức lịch sử quan trọng đòi hỏi học sinh phải nắm được thông qua “làm việc” với kênh hình. Vì vậy khi giảng dạy lịch sử đòi hỏi người giáo viên không chỉ sử dụng lời nói mà còn sử dụng những hình ảnh trực quan của quá khứ để tái tạo lại lịch sử nên giờ học trở nên sinh động và hấp dẫn hơn đối với học sinh. Trường THCS Tân Phong -4- Năm 2010-2011 KHAI THÁC SỬ DỤNG KÊNH HÌNH TRONG SÁCH GIÁO KHOA LỊCH SỬ LỚP 8 Trần Thị Luân II. Đối tượng phục vụ nghiên cứu Đối tượng phục vụ cho quy trình nghiên cứu xây dung đề tài là toàn bộ học sinh khối 8 trường THCS Tân Phong: Tổng số 80 học sinh. Trong đó: Lớp 8A: 27 học sinh. Lớp 8B: 26 học sinh. Lớp 8C: 27 học sinh. III. Nội dung phương pháp nghiên cứu. Muốn đổi mới cách học thì trước hết phải đổi mới cách dạy, phải xác định rõ vai trò của thầy và trò trong dạy - học. Trong phương pháp đổi mới phải có sự kết hợp, hợp tác của thầy - trò và có sự phối hợp hoạt động dạy với hoạt động học thì mới thành công. Tăng cường vận dụng các phương pháp dạy học đặc thù của bộ môn lịch sử để phát huy tính tích cực của học sinh. Trong sách giáo khoa lịch sử kênh hình gồm nhiều loại: Lược đồ, sơ đồ, tranh ảnh, hình vẽ, … Trong một bài học có thể có một hoặc nhiều kênh hình vì vậy giáo viên cần căn cứ vào mục đích yêu cầu của bài học, xác định loại kênh hình để có những cách khai thác sử dụng phù hợp và có hiệu quả. 1. Khai thác, sử dụng lược đồ trong sách giáo khoa. Lược đồ trong sách giáo khoa là phương tiện trực quan rất quan trọng trong dạy học lịch sử. Nó không chỉ góp phần quan trọng tái tạo lại cho học sinh những hình ảnh lịch sử với các nét điển hình đặc trưng nhất mà còn khắc phục được tình trạng nhầm lẫn, hiện đại hoá lịch sử của học sinh. Trên lược đồ các sự kiện luôn được thể hiện trong một không gian, thời điểm, địa điểm cùng một số yếu tố điạ lí nhất định. Đối với học sinh việc sử dụng lược đồ không những chỉ để ghi nhớ, xác định vị các địa điểm lịch sử mà còn để hiểu rõ nội dung của lược đồ. Hiểu lược đồ không chỉ là biết các chú dẫn, các kí Trường THCS Tân Phong -5- Năm 2010-2011 KHAI THÁC SỬ DỤNG KÊNH HÌNH TRONG SÁCH GIÁO KHOA LỊCH SỬ LỚP 8 Trần Thị Luân hiệu mà cần thấy sau các điều quy ước ấy, những hiện tượng lịch sử sinh động. Về cách sử dụng lược đồ giáo viên cần lưu ý: Trước hết phải giới thiệu cụ thể tên lược đồ và giải thích rõ cho học sinh các kí hiệu ghi trên lược đồ. Sau đó hướng dẫn học sinh quan sát, khai thác nội dung lịch sử được thể hiện trên lược đồ theo hai cách sau: - Giáo viên yêu cầu học sinh đọc sách giáo khoa, quan sát lược đồ và lên bảng trình bày ngắn gọn nội dung lịch sử có trên lược đồ. Sau đó giáo viên lược thuật một cách ngắn gọn nội dung. - Giáo viên gợi ý học sinh quan sát, khai thác nội dung bằng những câu hỏi gợi ý để học sinh nắm được nội dung lịch sử trên lược đồ. Cuối cùng giáo viên lược thuật một cách ngắn gọn để học sinh hiểu nội dung lịch sử trên lược đồ. Ví dụ: Khi khai thác sử dụng H57. Lược đồ nước Nga Xô Viết chống thù trong giặc ngoài (1918-1920) (Sách giáo khoa Lịch sử 8 trang 81) để dạy phần 2.“Chống thù trong giặc ngoài” Bài 15. Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 và cuộc đấu tranh bảo vệ cách mạng (1917-1921). + Trước hết giáo viên giới thiệu tên lược đồ “Nước Nga Xô Viết chống thù trong giặc ngoài (1918-1920)”. + Giải thích cho học sinh các kí hiệu trên lược đồ: kí hiệu ngọn lửa màu đen là lực lương quân nổi loạn; kí hiệu mũi tên màu đen là lực lượng quân của các nước đế quốc can thiệp; mũi tên màu xanh là hướng tấn công của Hồng quân Xô Viết; vùng lấm chấm trên lược đồ là vùng cách mạng kiểm soát năm 1919. Trường THCS Tân Phong -6- Năm 2010-2011 KHAI THÁC SỬ DỤNG KÊNH HÌNH TRONG SÁCH GIÁO KHOA LỊCH SỬ LỚP 8 Trần Thị Luân + Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát và dựa vào các kí hiệu trên lược đồ để khai thác nội dung bằng những câu hỏi như: Lực lượng các nước đế quốc tấn công nước Nga Xô Viết từ những hướng nào? Trong nước Nga có những lực lượng nổi loạn nào? Tại sao chúng lại cấu kết với nhau? Trước hoàn cảnh khó khăn, chính quyền Xô Viết đã có những biện pháp gì? Kết quả và ý nghĩa của cuộc đấu tranh chống thù trong giặc ngoài? + Sau khi hướng dẫn học sinh khai thác nội dung bằng việc trả lời những câu hỏi nêu trên, để giúp học sinh thấy được toàn cảnh cuộc đấu tranh giáo viên sử dụng lược đồ kết hợp với lời nói lược thuật ngắn gọn nội dung như sau: Cuối năm 1918, quận đội 14 nước đế quốc (Anh, Pháp, Nhật, Mỹ, …) cấu kết với bọn phản động trong nước mở cuộc tấn công vũ trang vào nước Nga Xô Viết. Nước Nga Xô Viết bị kẻ thù bao vây bốn phía, chính quyền cách mạng chỉ còn kiểm soát được vùng trung tâm nước Nga, tình hình rất nghiêm trọng. Trong hoàn cảnh đất nước bị bao vây cô lập. Nước Nga Xô Viết đã tập trung toàn bộ sức lực tiến hành cuộc chiến tranh cách mạng chống thù trong giặc ngoài, bảo vệ chính quyền Xô Viết từ năm 1919 nước Nga thực hiện chính sách “Cộng sản thời chiến” để huy động tối đa và sử dụng hợp lí mọi nguồn của cải nhân lực của đất nước phục vụ cho cuộc chiến tranh cách mạng. Nhờ vậy nhân dân Xô Viết đã từng bước đánh bại thù trong giặc ngoài: Năm 1918 Hồng quân đánh bại quân của đô đốc Côn Sắc ở mặt trận phía Đông Trường THCS Tân Phong -7- Năm 2010-2011 KHAI THÁC SỬ DỤNG KÊNH HÌNH TRONG SÁCH GIÁO KHOA LỊCH SỬ LỚP 8 Trần Thị Luân Năm 1919 Hồng quân đánh bại các đạo quân của tướng Đê-nhi-kin ở phía Nam và tướng IU-đê-nhích, Đê-khan-ghen ở phía Bắc. Năm 1920 đánh bại đạo quân của Ba Lan và đạo quân của tướng Vrăng-ghen. Nhà nước Xô Viết được bảo vệ và giữ vững. + Sau khi lược thuật giáo viên sử dụng câu hỏi: Vì sao nhân dân Xô Viết bảo vệ được thành quả của cách mạng tháng Mười? Sử dụng bản đồ nói chung và lược đồ trong sách giáo khoa nói riêng là điều cần thiết không thể thiếu trong dạy học lịch sử hiện nay bởi nó đem lại nhiều kết quả về mặt giáo dưỡng, giáo dục và phát triển. 2. Khai thác, sử dụng sơ đồ trong sách giáo khoa lịch sử. Sơ đồ trong sách giáo khoa nhằm cụ thể hoá nội dung sự kiện bằng những mô hình, hình học đơn giản, diễn tả tổ chức một cơ cấu xã hội, một chế độ chính trị, mối quan hệ giữa các sự kiện lịch sử… Thông thường khai thác sử dụng sơ đồ dễ hơn lược đồ; song cũng giống như khi khai thác sử dụng lược đồ trước hết giáo viên cần giới thiệu cho học sinh tên sơ đồ, sau đó hướng dẫn học sinh khai thác sơ đồ bằng những câu hỏi gợi ý để học sinh tư duy và tìm hiểu nội dung. Cuối cùng giáo viên sử dụng sơ đồ chốt lại nội dung cơ bản. Ví dụ: Khi khai thác H.30: Sơ đồ bộ máy Hội đồng công xã (Sách giáo khoa Lịch sử 8 trang 37) để dạy mục II. Tổ chức bộ máy và chính sách của Công xã Pa-ri, Bài 5. Công xã Pa-ri 1871. + Trước hết giáo viên cho học sinh quan sát sơ đồ H.30, đọc tên sơ đồ: Bộ máy hội đồng công xã Pa-ri. Trường THCS Tân Phong -8- Năm 2010-2011 KHAI THÁC SỬ DỤNG KÊNH HÌNH TRONG SÁCH GIÁO KHOA LỊCH SỬ LỚP 8 Trần Thị Luân + Giáo viên cho học sinh đọc sách giáo khoa, sau đó yêu cầu học sinh dựa vào sơ đồ H.30 trình bày về bộ máy nhà nước Công xã Pa-ri. + Giáo viên sử dụng sơ đồ để giải thích cho học sinh hiểu về cách thức tổ chức hoạt động của Công xã Pa-ri sau đó so sánh khái quát nhà nước của Công xã Pa-ri với nhà nước của giai cấp phong kiến và giai cấp tư sản, để học sinh hiểu bản chất nhà nước Công xã Pa-ri: Sau khi cuộc khởi nghĩa ngày 18-3-1871 thành công. Ngày 26-3-1871, nhân dân Pa-ri tiến hành bầu cử Hội đồng công xã theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu và đã chọn ra được 86 đại biểu, phần lớn là công nhân và tri thức, đại diện cho nhân dân lao động Pa-ri. Bộ máy nhà nước theo hình thức nghị viện tư sản được thay thế bằng Hội đồng công xã- một hình thức quốc hội vô sản, một tổ chức chính trị kiểu mới. - Khung tròn: Hội đồng công xã là cơ quan cao nhất của nhà nước mới, được thành lập qua bầu cử theo hình thức phổ thông đầu phiếu, gồm đại biểu của công nhân, tri thức dân chủ như: viên chức, nhà giáo, thầy thuốc, nhà báo tiến bộ…tiêu biểu cho các tầng lớp nhân dân lao động của thành phố Pa-ri. Trong công xã, công nhân nắm vị trí lãnh đạo. Công xã tập trung trong tay cả quyền lập pháp và quyền hành pháp, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân. - Các khung nhỏ có đường nối với Hội đồng công xã là các uỷ ban trực thuộc: quân sự, đối ngoại giáo dục…do Hội đồng công xã lập ra. Đứng đầu là các uỷ viên công xã, chịu trách nhiệm trước Hội đồng công xã, trước nhân dân và có thể bị bãi miễn khi không được tín nhiệm. Như vậy, Hội đồng công xã đã nắm quyền vừa ban bố pháp luật, vừa lập các tiểu ban thi hành pháp luật. Khác hẳn với quốc hội của giai cấp tư sản Trường THCS Tân Phong -9- Năm 2010-2011 KHAI THÁC SỬ DỤNG KÊNH HÌNH TRONG SÁCH GIÁO KHOA LỊCH SỬ LỚP 8 Trần Thị Luân chỉ nắm quyền lập pháp, còn quyền hành pháp quan hệ trực tiếp đến đời sống, quyền lợi của nhân dân thì nằm trong tay chính phủ, nhân dân không kiểm soát được. Bộ máy nhà nước cũ của tư sản là do chế độ đại nghị cử ra, đại biểu được cử ra là đại diện cho giai cấp thống trị để bóc lột nhân dân, họ được hưởng nhiều đặc quyền,đặc lợi, nên ra sức bảo vệ chế độ của giai cấp bóc lột. Còn công xã Pa-ri là nhà nước của dân, do dân và vì dân. 3. Khai thác, sử dụng hình vẽ, tranh, ảnh trong sách giáo khoa Lịch sử. Hình vẽ, tranh, ảnh trong sách giáo khoa là một phần của đồ dùng trực quan trong quá trình dạy học. Nó có ý nghĩa hết sức to lớn, không chỉ là phương tiện trực quan có giá trị giúp bài học trở nên sinh động, hấp dẫn hơn, gây hứng thú học tập hơn cho học sinh, mà còn là nguồn cung cấp kiến thức quan trọng, có tác dụng giáo dục tư tưởng, tình cảm, tư duy cho học sinh. Hiện nay đa số học sinh rất thích xem tranh ảnh lịch sử, nhưng lại ít biết cách khai thác, sử dụng tranh ảnh để phục vụ bài học.Vì vậy nhiệm vụ của giáo viên là phải hướng dẫn học sinh cách khai thác, sử dụng. Khi hướng dẫn học sinh khai thác, sử dụng , giáo viên cần giúp học sinh không chỉ biết miêu tả bề ngoài của tranh, ảnh, hình vẽ mà quan trọng hơn là phải biết khai thác nội dung lịch sử chứa đựng bên trong hình vẽ, tranh, ảnh.Thường thì giáo viên giới thiệu tên tranh, ảnh, hình vẽ, sau đó yêu cầu học sinh quan sát vào tranh, ảnh, hình vẽ để trả lời câu hỏi gợi ý của giáo viên. Ví dụ: Tìm hiểu mục I.Trung Quốc bị các nước đế quốc chia xẻ, ở Bài10.Trung Quốc giữa thế kỷ XIX- đầu thế kỷ XX. Khi khai thác, sử dụng Trường THCS Tân Phong - 10 - Năm 2010-2011 KHAI THÁC SỬ DỤNG KÊNH HÌNH TRONG SÁCH GIÁO KHOA LỊCH SỬ LỚP 8 Trần Thị Luân H.42. Các nước đế quốc xâu xé “cái bánh ngọt” Trung Quốc (Sách giáo khoa lịch sử 8 trang 59): - Trước hết giáo viên cho học sinh quan sát bức tranh biếm hoạ, giới thiệu vài nét về nội dung thể hiện qua bức tranh như: cái bánh ngọt mang tên “China” được chia thành nhiều miếng là hình ảnh tượng trưng cho tình cảnh của đất nước Trung Quốc cuối thế kỷ XIX, chân dung các nhân vật xung quanh chiếc bánh là hình ảnh của các vị nguyên thủ đương thời của các quốc gia như Đức, Pháp, Mĩ, Nga, Nhật , Anh. - Giáo viên hướng dẫn học sinh khai thác nội dung tranh bằng việc đặt câu hỏi gợi ý để học sinh trả lời: + Theo em, tác giả bức tranh muốn nói điều gì ? + Qua bức tranh, em rút ra được điều gì về lịch sử Trung Quốc cuối thế kỷ XIX ? - Sau khi học sinh trả lời và nêu nhận xét, giáo viên tóm tắt nội dung bức tranh và rút ra kết luận: Cuối thế kỷ XIX, các nước đế quốc phương Tây tăng cường xâm lược thuộc địa để thoả mãn nhu cầu thị trường, tài nguyên và nhân công phục vụ nền kinh tế chính quốc. Tất cả các nước đế quốc đều hướng ánh mắt thèm thuồng vào vùng đất rộng lớn Trung Quốc. Trung Quốc với diện tích rộng, dân số đông nhất thế giới, điều kiện tự nhiên thuận lợi đã trở thành “cái bánh ngọt” mà tất cả các nước đế quốc đều thèm muốn. Vậy vì sao các nước đế quốc không tìm cách độc chiếm “cái bánh ngọt” này mà lại phải chia ra thành nhiều miếng ? Về vấn đề này, trong tác phẩm “Các nước đế quốc chủ nghĩa và Trung Quốc” Hồ Chí Minh đã chỉ Trường THCS Tân Phong - 11 - Năm 2010-2011 KHAI THÁC SỬ DỤNG KÊNH HÌNH TRONG SÁCH GIÁO KHOA LỊCH SỬ LỚP 8 Trần Thị Luân rõ: vào cuối thế kỷ XIX mặc dù Trung Quốc rất suy nhược, nội bộ bị chia rẽ, nhưng dù sao con số 11.139.000 km2 của nó vẫn là miếng mồi quá to mà cái mõm của chủ nghĩa đế quốc thực dân không thể nuốt trôi ngay một lúc được. Và không thể trong một ngày mà đẩy một cách tàn bạo 489,5 triệu người Trung Quốc vào chế độ nô lệ thuộc địa. Cho nên các nước đế quốc đã cắt vụn Trung Quốc ra thành nhiều mảnh để chia nhau chiếm giữ. Quá trình các nước đế quốc xâu xé Trung Quốc bắt đầu từ cuộc chiến tranh thuốc phiện của thực dân Anh năm 1840-1842. Sau chiến tranh thuốc phiện, các nước đế quốc từng bước nhảy vào xâu xé Trung Quốc. Đến cuối thế kỷ XIX, Đức xâm chiếm tỉnh Sơn Đông, Anh xâm chiếm xong vùng châu thổ sông Dương Tử, Pháp thôn tính vùng Vân Nam, Nga và Nhật chiếm vùng Đông Bắc… Sự phân chia lãnh thổ Trung Quốc được thể hiện rất rõ trong bức tranh, đồng thời thái độ các nước đế quốc cũng được bộc lộ rõ. Cái bánh ngọt mang dòng chữ “China” được chia thành nhiều miếng. Hình ảnh sáu vị nguyên thủ quốc gia ngồi xung quanh cái bánh với sáu chiếc dĩa nhọn hoắt trong tay. Kể từ trái sang phải là Hoàng đế Đức, Tổng thống Pháp, Nga hoàng, Nhật hoàng, Tổng thống Mĩ, Thủ tướng Anh đương thời. Như vậy, việc các nước đế quốc xâu xé Trung Quốc là biểu hiện rõ nhất bản chất xâm lược thuộc địa của chủ nghĩa thực dân, đồng thời cũng là biểu hiện rõ sự chà đạp lên quyền dân tộc của các nước nhỏ yếu trong thời đại đế quốc chủ nghĩa. Sử dụng tranh, ảnh như vậy vừa khai thác được nội dung lịch sử thể hiện qua tranh, ảnh, bổ sung cho bài giảng, vừa phát huy năng lực tư duy, kích thích trí tưởng tượng phong phú, tạo hứng thú học tập cho học sinh. Trường THCS Tân Phong - 12 - Năm 2010-2011 KHAI THÁC SỬ DỤNG KÊNH HÌNH TRONG SÁCH GIÁO KHOA LỊCH SỬ LỚP 8 Trần Thị Luân 4. Khai thác, sử dụng chân dung các nhân vật lịch sử trong sách giáo khoa. Chân dung các nhân vật lịch sử có ý nghĩa rất lớn trong việc giảng dạy và học tập lịch sử ở trường trung học cơ sở. Chân dung nhân vật lịch sử trong sách giáo khoa thường có hai loại: chân dung nhân vật phản diện và chân dung nhân vật chính diện. Khi sử dụng chân dung nhân vật lịch sử giáo viên không nên chú ý đến việc miêu tả bề ngoài của nhân vật mà cần chú ý phân tích nội tâm, tài đức, quan điểm thể hiện ở hành động của nhân vật. Đối với chân dung nhân vật phản diện, khi khai thác, sử dụng vào bài học, giáo viên cần hướng dẫn học sinh nhận xét những biểu hiện của tính gian ác, tham lam, xảo quyệt của nhân vật ấy, không nên để học sinh bị thu hút về hình thức của nhân vật mà quên đi đó là nhân vật phản diện. Khi khai thác chân dung các nhân vật chính diện như: các anh hùng dân tộc, lãnh tụ cách mạng, nhà phát minh khoa học…, giáo viên phải làm nổi bật tính cách thông qua việc miêu tả bề ngoài, hay nêu khái quát ngắn gọn tiểu sử nhân vật, đặc biệt là những câu chuyện về thời thơ ấu của nhân vật, dễ làm học sinh hứng thú, kích thích óc tò mò, phát triển năng lực nhận thức. Qua việc sử dụng chân dung các nhân vật chính diện giáo viên cần giáo dục ở học sinh lòng biết ơn, sự khâm phục tài trí, đạo đức của nhân vật từ đó có ý thức rèn luyện mình theo gương đó. Ví dụ: Khi sử dụng H.83. C.xi-ôn-cốp-xki, người sáng lập ngành du hành vũ trụ hiện đại (Sách giáo khoa Lịch sử 8 trang 111) để dạy mục II. Nền văn hoá Xô Viết hình thành và phát triển ở Bài 22. Sự phát triển của khoa học- kĩ thuật và văn hoá thế giới nửa đầu thế kỷ XX. Trường THCS Tân Phong - 13 - Năm 2010-2011 KHAI THÁC SỬ DỤNG KÊNH HÌNH TRONG SÁCH GIÁO KHOA LỊCH SỬ LỚP 8 - Trần Thị Luân Trước hết giáo viên yêu cầu học sinh quan sát chân dung của C.Xiôn-cốp-xki ở trong sách giáo khoa. - Sau đó giáo viên hướng dẫn học sinh khai thác nội dung bằng các câu hỏi gợi mở như: + Em biết gì về ngành du hành vũ trụ hiện đại ? + Ai là người đặt nền móng cho ngành du hành vũ trụ hiện đại ? + C.Xi-ôn-cốp-xki đã có những nghiên cứu gì về vũ trụ ? - Sau khi học sinh trả lời, giáo viên miêu tả và kết luận: C.Xi-ôn-cốp-xki sinh ra và lớn lên trong một gia đình tri thức tại thành phố I-dép-xkôi- e ( Liên Xô cũ) . Cha ông là nhà bác học, rất quan tâm đến việc dạy con. Ngay từ nhỏ, ông đã tỏ ra là một cậu bé thông minh nhưng rủi ro đã đến với cậu bé khi 9-10 tuổi, ông mắc bệnh hiểm nghèo : bị điếc hoàn toàn. Vì thế ông không thể đến trường học được. Bằng chí kiên trì và tự vượt qua số phận, ông đã tự học hết chương trình trung học và phần lớn chương trình toán học của trường Đại học Tổng hợp. Từ năm 1879, ông đã trở thành thầy giáo dạy học ở vùng nông thôn nghèo nàn, lạc hậu dưới chế độ Nga hoàng. Ông giáo trường làng C.Xi-ôncốp-xki đã say mê lao vào công tác nghiên cứu khoa học và để óc tưởng tượng của mình bay lên tận các vì sao. Những công trình nghiên cứu khoa học của ông đầu tiên của ông bắt đầu từ thế kỷ XX, bao gồm : khả năng chế tạo khí cầu kim loại điều khiển được, lí thuyết chuyển động của các thiết bị phản lực, sơ đồ tên lửa tầm xa và tên lửa cho các chuyến du hành liên hành tinh. Năm 1903, ông đưa ra lí thuyết về khả năng mở rộng cho tàu liên hành tinh, công thức Xi-ôn-cốp-xki vẫn là Trường THCS Tân Phong - 14 - Năm 2010-2011 KHAI THÁC SỬ DỤNG KÊNH HÌNH TRONG SÁCH GIÁO KHOA LỊCH SỬ LỚP 8 Trần Thị Luân để tính vận tốc tên lửa. Năm 1929 ông đề xuất lí thuyết chuyển động của các tên lửa nhiều tầng đang được sử dụng trong ngành du hành tên lửa hiện đại. Ông là người đầu tiên đưa ra ý tưởng về vệ tinh nhân tạo của Trái Đất và nghiên cứu các điều kiện sinh sống, làm việc của phi hành đoàn vệ tinh. Ông từng nói : “Trái Đất là cái nôi nuôi dưỡng con người, nhưng cũng như những đứa trẻ không thể ở mãi trong nôi. Con người cũng sẽ từng bước rời khỏi Trái Đất và đi vào khoảng không vũ trụ”. Lời tiên đoán ấy, hơn nửa thế kỷ sau đã trở thành sự thật. Ngoài nghiên cứu vũ trụ, ông còn nghiên cứu nhiều lĩnh vực khoa học khác. ông đã để lại cho loài người 380 công trình nghiên cứu khoa học có giá trị. Để đánh giá công lao của ông, Liên Xô (cũ) trước đây đã đặt ra giải thưởng Huy chương vàng mang tên ông cho những công trình xuất sắc trong lĩnh vực chinh phục vũ trụ. Với cách sử dụng những câu chuyện, tiểu sử và những cống hiến của các nhân vật lịch sử như trên vừa có sức truyền cảm giáo dục sâu sắc, vừa khôi phục ở các em trí tưởng tượng về các nhân vật, vĩ nhân trong lịch sử. Trên đây là một số loại kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử cần được giáo viên khai thác sử dụng thường xuyên trong các giờ dạy và học lịch sử. Khi nghiên cứu đề tài này tôi đã sử dụng phương pháp nghiên cứu thực nghiệm: Giáo viên viết đề tài, sau đó áp dụng đề tài vào một lớp dạy, rút kinh nghiệm đề tài, bổ sung phần lý thuyết và dạy thực nghiệm lần 2, lần 3 rồi khảo sát kết quả, cuối cùng triển khai dạy đại trà trên toàn bộ đối tượng học sinh. Trường THCS Tân Phong - 15 - Năm 2010-2011 KHAI THÁC SỬ DỤNG KÊNH HÌNH TRONG SÁCH GIÁO KHOA LỊCH SỬ LỚP 8 Trần Thị Luân IV. Kết quả nghiên cứu. Trong các giờ dạy học lịch sử 8 của năm học 2010 - 2011 vừa qua, tôi đã áp dụng việc khai thác sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa vào bài giảng môn Lịch sử nói chung và môn Lịch sử 8 nói riêng một cách thường xuyên, đầy đủ, phù hợp với nội dung yêu cầu của bài học và trình độ nhận thức, hiểu biết của học sinh ở khôi lớp. Kết quả là tôi nhận thấy ở hầu hết các giờ học có sử dụng kênh hình nói chung và kênh hình trong sách giáo khoa nói riêng học sinh đều rất tích cực và hứng thú trong việc học tập đối với bộ môn Lịch sử. Khi được giáo viên hướng dẫn “làm việc” với hệ thống kênh hình trong sách giáo khoa các em luôn chủ động tự giác tích cực tham gia vào những hoạt động do giáo viên tổ chức vì vậy chất lượng của môn học năm học 2010 -2011 cao hơn hẳn so với năm học trước. Qua việc áp dụng sáng kiến tôi đã giúp học sinh hiểu sâu nhớ lâu và tiếp thu bài học nhanh và có hiệu quả hơn đồng thời cũng đã hình thành ở học sinh khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ. V. Giải pháp mới. Để việc khai thác sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa Lịch sử thực sự đem lại kết quả như mong muốn đòi hỏi người giáo viên phải làm tốt vai trò của người hướng dẫn và tổ chức. Việc hướng dẫn và tổ chức học sinh khai thác sử dụng kênh hình chỉ đạt kết quả khi giáo viên có sự chuẩn bị kĩ lưỡng, đầu tư về thời gian, công sức. Trước khi khai thác sử dụng kênh hình giáo viên phải căn cứ vào nội dung yêu cầu giáo dưỡng giáo dục của bài học, trình độ nhận biết của học sinh, đặc trưng của từng loại kênh hình để lựa chọn cách khai thác và sử dụng sao cho phù hợp có hiệu quả nhất. Trường THCS Tân Phong - 16 - Năm 2010-2011 KHAI THÁC SỬ DỤNG KÊNH HÌNH TRONG SÁCH GIÁO KHOA LỊCH SỬ LỚP 8 Trần Thị Luân Kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử cùng với kênh chữ là những nguồn cung cấp kiến thức kiến thức lịch sử cho học sinh, không chỉ cung cấp kiến thức lịch sử kênh hình còn là phương tiện trực quan có giá trị giúp bài học lịch sử trở nên sinh động và hấp dẫn. Vì vậy trong mỗi tiết học, bài học lịch sử có kênh hình giáo viên bộ môn nên tuỳ vào yêu cầu nội dung bài học để thiết kế cách khai thác, sử dụng kênh hình có trong bài, từ đó giúp học sinh hình thành, phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ. B. ỨNG DỤNG VÀO THỰC TIỄN CÔNG TÁC GIẢNG DẠY. I. Quá trình áp dụng của bản thân,và hiệu quả khi áp dụng đề tài. Sau khi viết đề tài phần lí thuyết và tham khảo ý kiến của đồng nghiệp, tôi tiến hành áp dụng dạy thực nghiệm 3 tiết ở lớp 8C, với số đối tượng phục vụ dạy thực nghiệm là 27 học sinh. Trước hết, tôi áp dụng dạy thực nghiệm ở lớp 8C tiết thứ nhất Bài 5. - Công xã Pa- ri 1871 (sách giáo khoa lịch sử 8 trang 35-38). Dạy xong tiết thứ nhất, tôi tiến hành khảo sát, đánh giá mức độ nhận thức của học sinh ở cả ba lớp khối 8, so sánh kết quả của lớp thực nghiệm 8C với hai lớp đối chứng - 8B và 8A, rút kinh nghiệm đề tài, bổ sung phần lí thuyết. - Sau khi đã rút kinh nghiệm ở tiết dạy thực nghiệm thứ nhất, tôi tiếp tục áp dụng dạy thực nghiệm ở lớp 8C tiết thứ hai, Bài 10. Trung Quốc cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX (Sách giáo khoa Lịch sử 8 trang 58 -62). Dạy xong tiết dạy thực nghiệm thứ hai ở lớp 8C, tôi tiếp tục tiền hành khảo sát, đánh giá nhận thức của học sinh ở cả ba lớp khối 8, tiếp tục đối chứng kết quả của lớp 8C với hai lớp 8B và 8A. Trường THCS Tân Phong - 17 - Năm 2010-2011 KHAI THÁC SỬ DỤNG KÊNH HÌNH TRONG SÁCH GIÁO KHOA LỊCH SỬ LỚP 8 Trần Thị Luân Sau tiết dạy thực nghiệm thứ 2 và qua kết quả của 2 lần kiểm tra, - đánh giá, tôi tiếp tục tiến hành rút kinh nghiệm, bổ xung đề tài, tôi triển khai dạy thực nghiệm ở lớp 8C tiết thứ 3, Bài 15. Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 và cuộc đấu tranh bảo vệ cách mạng (1917-1921) - Sách giáo khoa Lịch sử 8 trang 75-81. Dạy xong Bài 15, tôi tiến hành kiểm tra, đánh giá mức độ nhận thức của học sinh ở cả 3 lớp qua giờ dạy và học. Sau 3 tiết dạy thực nghiệm và qua 3 lần kiểm tra, đánh giá theo phương pháp đối chứng, hoàn chỉnh đề tài, tôi tiến hành triển khai dạy trên toàn bộ đối tượng học sinh ở cả 3 lớp khối 8. Trong quá trình áp dụng đề tài này vào công tác giảng dạy từ dầu năm học 2010 -2011 đến kết thúc năm học, tôi nhận thấy chất lượng bộ môn Lịch sử 8 đã được nâng cao rõ rệt, được thể hiện ở số lượng học sinh khá giỏi và yêu thích đối với bộ môn lịch sử ngày càng tăng lên qua mỗi giờ học, sau mỗi lần kiểm tra, đánh giá. Điều đó đã chứng tỏ cùng với việc áp dụng những phương pháp dạy học tích cực, thì việc thường xuyên khai thác, sử dụng hệ thống kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử sẽ góp phần nâng cao hứng thú học tập và chất lượng của bộ môn ở trường trung học cơ sở. Hiệu quả của đề tài được đánh giá qua kết quả kiểm tra học kì I và kết quả kiểm tra học kì II của năm học 2010 - 2011 của học sinh khối 8 ở bộ môn Lịch sử. *Kết quả cụ thể: - Kết quả kiểm tra khảo sát đầu năm Lớp 8A 8B 8C Sĩ số 27 26 27 Dưới 3 SL % 8 6 10 29.6 23.1 37.0 Trường THCS Tân Phong Từ 3-dưới Từ 55 dưới 6,5 S % SL % L 4 14.8 15 55.6 5 19.2 15 57.7 1 3.7 16 59.3 - 18 - Từ 6,5dưới 8 Từ 8-10 Từ TB trở lên SL % SL % SL % 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 15 15 16 55.6 57.7 59.3 Năm 2010-2011 KHAI THÁC SỬ DỤNG KÊNH HÌNH TRONG SÁCH GIÁO KHOA LỊCH SỬ LỚP 8 Cộn g 80 24 30.0 10 12.5 46 57.5 0 Trần Thị Luân 0 0 0 46 57.5 - Kết quả kiểm tra học kì I: Lớp 8A 8B 8C Cộn g Sĩ số Dưới 3 SL % 27 26 27 2 1 0 7.4 3.8 0 80 3 3.8 Từ 3-dưới Từ 55 dưới 6,5 S S % % L L 3 11.1 13 48.1 3 11.5 14 53.9 2 7.4 14 51.9 8 10.0 41 51.2 Từ 6,5dưới 8 S L 8 8 9 25 % Từ 8-10 SL Từ TB trở lên % SL % 29.7 30.8 33.3 1 0 2 3.7 0 7.4 22 22 25 81.2 84.7 92.6 31.2 3 3.8 69 86.2 - Kết quả kiểm tra học kì II: Lớp Sĩ số 8A 27 8B 26 8C 27 Cộn g 80 Dưới 3 Từ 3-dưới 5 S % L Từ 5dưới 6,5 SL % 0 0 0 0 13 0 0 0 0 15 0 0 0 0 8 0 0 0 36 0 SL % 48. 1 57. 7 29. 6 45. 0 Từ 6,5dưới 8 S % L Từ 8-10 SL % Từ TB trở lên SL % 9 33.3 5 18.6 27 100 8 30.8 3 11.5 26 100 15 55.6 4 14.8 27 100 32 40.0 80 100 12 15.0 Nhận xét: Qua các lần kiểm tra, đánh giá nhận thức của học sinh, qua các tiết dạy môn Lịch sử 8 có áp dụng khai thác, sử dụng hệ thống kênh hình trong sách giáo khoa, tôi nhận thấy qua việc kiểm tra cả về kiến thức và kĩ năng, học sinh không những ngày càng hứng thú học tập hơn đối với bộ môn, hiểu bài nhanh hơn và sâu, nhớ lâu hơn. Điều này được thẻ hiện ở chất lượng các bài kiểm tra, đánh giá của giáo viên, kết quả bài kiểm tra sau thường cao hơn kết quả bài kiểm tra trước. II. Một số kinh nghiệm được rút ra trong quá trình giảng dạy. Trường THCS Tân Phong - 19 - Năm 2010-2011 KHAI THÁC SỬ DỤNG KÊNH HÌNH TRONG SÁCH GIÁO KHOA LỊCH SỬ LỚP 8 Trần Thị Luân Sau khi vận dụng việc khai thác, sử dụng kênh hình trong Sách giáo khoa Lịch sử vào các giờ dạy bộ môn lịch sử 8 trong năm học vừa qua, bản thân tôi rút ra được một số kinh nghiệm sau: - Hệ thống kênh hình trong Sách giáo khoa Lịch sử gôm nhiều loại khác nhau. Vì vậy để khai thác sử dụng có hiệu quả, giáo viên cần nắm được đặc trưng của từng loại kênh hình và cách sử dụng của mỗi loại. - Khi khai thác, sử dụng kênh hình vào phục vụ bất kì bài lịch sử nào, giáo viên phải căn cứ vào, yêu cầu giáo dục, giáo dưỡng của bài học, sử dụng phù hợp với trình độ và mức độ hiểu biết của học sinh. - Trong một bài lịch sử thường có nhiều kênh hình, trong đó có những kênh hình chứa đựng nội dung cơ bản của bài học mà giáo viên cần tổ chức cho học sinh khai thác và hiểu rõ, nhưng cũng có kênh hình chỉ mang tính chất minh hoạ cho nội dung bài học.Vì vậy giáo viên cần phải biết lựa chọn kênh hình thể hiện nội dung cơ bản để tập trung thời gian hướng dẫn học sinh khai thác. - Trong khi khái thác, sử dụng kênh hình giáo viên cần tổ chức những hoạt động để học sinh có điều kiện phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo, huy động vốn hiểu biết sẵn có của học sinh vào việc khai thác sử dụng kênh hình; chú ý rèn luyện ở học sinh các kĩ năng thực hành, phát triển trí tưởng tượng, tư duy ngôn ngữ và khả năng sáng tạo ở học sinh. - Là người giữ vai trò hướng dẫn tổ chức học sinh khai thác sử dụng kênh hình nên giáo viên cần có sự đầu tư về thời gian công sức, chuẩn bị thật kĩ, nắm chắc giá trị, nội dung, xuất xứ, ý nghĩa của kênh hình trước khi sử dụng. - Khi khai thác và sử dụng kênh hình giáo viên phải luôn theo dõi kiểm tra sự thu nhận của học sinh, giúp học sinh phân tích nêu kết luận khái quát về Trường THCS Tân Phong - 20 - Năm 2010-2011
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan