Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khai thác, dùng tài liệu lưu trữ phục vụ hoạt động văn hóa đối ngoại trong giai ...

Tài liệu Khai thác, dùng tài liệu lưu trữ phục vụ hoạt động văn hóa đối ngoại trong giai đoạn đổi mới và hội nhập quốc tế

.PDF
96
424
98

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN ANH THƯ KHAI THÁC, SỬ DỤNG TÀI LIỆU LƯU TRỮ PHỤC VỤ HOẠT ĐỘNG VĂN HOÁ ĐỐI NGOẠI TRONG GIAI ĐOẠN ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ LUẬN VĂN THẠC SĨ LƯU TRỮ VÀ QUẢN TRỊ VĂN PHÒNG Hà Nội-2010 MỤC LỤC Trang A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 05 2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài 06 3. Đối tƣợng nghiên cứu 07 4. Phạm vi nghiên cứu 07 5 Lịch sử nghiên cứu 08 6 Nguồn tài liệu tham khảo 08 7 Phƣơng pháp nghiên cứu 10 8 Đóng góp của đề tài 11 9 Bố cục của đề tài 11 B. PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG 1 SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC KHAI THÁC, SỬ DỤNG TÀI LIỆU LƢU TRỮ PHỤC VỤ HOẠT ĐỘNG VĂN HOÁ ĐỐI NGOẠI TRONG GIAI ĐOẠN ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ 1.1.1 Khái niệm về tài liệu lƣu trữ, văn hoá, văn hoá đối ngoại và ngoại 14 giao văn hoá Khái niệm về tài liệu lƣu trữ 14 1.1.2 Khái niệm về văn hoá, văn hoá đối ngoại và ngoại giao văn hoá 1.2 Tầm quan trọng và các biện pháp triển khai văn hoá đối ngoại 20 trong giai đoạn đổi mới và hội nhập quốc tế Tầm quan trọng của hoạt động văn hoá đối ngoại trong giai đoạn 20 đổi mới và hội nhập quốc tế Các biện pháp triển khai hoạt động văn hoá đối ngoại tại Việt 21 1.1 1.2.1. 1.2.2. 1.3 1.3.1 16 Nam hiện nay Sự cần thiết của việc khai thác, sử dụng tài liệu lƣu trữ phục vụ 30 hoạt động văn hoá đối ngoại trong giai đoạn đổi mới và hội nhập quốc tế Giá trị của tài liệu lƣu trữ đối với hoạt động văn hoá đối ngoại- 30 kinh nghiệm của một số nƣớc trên thế giới 1 1.3.2 Loại hình, số lƣợng và nội dung tài liệu lƣu trữ phục vụ hoạt 32 động văn hoá đối ngoại tại Việt Nam 1.3.3 Sự cần thiết của việc khai thác, sử dụng tài liệu lƣu trữ phục vụ 38 hoạt động văn hoá đối ngoại trong giai đoạn đổi mới và hội nhập quốc tế tại Việt Nam CHƢƠNG 2 THỰC TIỄN KHAI THÁC, SỬ DỤNG TÀI LIỆU LƢU TRỮ 2.1 PHỤC VỤ HOẠT ĐỘNG VĂN HOÁ ĐỐI NGOẠI TRONG GIAI ĐOẠN ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ Đối tƣợng khai thác, sử dụng tài liệu lƣu trữ phục vụ hoạt động 42 văn hoá đối ngoại 2.1.1 Cán bộ làm công tác công bố, giới thiệu tài liệu lƣu trữ 42 2.1.2 Các nhà nghiên cứu, giảng viên, công chức chuyên môn 43 2.1.3 Cán bộ ngoại giao, cán bộ làm công tác văn hoá, du lịch 45 2.1.4 Cán bộ truyền thông trong và ngoài nƣớc 46 2.1.5 Các đối tác khác (đối tác kinh tế, doanh nghiệp, địa phƣơng) 47 2.2 Các hình thức khai thác, sử dụng tài liệu lƣu trữ phục vụ hoạt 48 động văn hoá đối ngoại trong thời gian qua tại Việt Nam Khai thác, sử dụng tài liệu lƣu trữ biên soạn sách, sách ảnh, các 48 ấn phẩm tuyên truyền về Việt Nam Trƣng bày, triển lãm tài liệu lƣu trữ để giới thiệu về Việt Nam tới 51 2.2.1 2.2.2 2.2.3 2.2.4 2.5.5 công chúng và bạn bè quốc tế Sử dụng phim tài liệu, tƣ liệu để giới thiệu về đất nƣớc, con 55 ngƣời Việt Nam với bạn bè quốc tế Sử dụng tài liệu lƣu trữ trong các bài viết chuyên khảo, chuyên 58 ngành về đất nƣớc, con ngƣời, văn hoá Việt Nam trên các tạp chí khoa học có uy tín của Việt Nam và của các nƣớc bằng tiếng nƣớc ngoài, các bƣu thiếp, bƣu ảnh, tem bƣu chính… Sử dụng tài liệu lƣu trữ trong các cơ sở du lịch và tổ chức cơ 59 quan lƣu trữ là điểm đến văn hoá của du khách trong và ngoài nƣớc 2 Những ƣu điểm và tồn tại trong việc khai thác, sử dụng tài liệu 60 lƣu trữ phục vụ hoạt động văn hoá đối ngoại tại Việt Nam thời 2.3. gian qua 2.3.1 Những ƣu điểm 60 2.3.2 Những tồn tại 61 CHƢƠNG 3 CÁC GIẢI PHÁP TỔ CHỨC KHAI THÁC, SỬ DỤNG TÀI LIỆU 3.1 3.2 LƢU TRỮ PHỤC VỤ HOẠT ĐỘNG VĂN HOÁ ĐỐI NGOẠI TRONG GIAI ĐOẠN ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ Xây dựng tiểu đề án hoặc chƣơng trình hợp tác về khai thác, sử 65 dụng tài liệu lƣu trữ phục vụ hoạt động văn hoá đối ngoại thuộc Đề án chiến lƣợc Ngoại giao văn hoá Hoàn thiện hệ thống văn bản quản lý về khai thác, sử dụng tài 67 liệu lƣu trữ 3.3 Tăng cƣờng tuyên truyền về công tác lƣu trữ và tài liệu lƣu trữ 3.4 Đào tạo và nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ về khai thác sử dụng tài 71 liệu lƣu trữ phục vụ hoạt động văn hoá đối ngoại Đối với cán bộ làm công tác công bố, giới thiệu tài liệu lƣu trữ 71 3.4.1 70 3.4.3 Đối với cán bộ ngoại giao, văn hoá, truyền thông và công chức, 72 viên chức chuyên môn Đối với sinh viên ngành ngoại giao 72 3.5. Tăng cƣờng thu thập và sƣu tầm tài liệu lƣu trữ 73 3.6. Tổ chức khoa học tài liệu lƣu trữ 74 3.7. 3.8. Xây dựng danh mục tài liệu hạn chế sử dụng và tổ chức giải mật 74 tài liệu lƣu trữ Cải cách dịch vụ công trong khai thác, sử dụng tài liệu lƣu trữ 76 3.9. Tăng cƣờng tài chính và cơ sở vật chất 77 3.9.1. Tăng cƣờng cơ sở vật chất, trang thiết bị cho phòng đọc 78 3.9.2. Nâng cấp khu trƣng bày tài liệu tại các trung tâm lƣu trữ quốc gia 78 3.9.3 Xây dựng, tổ chức trung tâm triển lãm tài liệu lƣu trữ hiện đại, là 78 điểm đến văn hoá của du khách trong và ngoài nƣớc 3.4.2 3 3.10 3.11 3.11.1. Ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ khai thác, sử dụng tài liệu 80 lƣu trữ Đa dạng hoá các hình thức khai thác, sử dụng tài liệu lƣu trữ 81 phục vụ hoạt động văn hoá đối ngoại Công bố, giới thiệu tài liệu và sử dụng tài liệu lƣu trữ để biên 81 soạn sách, sách ảnh, ấn phẩm truyền thống, ấn phẩm điện tử giới thiệu về đất nƣớc, con ngƣời, văn hoá Việt Nam 3.11.2. Trƣng bày, triển lãm cố định, triển lãm lƣu động, triển lãm trực 82 tuyến tài liệu lƣu trữ tài liệu lƣu trữ để giới thiệu về Việt Nam tới bạn bè quốc tế 3.11.3. Sử dụng phim tài liệu, tƣ liệu để giới thiệu về đất nƣớc, con 82 ngƣời Việt Nam với bạn bè quốc tế 3.11.4. Sử dụng tài liệu lƣu trữ trong các bài viết chuyên khảo, chuyên 83 ngành về đất nƣớc, con ngƣời, văn hoá Việt Nam trên các tạp chí khoa học có uy tín của Việt Nam và của các nƣớc bằng tiếng nƣớc ngoài và xây dựng các sản phẩm văn hoá lƣu trữ 3.11.5. Sử dụng tài liệu lƣu trữ trong các cơ sở du lịch, chƣơng trình 85 quảng bá du lịch với cộng đồng quốc tế và đƣa chƣơng trình tham quan kho lƣu trữ vào các chƣơng trình du lịch 3.12. Tăng cƣờng các quan hệ song phƣơng và đa phƣơng với các tổ 85 chức quốc tế và các nƣớc để giới thiệu Việt Nam với bạn bè và các đồng nghiệp quốc tế C. PHẦN KẾT LUẬN 88 TÀI LIỆU THAM KHẢO 90 PHỤ LỤC 96 4 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Pháp lệnh Lƣu trữ quốc gia năm 2001- văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất về lƣu trữ đã khẳng định “tài liệu lƣu trữ là di sản của dân tộc, có giá trị đặc biệt đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Bởi vậy, phát huy giá trị tài liệu lƣu trữ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trở thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm của các cơ quan lƣu trữ. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nƣớc ta rất quan tâm đến hoạt động phát huy giá trị của tài liệu lƣu trữ thông qua việc ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, quản lý, tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ và phát huy giá trị của tài liệu lƣu trữ quốc gia nhƣ: Pháp lệnh Lƣu trữ quốc gia năm 2001, Nghị định số 111/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 08 tháng 4 năm 2004 quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Lƣu trữ Quốc gia, Chỉ thị số 05/2007/CT-TTg ngày 02 tháng 3 năm 2007 của Thủ tƣớng Chính phủ về việc tăng cƣờng bảo vệ và phát huy giá trị tài liệu lƣu trữ… Do đó, vị trí của công tác lƣu trữ ngày càng đƣợc khẳng định, thủ tục khai thác ngày càng thuận lợi, hình thức khai thác, sử dụng tài liệu lƣu trữ ngày càng đa dạng, đáp ứng các nhu cầu của xã hội và công dân để giá trị của tài liệu lƣu trữ đƣợc phát huy trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, ngoại giao. Trong thời đại hội nhập, quốc tế hoá, toàn cầu hoá hiện nay, các quốc gia thƣờng thông qua con đƣờng văn hoá nhƣ: phim ảnh, sách báo và các chƣơng trình trao đổi văn hoá để quảng bá hình ảnh đất nƣớc, con ngƣời, các nét văn hoá đặc sắc, độc đáo, cái đẹp đẽ, nhân bản nhất của dân tộc với quốc tế nhằm thúc đẩy sự hiểu biết, tin tƣởng lẫn nhau, hợp tác cùng phát triển đồng thời có thể tiếp biến, nâng cao, bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, thời đại và tránh sự va chạm giữa các nền văn minh, sự mâu thuẫn trong cọ xát văn hoá mỗi dân tộc, quốc gia. Do vậy, Đảng và Nhà nƣớc quan tâm, chỉ đạo, thực hiện văn hoá đối ngoại nhằm mục đích “góp phần giới thiệu, tuyên truyền về đất nƣớc, con ngƣời và văn hóa Việt Nam, nâng cao vị thế Việt Nam trên trƣờng quốc tế, đồng thời tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại”. 5 Việc nghiên cứu về văn hoá đối ngoại là công việc liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực xã hội, đặc biệt là ngành ngoại giao, ngành văn hóa… nhằm tổng kết và đúc rút những bài học kinh nghiệm cho công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển bản sắc văn hoá của nhân dân Việt Nam, đồng thời có thể giới thiệu với bè bạn thế giới, với cộng đồng ngƣời Việt Nam các thế hệ ở nƣớc ngoài về nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc của quê hƣơng mình. Vì vậy, có thể nói việc nghiên cứu và triển khai văn hoá đối ngoại không chỉ có ý nghĩa về mặt khoa học mà còn có ý nghĩa cả về mặt thực tiễn. Đây là nhiệm vụ của nhiều ngành khoa học, trong đó có ngành khoa học lƣu trữ. Do vậy, thông qua đề tài này, chúng tôi muốn trình bày một khía cạnh quan trọng khác là sử dụng nguồn thông tin tài liệu quý giá sẵn có của các cơ quan, tổ chức và cá nhân (tài liệu lƣu trữ) để giới thiệu với bạn bè quốc tế về một Việt Nam đa dạng về văn hoá, anh hùng trong chiến đấu, năng động và cởi mở trong đổi mới và hội nhập để bạn bè quốc tế hiểu về Việt Nam, tăng cƣờng hợp tác và giao lƣu với Việt Nam trên nhiều lĩnh vực và các mối quan hệ của đời sống, đồng thời nâng cao nhận thức của xã hội về công tác lƣu trữ, giá trị của tài liệu lƣu trữ và tăng cƣờng mối quan hệ giữa các hoạt động lƣu trữ và hoạt động văn hoá, nhằm hƣớng tới mục đích cuối cùng của công tác lƣu trữ là “phát huy giá trị tài liệu lƣu trữ” phục vụ cuộc sống. Trƣớc thực trạng hoạt động văn hoá đối ngoại là nhiệm vụ chính trị, có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hội nhập quốc tế cũng nhƣ tiềm năng đặc biệt, đa dạng và phong phú của tài liệu lƣu trữ tại các cơ quan, tổ chức, việc nghiên cứu và sử dụng tài liệu lƣu trữ phục vụ hoạt động văn hoá đối ngoại ở Việt Nam là việc làm thật sự cần thiết và có ý nghĩa, chúng tôi chọn vấn đề: "Khai thác, sử dụng tài liệu lưu trữ phục vụ hoạt động văn hoá đối ngoại trong giai đoạn đổi mới và hội nhập quốc tế" làm đề tài luận văn thạc sĩ. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài Mục tiêu chính của đề tài là khảo sát về tình hình sử dụng tài liệu lƣu trữ và đề xuất các giải pháp nhằm khai thác, sử dụng tài liệu lƣu trữ phục vụ hoạt động văn hoá đối ngoại trong giai đoạn đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay. 6 Để đạt đƣợc các mục tiêu nghiên cứu đã nêu trên, Đề tài có nhiệm vụ: Thứ nhất, khẳng định đƣợc giá trị của tài liệu lƣu trữ trong hoạt động văn hoá đối ngoại. Thứ hai, nghiên cứu khái quát nguồn, các loại hình tài liệu lƣu trữ đang bảo quản tại các cơ quan lƣu trữ và các cơ quan, tổ chức có thể phục vụ hoạt động văn hoá đối ngoại. Thứ ba, đánh giá thực tiễn về khai thác, sử dụng tài liệu lƣu trữ phục vụ động văn hoá đối ngoại trong thời gian qua của các cơ quan, tổ chức. Thứ tư, đề xuất các giải pháp và biện pháp tổ chức việc khai thác, sử dụng tài liệu lƣu trữ phục vụ hoạt động văn hoá đối ngoại trong thời gian tới. 3. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của Đề tài là: thông qua việc tìm hiểu các biện pháp triển khai văn hoá đối ngoại trong thời gian qua, các hình thức khai thác sử dụng tài liệu lƣu trữ, các nguyên tắc, thủ tục, phƣơng pháp của việc khai thác sử dụng tài liệu lƣu trữ và triển khai văn hoá đối ngoại để triển khai thực hiện các mục tiêu mà Đề tài đã đặt ra. 4. Phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu về việc triển khai văn hoá đối ngoại trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, do vậy, chúng tôi xác định thời gian nội dung của triển khai văn hoá đối ngoại và khai thác tài liệu lƣu trữ phục vụ hoạt động văn hoá đối ngoại từ khi bắt đầu thời kỳ đổi mới (năm 1986) cho đến nay. Căn cứ vào mục tiêu, mục đích của từng trƣờng hợp đối ngoại, các cơ quan, tổ chức có thể lựa chọn tài liệu lƣu trữ từ cơ quan mình và các cơ quan khau nhau (trong và ngoài nƣớc) thông qua các hình thức khác nhau để thực hiện nội dung công việc cụ thể, ví dụ có thể tổ chức triển lãm hoặc xuất bản các sách ấn phẩm trong nƣớc và cả tại nƣớc ngoài, bằng tiếng Việt hoặc bằng cả các ngôn ngữ khác. Nội dung vấn đề nghiên cứu của Đề tài là trên cơ sở phân tích về tài liệu lƣu trữ, về văn hoá đối ngoại, thấy đƣợc giá trị của tài liệu lƣu trữ với hoạt động văn hoá đối ngoại, từ đó đánh giá thực tiễn về khai thác, sử dụng tài liệu lƣu trữ phục vụ 7 động văn hoá đối ngoại trong thời gian qua của các cơ quan, tổ chức để đề xuất các giải pháp nhằm tổ chức việc khai thác, sử dụng tài liệu lƣu trữ phục vụ hoạt động văn hoá đối ngoại có hiệu quả trong thời gian tới. 5. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Khai thác, sử dụng tài liệu lƣu trữ là mục đích cuối cùng của công tác lƣu trữ, do đó, đã có nhiều hội nghị, hội thảo, đề án, đề tài nghiên cứu khoa học của Cục Lƣu trữ Văn phòng Trung ƣơng Đảng, Cục Văn thƣ và Lƣu trữ Nhà nƣớc; luận văn, khoá luận, báo cáo khoa học của sinh viên Khoa Lƣu trữ học và Quản trị văn phòng; bài viết trên Tạp chí Văn thƣ, Lƣu trữ Việt Nam về lý luận, thực tiễn khai thác, sử dụng tài liệu lƣu trữ nhƣ: báo cáo “Nghiên cứu quan hệ đối ngoại Việt Nam giai đoạn 1945-1975 qua tài liệu lƣu trữ” của PGS.TS Phạm Quang Minh, đề tài “khai thác sử dụng tài liệu lƣu trữ phục vụ giảng dạy lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 ở bậc Trung học Phổ thông” của Nguyễn Thuỳ Trang (2009), hội thảo khoa học “Phát huy giá trị tài liệu lƣu trữ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” của Cục Văn thƣ và Lƣu trữ Nhà nƣớc (năm 2008); “Khai thác và phát huy giá trị của tài liệu lƣu trữ trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn” của Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội (năm 2009)… Tuy nhiên, qua tìm hiểu các công trình nghiên cứu, các ấn phẩm trên chúng tôi thấy rằng các tác giả mới đề cập đến việc khai thác, sử dụng tài liệu lƣu trữ trong các hoạt động giáo dục, nghiên cứu lịch sử và các ngành khoa học xã hội và nhân văn, thực sự chƣa có nhiều tác giả đề cập đến việc sử dụng những tƣ liệu, tài liệu lƣu trữ tại các cơ quan, tổ chức nói chung cơ quan lƣu trữ nói riêng nhằm phục vụ công tác đối ngoại. Có thể khẳng định rằng, chƣa có một công trình nghiên cứu tổng thể nào về khai thác, sử dụng tài liệu lƣu trữ phục vụ hoạt động văn hoá đối ngoại ở Việt Nam. 6. Nguồn tài liệu tham khảo Để thực hiện đề tài, chúng tôi tham khảo những nguồn tài liệu sau: Một là, hệ thống các văn bản của Đảng và Nhà nƣớc về tổ chức khai thác, sử dụng tài liệu lƣu trữ nhƣ: Pháp lệnh Lƣu trữ quốc gia năm 2001, Nghị định số 8 111/2004/NĐ-CP ngày 08/4/2004 của Chính phủ hƣớng dẫn thi hành chi tiết một số điều của Pháp lệnh Lƣu trữ Quốc gia, Chỉ thị số 05/2007/CT-TTg của Thủ tƣớng Chính phủ về tăng cƣờng bảo vệ và phát huy giá trị tài liệu lƣu trữ, Quy định số 212-QĐ/TW ngày 16 tháng 3 năm 2009 của Ban Chấp hành Trung ƣơng giải mật tài liệu của các cơ quan, tổ chức trƣớc khi nộp lƣu vào Kho Lƣu trữ Trung ƣơng Đảng và tài liệu của Kho Lƣu trữ Trung ƣơng Đảng, quy trình giải mật tài liệu lƣu trữ, quy trình khai thác tài liệu lƣu trữ tại các trung tâm lƣu trữ quốc gia của Cục Văn thƣ và Lƣu trữ Nhà nƣớc... Hai là, hệ thống các văn bản của Đảng và Nhà nƣớc về hoạt động văn hoá đối ngoại và ngoại giao văn hoá nhƣ: Chỉ thị số 4252/2008/CT-BNG của Bộ Ngoại giao về việc tăng cƣờng công tác Ngoại giao văn hoá tạo động lực mới cho ngoại giao Việt Nam trong tiến trình Hội nhập quốc tế. Ba là, các sách, giáo trình, ấn phẩm về công tác lƣu trữ: giáo trình “Lý luận và thực tiễn công tác lƣu trữ”; sách chỉ dẫn các phông lƣu trữ bảo quản tại Trung tâm Lƣu trữ Quốc gia I, II, III; sách giới thiệu tài liệu lƣu trữ theo chuyên đề nhƣ: “Nguồn tài liệu lƣu trữ ảnh về cuộc kháng chiến chống Pháp”, “Lịch sử Hà Nội qua tài liệu lƣu trữ”... Bốn là, các sách và giáo trình và công trình nghiên cứu, các tài liệu đã đƣợc công bố, các bài đăng tải trên các báo, tạp chí viết về văn hoá đối ngoại nhƣ: cuốn “Một số vấn đề về quản lý nhà nƣớc kinh tế, văn hoá, giáo dục trên thế giới và Việt Nam” của PGS.TS Lê Thanh Bình hay cuốn “Ngoại giao và công tác ngoại giao” của PGS. TS Vũ Dƣơng Huân (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, năm 2009) giúp chúng tôi cái nhìn tổng quát và toàn diện về công tác văn hoá đối ngoại, các hoạt động phối hợp của các ban ngành có liên quan trong việc phát triển và nâng cao nhận thức cũng nhƣ hiệu quả của hoạt động văn hoá đối ngoại. Năm là, các loại tài liệu lƣu trữ hiện đang bảo quản tại các cơ quan lƣu trữ và các cơ quan tổ chức nhƣ: các trung tâm lƣu trữ quốc gia, Đài Truyền hình Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam, Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch, Bộ Ngoại giao... Sáu là, các công trình nghiên cứu khoa học (đề tài nghiên cứu khoa học, khoá luận, luận văn), kỷ yếu hội nghị, hội thảo về khai thác, sử dụng tài liệu lƣu trữ. 9 Bảy là, các bài viết trên báo, tạp chí, internet về giá trị của tài liệu lƣu trữ và khai thác, sử dụng tài liệu lƣu trữ trong các hoạt động văn hoá và văn hoá đối ngoại. Tám là, các bài công bố, giới thiệu về tài liệu lƣu trữ, giá trị của tài liệu lƣu trữ đăng trên Tạp chí Văn thƣ, Lƣu trữ Việt Nam, Tạp chí Dấu ấn thời gian, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Tạp chí Xƣa và Nay, Báo Nhân dân, Báo An ninh thế giới,… Chín là, các trang thông tin điện tử của: Cục Văn thƣ và Lƣu trữ Nhà nƣớc; Bộ Ngoại giao, Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch, Lƣu trữ Quốc gia một số nƣớc: Mỹ, Anh, Singapore, Malaysia, Austraylia... 7. Phƣơng pháp nghiên cứu Ngoài các phƣơng pháp cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, chúng tôi tiến hành nghiên cứu Đề tài với các phƣơng pháp cụ thể sau: Với mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu đã đề ra, chúng tôi xác định nguồn, nội dung tài liệu tham khảo có liên quan đến Đề tài cần thu thập và tiến hành xử lý tài liệu. Thông qua việc phân loại, nghiên cứu tài liệu tham khảo theo từng vấn đề và lựa chọn những nội dung có giá trị trong tài liệu tham khảo để đƣa vào Đề tài bằng phƣơng pháp đối chiếu, so sánh. Phƣơng pháp phân tích - tổng hợp đƣợc sử dụng trong cả ba chƣơng của Đề tài, cụ thể là: Tại Chƣơng 1, phƣơng pháp này đƣợc sử dụng để phân tích khái niệm tài liệu lƣu trữ, nội dung, loại hình và giá trị của tài liệu lƣu trữ; đánh giá thực tiễn hoạt động văn hoá đối ngoại để từ đó thấy đƣợc mối quan hệ giữa khai thác, sử dụng tài liệu lƣu trữ và việc nâng cao chất lƣợng của hoạt động văn hoá đối ngoại. Tại Chƣơng 2, trên cơ sở tổng hợp kết quả Chƣơng 1 và phân tích khả năng, nhu cầu khai thác, sử dụng tài liệu lƣu trữ để đƣa ra các nguyên tắc, yêu cầu, hình thức tổ chức khai thác, sử dụng tài liệu lƣu trữ phục vụ hoạt động văn hoá đối ngoại. Chƣơng 3 phân tích vai trò, vị trí, các công việc việc cần triển khai của các cơ quan lƣu trữ, cơ quan văn hoá, ngoại giao và các cơ quan khác và đề xuất các biện pháp khai thác, sử dụng tài liệu lƣu trữ nhằm phục vụ hoạt động văn hoá đối ngoại. 10 Phƣơng pháp khảo sát: Để khảo chứng các hình thức triển khai văn hoá đối ngoại và khai thác, sử dụng tài liệu lƣu trữ phục vụ hoạt động văn hoá đối ngoại, chúng tôi đã khảo sát, tìm hiểu thực tế tại các triển lãm, trƣng bày tài liệu lƣu trữ để có thể đánh giá thực tiễn một cách khách quan. 8. Đóng góp của Đề tài Phạm vi của đề tài mang tính tổng hợp lý luận và thực tiễn trong việc khai thác tài liệu lƣu trữ phục vụ hoạt động văn hoá đối ngoại. Do vậy, Đề tài đƣợc nghiên cứu và triển khai sẽ có đóng góp về lý luận và thực tiễn nhƣ sau: Về lý luận: trên cơ sở vận dụng các nguyên tắc, phƣơng pháp luận chung của công tác lƣu trữ, chúng tôi nghiên cứu một số vấn đề mang tính lý luận về khai thác, sử dụng tài liệu lƣu trữ phục vụ hoạt động văn hoá đối ngoại nhƣ: nguyên tắc, yêu cầu về tài liệu lƣu trữ, các hình thức khai thác, sử dụng tài liệu lƣu trữ; các nguyên tắc trong việc chỉ dẫn, chú thích và biên dịch tài liệu lƣu trữ... với hy vọng rằng đó sẽ là cơ sở bƣớc đầu để tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống lý luận này. Về thực tiễn: đề xuất các giải pháp mang tính khoa học, tính thực tiễn để có thể xây dựng một đề án về khai thác, sử dụng tài liệu lƣu trữ trong hoạt động văn hoá đối ngoại với sự phối hợp giữa các cơ quan lƣu trữ, văn hoá và ngoại giao, đồng thời ban hành văn bản chỉ đạo, hƣớng dẫn,bổ sung cơ sở vật chất, ứng dụng khoa học công nghệ; đa dạng hoá các hình thức tổ chức khai thác, sử dụng tài liệu lƣu trữ phục vụ hoạt động văn hoá đối ngoại, qua đó góp phần nâng cao vai trò, vị trí của công tác lƣu trữ. 9. Bố cục của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, phần nội dung của Luận văn đƣợc trình bày trong 3 chƣơng: CHƢƠNG 1. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC KHAI THÁC, SỬ DỤNG TÀI LIỆU LƢU TRỮ PHỤC VỤ HOẠT ĐỘNG VĂN HOÁ ĐỐI NGOẠI TRONG GIAI ĐOẠN ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở chƣơng này, Đề tài làm sáng tỏ các vấn đề về: giá trị của tài liệu lƣu trữ trong việc giới thiệu đất nƣớc, con ngƣời Việt Nam với bạn bè quốc tế; khái quát về 11 loại hình, số lƣợng và nội dung tài liệu lƣu trữ có thể phục vụ hoạt động văn hoá đối ngoại đang bảo quản tại các cơ quan lƣu trữ và các cơ quan, tổ chức khác; thực tiễn triển khai hoạt động văn hoá đối ngoại trong thời gian qua của các cơ quan, tổ chức; sự cần thiết phải khai thác tài liệu lƣu trữ phục vụ cho hoạt động văn hoá đối ngoại. Qua đó, có thể khẳng định rằng, việc khai thác, sử dụng tài liệu lƣu trữ phục vụ hoạt động văn hoá đối ngoại trong giai đoạn đổi mới và hội nhập quốc tế là vấn đề cần thiết phải tiến hành triển khai nhằm hƣớng tới các mục đích lâu dài của tƣơng lai. CHƢƠNG 2. TÌNH HÌNH KHAI THÁC, SỬ DỤNG TÀI LIỆU LƢU TRỮ PHỤC VỤ HOẠT ĐỘNG VĂN HOÁ ĐỐI NGOẠI TRONG GIAI ĐOẠN ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ Trong chƣơng này trình bày về việc nghiên cứu tài liệu và các hình thức khai thác, sử dụng tài liệu lƣu trữ, các yêu cầu, phƣơng pháp khai thác, sử dụng tài liệu lƣu trữ phục vụ hoạt động văn hoá đối ngoại đƣợc phân tích, đánh giá để có thể đề xuất các giải pháp khả thi trong việc tổ chức khai thác, sử dụng tài liệu lƣu trữ phục vụ hoạt động văn hoá đối ngoại trong giai đoạn đổi mới và hội nhập quốc tế. CHƢƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP TỔ CHỨC KHAI THÁC, SỬ DỤNG TÀI LIỆU LƢU TRỮ PHỤC VỤ HOẠT ĐỘNG VĂN HOÁ ĐỐI NGOẠI TRONG GIAI ĐOẠN ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ Các giải pháp đề xuất đƣợc tập trung phân tích để thực hiện thành công việc khai thác, sử dụng tài liệu lƣu trữ phục vụ hoạt động văn hoá đối ngoại trong giai đoạn đổi mới và hội nhập quốc tế. Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lời cảm ơn trân trọng nhất tới PGS. TS Đào Xuân Chúc - ngƣời thầy hƣớng dẫn và đóng góp những ý kiến quý báu để tôi hoàn thành Đề tài. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô giáo Khoa Lƣu trữ học và Quản trị văn phòng; lãnh đạo và các đồng nghiệp tại Cục Văn thƣ và Lƣu trữ Nhà nƣớc; các cán bộ các trung tâm lƣu trữ quốc gia, Đài Truyền hình Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam, Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch, và các cơ quan, tổ chức nơi tôi 12 đến khai thác tài liệu đã ủng hộ, giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành Đề tài. Hy vọng rằng, chúng tôi sẽ tiếp tục nhận đƣợc sự quan tâm, giúp đỡ của PGS. TS Đào Xuân Chúc và các thầy cô giáo, đồng nghiệp, bạn bè. Mặc dù có nhiều cố gắng, Đề tài cũng không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận đƣợc những ý kiến đóng góp quý báu của các thầy cô giáo, đồng nghiệp và tất cả những ai quan tâm để Đề tài của chúng tôi đƣợc hoàn thiện hơn./. Hà Nội, ngày tháng 12 năm 2010 Nguyễn Anh Thƣ 13 CHƢƠNG 1 SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC KHAI THÁC, SỬ DỤNG TÀI LIỆU LƢU TRỮ PHỤC VỤ HOẠT ĐỘNG VĂN HOÁ ĐỐI NGOẠI TRONG GIAI ĐOẠN ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ 1.1. Khái niệm về tài liệu lƣu trữ, văn hoá, văn hoá đối ngoại và ngoại giao văn hoá 1.1.1. Khái niệm về tài liệu lƣu trữ Hiện nay, trên thế giới chƣa có sự giải thích thống nhất hoàn toàn về khái niệm “tài liệu lƣu trữ”. Nhiều nƣớc chỉ giới hạn tài liệu lƣu trữ là các sản phẩm tài liệu đƣợc hình thành trong hoạt động của các cơ quan hoặc cá nhân nhƣng có những nƣớc xác định tài liệu lƣu trữ bao gồm cả ấn phẩm, tác phẩm hội họa…, có thể kể đến nhƣ: Luật Lƣu trữ Pháp định nghĩa “tài liệu lƣu trữ là toàn bộ tài liệu không phụ thuộc vào bất kỳ thời gian nào, hình thức, vật mang tin và tình trạng vật lý nhƣ thế nào, đƣợc sinh ra hay nhận đƣợc từ bất kỳ cá nhân hay tập thể nào, từ tất cả các cơ quan hay tổ chức công hay tƣ trong quá trình hoạt động”; luật pháp lƣu trữ tại Canađa cho rằng “tài liệu lƣu trữ là toàn bộ các yếu tố thông tin nhƣ công văn, thƣ từ trao đổi, thông báo, sách, sơ đồ, bản đổ, bản vẽ thiết kế, biểu đồ, tranh vẽ, ảnh, phim, vi phim, các bản sao từ tính hoặc máy tính, hoặc tất cả các bản sao chép có chứa yếu tố thông tin” hoặc luật pháp lƣu trữ tại Inđônêsia khẳng định “tài liệu lƣu trữ là tất cả các tài liệu dƣới bất kỳ hình thức nào, kể cả tài liệu riêng lẻ hoặc nhóm tài liệu đƣợc các tổ chức nhà nƣớc hoặc các cơ quan của Chính phủ lập ra và nhận đƣợc trong quá trình hoạt động, cũng nhƣ do các cơ quan tƣ nhân hoặc các cá nhân lập ra hoặc nhận đƣợc trong quá trình thực hiện các hoạt động vì lợi ích quốc gia”[05]. Tại Việt Nam, trong cuốn “Từ điển Lƣu trữ Việt Nam” giải thích “tài liệu lƣu trữ là những tài liệu có giá trị đƣợc lựa chọn từ trong toàn bộ khối tài liệu hình thành trong hoạt động của các cơ quan, đoàn thể, xí nghiệp và cá nhân đƣợc bảo quản cố định trong các lƣu trữ để khai thác phục vụ các mục đích chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học, lịch sử… của toàn xã hội” nhƣng chƣa có định nghĩa cụ thể về “tài liệu lƣu trữ” trong các văn bản mang tính quy phạm. Điều 1 của Pháp lệnh Lƣu 14 trữ quốc gia năm 2001 đƣa ra khái niệm “tài liệu lƣu trữ quốc gia” là "tài liệu có giá trị về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, ngoại giao, văn hoá, giáo dục, khoa học và công nghệ đƣợc hình thành trong các thời kỳ lịch sử của dân tộc Việt Nam, qua hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và các nhân vật lịch sử, tiêu biểu phục vụ việc nghiên cứu lịch sử, khoa học và hoạt động thực tiễn. Tài liệu lƣu trữ quốc gia phải là bản chính, bản gốc của tài liệu đƣợc ghi trên giấy, phim, ảnh, bằng hình, đĩa hình, bằng âm thanh, đĩa âm thanh hoặc bằng các vật mang tin khác; trong trƣờng hợp không còn bản chính, bản gốc thì đƣợc thay thế bằng bản sao hợp pháp” [55, 1]. Nhƣ vậy, tài liệu lƣu trữ chứa đựng các thông tin trên các vật mang tin khác nhau, có thể là tài liệu của các cơ quan nhà nƣớc hoặc cũng có thể tài liệu có xuất xứ từ các cá nhân tiêu biểu, không phân biệt cơ quan bảo quản và lƣu giữ, có giá trị đối với quốc gia và dân tộc. Có thể nhận thấy rằng, tài liệu lƣu trữ có các đặc điểm và tính chất nhƣ sau: Một là, tài liệu lƣu trữ có nội dung phong phú, hình thức đa dạng, có thể đƣợc thể hiện trên các vật mang tin khác nhau nhƣ: giấy, phim, ảnh, bằng hình, đĩa hình, bằng âm thanh, đĩa âm thanh hoặc gỗ, lụa, đá, lá cây… Nhƣ vậy, tài liệu lƣu trữ có thể là văn bản hành chính, một bài hát, một bức tranh, một bức ảnh, một bản vẽ, một tấm bƣu thiếp, một bộ phim, một bản khắc gỗ… phản ánh các vấn đề về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, ngoại giao, văn hoá, giáo dục, khoa học và công nghệ… Hai là, tài liệu lƣu trữ là bản gốc, bản chính của tài liệu và thƣờng có mối liên hệ trực tiếp với sự kiện, hiện tƣợng mà nó phản ánh, do vậy không chỉ nội dung mà cả hình thức của tài liệu lƣu trữ cũng phản ánh thời điểm sản sinh ra tài liệu. Chính vì vậy, tài liệu lƣu trữ có giá trị pháp lý, đảm bảo tính chân thực, không giả mạo. Ba là, tài liệu lƣu trữ là sản phẩm phản ánh trực tiếp hoạt động của các cơ quan, tổ chức và cá nhân một cách khách quan, trung thực, do đó, tự bản thân tài liệu lƣu trữ có tính thuyết phục và tin tƣởng cao. 15 Có thể khẳng định rằng, tại Việt Nam cũng nhƣ nhiều nƣớc trên thế giới, tài liệu lƣu trữ đƣợc đánh giá là nguồn thông tin đa dạng, phong phú, chân thực và tin cậy đƣợc khai thác, sử dụng để phục vụ các mục đích khác nhau của xã hội trong đó có công tác văn hoá, công tác đối ngoại và các hoạt động văn hoá đối ngoại. 1.1.2. Khái niệm về văn hoá, văn hoá đối ngoại và ngoại giao văn hoá a) Khái niệm về văn hoá Khái niệm "văn hoá" hiện nay đƣợc định nghĩa rất khác nhau theo từng thời điểm lịch sử, từng lĩnh vực, từng mục đích khác nhau, bởi những học giả khác nhau. Giáo sƣ Vũ Khiêu cho rằng việc khái niệm văn hoá vẫn tiếp tục đƣợc bàn cãi trên thế giới nghĩa là văn hoá đã thành một khái niệm có tính chất quan trọng ngang với kinh tế và chính trị. Văn hóa đã có mặt ở khắp mọi nơi, thâm nhập mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và thực sự văn hóa đã trở thành một nhu cầu cấp thiết gắn liền với cuộc sống mỗi ngƣời, mỗi dân tộc và cả loài ngƣời [04, 53]. Nhằm đƣa ra một định nghĩa mới về văn hóa, tại lễ phát động Thập kỉ phát triển văn hóa ngày 21/1/1998, Tổng Giám đốc UNESCO F. Mayor nói: Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi mặt của cuộc sống con ngƣời đã diễn ra trong quá khứ và cũng đang diễn ra trong hiện tại; qua hàng bao thế kỷ văn hóa đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó, từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình [38,11]. Trong tuyên bố toàn cầu về đa dạng văn hoá tháng 11 năm 2001, UNESCO đã nhấn mạnh "Văn hoá là một tổng hợp các đặc điểm về tinh thần, thể chất, tri thức và tình cảm đặc trƣng cho một xã hội hoặc một nhóm xã hội, bao hàm không chỉ nghệ thuật và văn học mà còn cả lối sống, cách thức chung sống với nhau, các hệ thống giá trị, truyền thống và tín ngƣỡng. Những đặc trƣng của các yếu tố cấu thành đó giúp ta phân biệt đƣợc một xã hội (hoặc một nhóm xã hội) với các xã hội (hoặc nhóm xã hội) khác"[38,11]. Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng dân tộc và nhà văn hóa lớn của thế giới đã phát biểu: Vì lẽ sinh tồn cũng nhƣ mục đích cuộc sống, loài ngƣời mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, 16 nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phƣơng thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó, tức văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phƣơng thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài ngƣời đã sản sinh ra nhằm thích ứng nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn. Quan niệm của Hồ Chí Minh toát lên một cái nhìn vừa toàn diện, vừa sâu sắc về nguồn gốc lịch sử của văn hóa, về phạm vi rộng lớn của văn hóa, về mặt biểu hiện của văn hóa trong lối sống và toàn bộ sinh hoạt của con ngƣời. Với tầm nhìn rộng lớn ấy, cách đây hơn 50 năm, Ngƣời đã nêu lên một điều mà trong những năm gần đây mới đặt ra và nhấn mạnh. Đó là mối quan hệ mật thiết giữa văn hóa với chính trị và kinh tế. Văn hóa không chỉ là sản phẩm thụ động của kinh tế và chính trị, mà văn hóa còn tác động ngƣợc trở lại một cách mạnh mẽ vào kinh tế và chính trị. Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng mọi hoạt động văn hóa không thể đứng ngoài mà phải nằm trong kinh tế và chính trị. Nếu văn hóa không thâm nhập vào kinh tế, nếu không đƣa đƣợc khoa học kỹ thuật vào lực lƣợng sản xuất, không phát huy đƣợc thành tựu cao nhất của văn hóa trong quan hệ sản xuất, trong nhiệm vụ quản lý kinh tế và xã hội, thì kinh tế không thể phát triển đƣợc. Nếu trong lĩnh vực chính trị, việc quản lý của bộ máy cầm quyền cũng nhƣ cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân không có ánh sáng của văn hóa soi đƣờng thì sao có thể thành công đƣợc [04,5456]. b) Khái niệm về văn hoá đối ngoại Bƣớc vào thiên niên kỷ 21, UNESCO - Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên Hợp quốc - đã đề ra tiêu chí hành động về văn hoá toàn cầu cho thập kỷ đầu tiên là “đối thoại với các nền văn minh”. Do vậy, trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đa phƣơng, việc sử dụng văn hoá phục vụ mục tiêu đối ngoại dẫn đến sự ra đời của văn hoá đối ngoại. Theo Ông Phạm Sanh Châu, Vụ trƣởng Vụ Văn hoá Đối ngoại và UNESCO, Bộ Ngoại giao, “văn hoá đối ngoại là tất cả các hoạt động giao lƣu văn hoá của một quốc gia, dân tộc có yếu tố bên ngoài nhằm đƣa văn hoá của quốc gia giới thiệu ra bên ngoài để nâng cao hình ảnh, sự hiểu biết và tiếp thu tinh hoá bên ngoài để làm giàu lại văn hoá quốc gia” [04, 17]. 17 Ông Nguyễn Mạnh Cầm, Nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, Nguyên Phó Thủ tƣớng Chính phủ, Nguyên Bộ trƣởng Bộ Ngoại giao, cho rằng “văn hoá đối ngoại là sự giao lƣu, trao đổi quốc tế của tất cả các lĩnh vực văn hoá từ văn học, nghệ thuật đến ngôn ngữ…với phạm vi rất rộng. Nó có thể bao gồm cả hoạt động kinh doanh, buôn bán các sản phẩm văn hoá. Trong bối cảnh hiện nay, văn hoá đối ngoại có những mặt cạnh tranh gay gắt; những quốc gia không đủ năng lực làm chủ công nghệ mới trong điều kiện cách mạng khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ và cách mạng thông tin bùng nổ nhƣ hiện nay sẽ bị đẩy ra bên lề phát triển”[04, 30]. Nguyên Bộ trƣởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Duy Niên, trong một bài phỏng vấn đã khẳng định “cùng với kinh tế đối ngoại, chính trị đối ngoại, văn hoá đối ngoại tạo thành kiềng ba chân vững chãi cho đất nƣớc vƣơn ra hoà nhập với thế giới” [38,15]. Nhƣ vậy, văn hoá đối ngoại, vừa mang đặc tính của lĩnh vực văn hoá, vừa mang đặc tính của lĩnh vực đối ngoại. Nếu xét trên phạm trù ngôn ngữ học thì từ “đối ngoại” bổ trợ cho từ “văn hoá”, nghĩa là dùng văn hoá để phục vụ mục đích đối ngoại hoặc sử dụng văn hoá nhằm hƣớng tới công chúng là ngƣời nƣớc ngoài ở trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam cũng nhƣ ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài, đối lập với thuật ngữ “văn hoá đối nội” nghĩa là văn hoá phục vụ cho các đối tƣợng ngƣời Việt Nam ở trong nƣớc. Có thể khái quát rằng văn hoá đối ngoại là sự giao lƣu, trao đổi với quốc tế của một quốc gia về tất cả các lĩnh vực văn hoá nhƣ: văn hoá, nghệ thuật, ngôn ngữ… với phạm vi rất rộng nhằm giới thiệu hình ảnh đất nƣớc, con ngƣời và văn hoá ra bên ngoài để nâng cao vị thế, tăng cƣờng hiểu biết với quốc tế, đồng thời qua đó, nâng cao ý thức dân tộc của ngƣời dân một quốc gia ở trong và ngoài nƣớc [34, 15]. c) Khái niệm về ngoại giao văn hoá Cho đến thời điểm hiện nay vẫn chƣa có một định nghĩa chung đƣợc coi là chuẩn mực cho khái niệm ngoại giao văn hoá. Nhƣng "ngoại giao văn hoá" đã, đang và sẽ ngày càng nhận đƣợc nhiều sự quan tâm của các học giả, các nhà hoạch định chính sách cũng nhƣ các nhà lãnh đạo của các quốc gia trên toàn thế giới. 18 Theo giáo sƣ Joseph S.Nye (Hoa Kỳ), ngoại giao văn hoá là "một ví dụ hàng đầu về "sức mạnh mềm" hoặc khả năng thuyết phục thông qua văn hoá, giá trị và những tƣ tƣởng trái với "sức mạnh cứng", tức là chinh phục hoặc cƣỡng ép thông qua sức mạnh quân sự [38,17]. Tạp chí "Ngoại giao văn hoá" (Cultural Diplomacy) định nghĩa "ngoại giao văn hoá là một lĩnh vực ngoại giao liên quan đến việc thiết lập, phát triển và duy trì các mối quan hệ với các quốc gia khác thông qua văn hoá, nghệ thuật và giáo dục. Nó cũng là một quá trình hoạt động đối ngoại chủ động, trong đó có các thiết chế, hệ giá trị và bản sắc văn hoá độc đáo của một dân tộc đƣợc quảng bá ở cấp độ song phƣơng và đa phƣơng" [38,17]. Tại Việt Nam, khi Hội nghị Ngoại giao lần thứ 25 (năm 2006) đã thống nhất và đi vào triển khai đồng bộ chính sách ngoại giao Việt Nam dựa trên ba trụ cột chính là Ngoại giao Chính trị, Ngoại giao Kinh tế và Ngoại giao Văn hóa. Trong đó, Ngoại giao Văn hóa đóng vai trò là nền tảng tinh thần, biện pháp, nội dung và mục tiêu của chính sách đối ngoại Việt Nam, hỗ trợ cho Ngoại giao chính trị và Ngoại giao kinh tế để tạo thành một tổng thể chính sách, phát huy tốt nhất sức mạnh của dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, khái niệm ngoại giao văn hoá đƣợc đề cập và nghiên cứu. Đến nay mỗi học giả đều đƣa ra những định nghĩa riêng của mình về khái niệm ngoại giao văn hoá, nhƣng các điểm chung nhất mà các quan điểm hƣớng đến là: ngoại giao văn hoá là một trong những trụ cột của ngoại giao Việt Nam, thông qua các công cụ văn hoá để thực hiện một cách hiệu quả hơn chính sách đối ngoại của đất nƣớc và đảm bảo lợi ích quốc gia, quảng bá hình ảnh, đất nƣớc, con ngƣời Việt Nam ra thế giới, với bạn bè quốc tế. Ông Phạm Sanh Châu đã định nghĩa khái quát về Ngoại giao Văn hoá nhƣ sau: "Ngoại giao Văn hoá là một hoạt động đối ngoại, đƣợc nhà nƣớc tổ chức, ủng hộ hoặc bảo trợ. Hoạt động này đƣợc triển khai trong một khoảng thời gian nhất định, nhằm đạt đƣợc những mục tiêu chính trị, đối ngoại đƣợc xác định, bằng các hình thức văn hóa nhƣ: nghệ thuật, lịch sử, tƣ tƣởng, truyền thống, ẩm thực, phim, ấn phẩm, văn học... Đối tƣợng hƣớng tới của Ngoại giao Văn hóa là Chính phủ và nhân dân các quốc gia khác. Không nhằm lợi nhuận, Ngoại giao Văn hóa quảng bá 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan