Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khoa học xã hội Triết học Khái lược lịch sử triết học phương tây ...

Tài liệu Khái lược lịch sử triết học phương tây

.DOC
19
290
75

Mô tả:

KHÁI LƯỢC LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY I. Triết học Hy Lạp cổ đại "Từ các hình thức muôn hình muôn vẻ của triết học Hy Lạp, đã có mầm mống và đang nảy nở hầu hết tất cả các loại thế giới quan sau này" (C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hànội, 1994. t.20, tr.491). Một số nét chính về triết học Hy Lạp cổ đại - Những tư tưởng triết học ra đời ở HyLạp từ khi chế độ chiếm hữu nô lệ ra đời và phát triển mạnh ở quốc gia này. Sự ra đời rất sớm của chủ nghĩa duy vật thô sơ và phép biện chứng tự phát. - Những tư tưởng đó phản ánh các mâu thuẫn gay gắt giữa tầng lớp chủ nô quý tộc và tầng lớp chủ nô dân chủ: Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm biểu hiện qua cuộc đấu tranh giữa hai đường lối triết học: duy vật của Đê mô crit và duy tâm của Pla tôn. - Những tư tưởng đó có được cũng nhờ sự phát triển mạnh mẽ của các khoa học tự nhiên lúc bấy giờ: Sự gắn bó hữu cơ giữa triết học với sự phát triển của khoa học tự nhiên. - Về mặt nhận thức luận, triết học Hy Lạp theo khuynh hướng của chủ nghĩa duy giác. I. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của triết học Hy Lạp cổ đại. 1. Tiền đề kinh tế-xã hội và nhận thức. a. Tiền đề kinh tế-xã hội. - Hy Lạp cổ đại là một vùng đất rộng lớn bao gồm miền Nam bán đảo Ban căng thuộc châu Âu, nhiều hòn đảo ở biển Êgie và cả miền ven biển của bán đảo Tiểu á. Điều kiện địa lý thuận lợi giúp các ngành nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp Hy Lạp cổ đại phát triển rất sớm. - Xã hội Hy Lạp cổ đại tồn tại và phát triển trong sáu thế kỷ (từ thế kỷ VIII đến thế kỷ III tr.c.n), còn từ thế kỷ XV đến thế kỷ IX tr.c.n, chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan rã và hình thành chế độ chiếm hữu nô lệ. Đây là thời kỳ xẩy ra nhiều biến động lớn về kinh tế và thể chế xã hội, những biến động này được ghi lại trong hai tập thơ nổi tiếng là I li át và Ô đi xê của nhà thơ Hô me. - Các thành thị ra đời và tồn tại như những quốc gia độc lập (có đến 300 quốc gia). Đến thế kỷ VI-IV tr.c.n xuất hiện hai trung tâm kinh tế-chính trị điển hình là thành bang Aten (miền trung Hy Lạp) và thành bang Spác (vùng bình nguyên Ia cô ni). Cuộc chiến tranh giành bá chủ Hy Lạp giữa hai thành bang này trong nhiều năm làm Hy Lạp suy yếu. Đến thế kỷ II tr.c.n, Hy Lạp bị La mã chinh phục. b. Khoa học và triết học. - Một số ngành khoa học cụ thể ở Hy Lạp cổ đại như toán học, vật lý học, thiên văn học, thuỷ văn học v.v. bắt đầu phát triển. Những khoa học này ra đời đòi hỏi sự khái quát của triết học. Tuy vậy, tư duy triết học thời kỳ này chưa đạt tới mức phát triển cao, tri thức triết học và tri thức khoa học cụ thể thường hoà trộn vào nhau, các nhà triết học đồng thời là nhà toán học, vật lý, thiên văn học v.v. Như vậy, ngay từ khi ra đời, triết học Hy Lạp đã gắn với nhu cầu thực tiễn và gắn liền với khoa học và được gọi là "khoa học của mọi khoa học". - Sự giao lưu giữa Hy Lạp với các nước Phương Đông như Ai Cập, Babilon, Ả rập v.v. làm cho các tư tưởng triết học Hy Lạp cổ đại chịu nhiều ảnh hưởng của nhiều nền văn minh. Những mầm mống của quan niệm duy vật và vô thần của các nhà triết học Ai Cập và Babilon đã có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại. Có thể nói, triết học Phương Đông, trước hết là triết học Ai Cập, Babilon là một trong những tiền đề của triết học Hy Lạp cổ đại. - Triết học Hy Lạp cổ đại xuất hiện và phát triển vào thế kỷ thứ V-IV tr.c.n, cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp giữa phái dân chủ thuộc tầng lớp tự do (bao gồm cả chủ nô dân chủ tiến bộ) của thành bang Aten với phái chủ nô quí tộc phản động của thành bang Spác. c. Những đặc điểm chính của triết học Hy Lạp cổ đại. - Triết học Hy lạp cổ đại phát triển rực rỡ vào thế kỷ thứ VI tr.c.n. Những nhà triết học duy vật đầu tiên là những người thuộc trường phái Milê (Talét- 624-547 tr.c.n, Ana xi măng610-546 tr.c.n, Ana xi men- 588-525 tr.c.n) Các nhà duy vật thuộc trường phái này, tuy mỗi người lấy một thứ cơ sở đầu tiên của mọi tồn tại, như nước, Apâyrôn (nguyên thể vô định), không khí, nhưng họ đều có chung quan điểm duy vật, là những nhà triết học tiến bộ, dân chủ, đại diện cho quyền lợi cho tầng lớp thương nhân trong giai cấp chủ nô quí tộc. - Cơ sở kinh tế của triết học Hy Lạp cổ đại là quyền sở hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất và người nô lệ. Xã hội phân chia thành giai cấp, đã có sự phân công giữa lao động trí óc và lao động chân tay. Xuất hiện tri thức triết học và khoa học, phá vỡ ý thức hệ thần thoại và tôn giáo nguyên thuỷ. Nhu cầu thực tiễn của nền sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và hàng hải quyết định sự phát sinh và phát triển của những tri thức khoa học tự nhiên được trình bày trong hệ thống triết học - tự nhiên của các nhà triết học cổ đại. - Nội dung cơ bản của triết học Hy lạp cổ đại là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật Đê mô crít, Ê pi quya (cơ sở lý luận cho hoạt động của tầng lớp tiên tiến trong giai cấp chủ nô) và chủ nghĩa duy tâm của Xô crát, Pla tôn đại diện cho phái chủ nô quí tộc. Kết luận. a. Nét nổi bật của triết học Hy Lạp cổ đại là nền triết học đó đã đặt ra và giải quyết hầu hết các vấn đề về bản thể luận và nhận thức luận triết học- là những vấn đề của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức- những vấn đề căn bản mà sau này các học thuyết triết học sẽ từng bước giải quyết theo nội dung của thời đại mình. Đó là nền triết học bao gồm mầm mống của tất cả các thế giới quan sau này. b. Sự phân chia và đối lập giữa các trường phái triết học, duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình, vô thần và tôn giáo là nét nổi bật của quá trình phát sinh, phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại, trong đó, điển hình là cuộc đấu tranh giữa hai đường lối triết học duy vật của Đê mô crít và triết học duy tâm của Pla tôn. c. Tư tưởng triết học Tây Âu thời Trung cổ 1. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của triết học Tây Âu thời Trung cổ. a. Hoàn cảnh ra đời. - Sự tan rã của chế độ nô lệ và sự ra đời của chế độ phong kiến. Xã hội Tây Âu vào thế kỷ II đến thế kỷ V là xã hội đánh dấu sự tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ và sự ra đời của chế độ phong kiến. Vào thế kỷ thứ V, những cuộc nổi dậy của nô lệ và những cuộc đấu tranh giai cấp bên trong cùng với sự tiến công của những bộ tộc bên ngoài đã dẫn đến sự sụp đổ của đế quốc La Mã phương Tây (đã tồn tại từ thế kỷ II tr.c.n đến thế kỷ V). Sự kiện đó dẫn đến kết quả chấm dứt hình thái xã hội chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến Tây Âu ra đời. Trong xã hội phong kiến, nền kinh tế tự nhiên, tự túc tự cấp thống trị, sản phẩm làm ra chỉ nhằm thoả mãn nhu cầu của các công xã, thái ấp của bọn địa chủ. Điều hành nền sản xuất xã hội chủ yếu là những người tiểu nông lệ thuộc vào địa chủ phong kiến. Vì vậy, trong thời kỳ đầu của thời đại phong kiến đã diễn ra sự suy đồi không chỉ về kinh tế mà còn về toàn bộ các mặt của đời sống xã hội. - Xuất hiện tổ chức giáo hội nhà thờ Thiên chúa giáo và ảnh hưởng của nó tới toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của xã hội thời kỳ này. Về mặt tinh thần, thời kỳ Trung cổ ở Tây Âu lúc đầu Cơ đốc giáo, về sau là Thiên chúa giáo là hệ tư tưởng thống trị. Những giáo lý tôn giáo trở thành những nguyên lý về chính trị, kinh thánh có vai trò như luật lệ trong mọi cuộc xét xử. Giáo hội độc quyền trong lĩnh vực văn hoá, nhà trường hoàn toàn nằm trong tay các thầy tu, triết học được đem ra phục vụ cho tôn giáo và giáo hội. Có thể nói tín điều nhà thờ là điểm xuất phát của mọi tư duy, thế giới quan thần học bao trùm lên triết học, luật học và chính trị. Điều đó giải thích tại sao giai cấp nông dân hết sức đông đảo nhưng "tối tăm về trí tuệ" (V.I.Lênin) và bị tước hết quyền hành. b. Đặc điểm của triết học. - Khuynh hướng phát triển của chủ nghĩa kinh viện trong triết học. Đặc điểm của khuynh hướng triết học thời kỳ này là sự phát triển của chủ nghĩa kinh viện. Vấn đề quan hệ giữa niềm tin tôn giáo và trí tuệ lý trí, giữa cái chung với cái riêng (giữa khái niệm và các sự vật đơn lẻ) là những vấn đề trung tâm của triết học. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy thực và chủ nghĩa duy danh xung quanh việc giải quyết những vấn đề trung tâm của triết học là biểu hiện đặc thù của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trong thời kỳ này. - Việc nhận thức mối quan hệ giữa niềm tin tôn giáo và và lý trí là vấn đề trung tâm của triết học thời kỳ này. - Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy thực và chủ nghĩa duy danh xung quanh việc giải quyết mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng là biểu hiện đặc thù của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm thời kỳ này. Sau thời kỳ sụp đổ, xã hội Tây Âu bước đầu đã có sự phát triển cả về văn hoá vật chất và tinh thần. Những cuộc Thập tự chinh về phía Đông đã giúp cho phương Tây tiếp thu được nhiều điều của nền văn hoá phương Đông. Thiên văn học, toán học, cơ học, hoá học, vật lý học hình thành và phát triển khá mạnh vào thế kỷ XIII với các đại biểu tiêu biểu là L.Phi-bô-mát-chi, A.Bôn-stét, R.Bê-cơn v.v... Tuy vậy, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã đánh giá cao triết học Hy Lạp cổ đại "Từ các hình thức muôn hình muôn vẻ của triết học Hy Lạp, đã có mầm mống và đang nảy nở hầu hết tất cả các loại thế giới quan sau này" Triết học thời kỳ Phục hưng ở Tây Âu 1. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của triết học Tây Âu thời Phục hưng. Thế kỷ XV-XVI được gọi là thời kỳ Phục hưng với ý nghĩa là thời kỳ có sự khôi phục lại nền văn hoá cổ đại, chuẩn bị cho nền văn hoá mới- văn hoá tư sản sơ khai. a. Hoàn cảnh kinh tế, xã hội. - Đây là thời kỳ quá độ từ xã hội phong kiến sang xã hội tư bản, các quan hệ tư bản chủ nghĩa đã nảy sinh trong lòng xã hội phong kiến. Việc tìm ra châu Mỹ và các đường biển nhờ áp dụng địa bàn, nhờ những cải tiến trong ngành chế tạo tàu thuỷ, nhờ địa lý và thiên văn học v.v...đã tạo điều kiện cho nền sản xuất phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa: hoạt động thương mại, thị trường trao đổi hàng hoá giữa các nước được mở rộng làm cho phương thức sản xuất phường hội phong kiến không thoả mãn được nhu cầu ngày càng tăng của quan hệ sản xuất mới. - Giai cấp tư sản mới hình thành và là giai cấp tiến bộ, cần phát triển khoa học tự nhiên để tạo cơ sở cho sự phát triển kỹ thuật và sản xuất, đồng thời tìm kiếm vũ khí tư tưởng chống lại hệ tư tưởng duy tâm, tôn giáo. - Trong thời kỳ này khoa học đã phát triển và tách dần ra khỏi thần học và tôn giáo, bước lên con đường phát triển độc lập. Xuất hiện những nhà khoa học và triết học tiêu biểu như Cô péc níc, Bru nô, Ga li lê, Ku da, Mo rơ, Cam pa ne la v.v...Nhiều sáng chế kỹ thuật như động cơ chạy bằng sức gió, sức nước, máy kéo sợi, máy dệt, chế tạo tàu thuỷ, lò luyện kim, in ấn v.v.. đã đẩy mạnh sự phát triển kinh tế ở các nước Tây Âu và Trung Âu. Nền sản xuất công trường thủ công đem lại năng suất lao động hơn hẳn và đã thay thế cho nền kinh tế tự nhiên kém phát triển. b. Các đặc điểm chủ yếu của triết học. - Trên cơ sở thực tiễn (sản xuất vật chất và những biến động xã hội), những tư tưởng triết học và các ngành khoa học tự nhiên bắt đầu phát triển và ngày càng được cải tiến. Thiên văn học, toán học, cơ học và về sau, vật lý học, sinh vật học dần tách ra (phân ngành) khỏi triết học, phạm vi những vấn đề mà triết học nghiên cứu cũng dần biến đổi. Chủ nghĩa duy vật được khôi phục và biến đổi theo những biến đổi của khoa học tự nhiên và dựa vào những thành tựu của khoa học tự nhiên để trở thành vũ khí chống lại thế giới quan duy tâm, tôn giáo, thực hiện và củng cố mối liên minh giữa triết học và khoa học tự nhiên, đề ra phương pháp nhận thức tự nhiên bằng thực nghiệm, kinh nghiệm, phê phán thần học và chủ nghĩa kinh nghiệm. Có thể nói rằng, chính sự phát triển của khoa học tự nhiên đã đòi hỏi có sự khái quát triết học, rút ra những kết luận có tính duy vật từ các tri thức khoa học cụ thể. - Đặc điểm của triết học thời kỳ này là những yếu tố duy vật và duy tâm xen kẽ nhau, xu hướng vô thần xuất hiện, ảnh hưởng của khoa học tự nhiên tới triết học lớn tới mức khó xác định cụ thể ranh giới giữa các thế giới quan đó, nhiều nhà bác học của thời đại này uyên bác cả về phương diện triết học lẫn khoa học tự nhiên. - Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm thường biểu hiện dưới hình thức đặc thù, chủ nghĩa duy vật đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm trong lĩnh vực bênh vực khoa học phi tôn giáo, chống lại các học thuyết tôn giáo và chủ nghĩa kinh viện, đưa vấn đề quan hệ giữa con người và thế giới tự nhiên, chứng minh sức mạnh của con người, đấu tranh cho sự giải phóng con người và những tư tưởng nhân đạo trở thành trung tâm của các vấn đề triết học. - Nhiều học thuyết triết học thời Phục hưng đã phục hồi phép biện chứng tự phát thời cổ đại và khái quát những thành tựu của khoa học tự nhiên. Đồng thời, trái ngược với phép biện chứng tự phát, trong khoa học tự nhiên và triết học bắt đầu xuất hiện xu hướng siêu hình và xu hướng đó tăng lên về cuối thời kỳ Phục hưng. - Sự ra đời của phương pháp siêu hình trong khoa học tự nhiên và đến thế kỷ XVII, phương pháp này được áp dụng và triết học là kết quả của sự phát triển khoa học tự nhiên, nhất là cơ học. Theo Ph.Ăngghen, khoa học tự nhiên là cái duy nhất người ta có thể coi là khoa học bắt đầu phát triển từ thời đại này- có tính chất cách mạng triệt để, đã chung vai sát cánh với triết học mới đang ra đời. IV. Triết học Tây Âu thời Cận đại. 1. Chủ nghĩa duy vật Anh thế kỷ XVII Bắt đầu từ thế kỷ XVII, nước Anh đã đạt được sự thịnh vượng về kinh tế-xã hội và trở thành một cường quốc ở Tây Âu. Giai cấp tư sản Anh đã khảng định được mình trong đời sống xã hội và cùng với những tiến bộ của khoa học-kỹ thuật, triết học duy vật Anh thế kỷ XVII đã trở thành ngọn cờ tư tưởng của giai cấp tư sản Anh trước và sau cuộc cách mạng tư sản 1642-1648. Do tính chất không triệt để của cuộc cách mạng này và chịu ảnh hưởng của các thế lực tôn giáo các quan niệm triết học của các nhà duy vật Anh cũng thiếu triệt để. Một số đại biểu chính a. Phran xi Bê cơn (1561-1626, nhà ngoại giao, tư pháp, thượng thư (bộ trưởng) báo chí, đại biểu nghị viện, Thủ tướng nước Anh, được phong Bá tước. Bê cơn là người sáng lập ra chủ nghĩa duy vật Anh và khoa học thực nghiệm hiện đại. Bắt đầu từ Bê cơn, lịch sử triết học Tây Âu bước sang một giai đoạn mới). - Quan niệm về vai trò, nhiệm vụ của khoa học và triết học. + Sự phát triển của khoa học và triết học là nền tảng của công cuộc cải cách đất nước, là cơ sở lý luận cho công cuộc xây dựng đất nước phồn vinh, phát triển kinh tế, xoá bỏ bất công và tệ nạn xã hội. + Chịu ảnh hưởng của quan niệm "triết học là khoa học của mọi khoa học", Bê cơn cho rằng, triết học là tổng thể các tri thức lý luận của con người về Thượng Đế, về thế giới tự nhiên và về con người. + Do vậy, triết học gồm ba học thuyết: * Học thuyết về Thượng đế, nghiên cứu thần học và tự nhiên, vạch ra những khía cạnh hợp lý của nó. * Học thuyết về tự nhiên (được đồng nhất với khoa học tự nhiên). * Học thuyết về con người (nhân bản học). Nhiệm vụ của triết học là cải tạo lại toàn bộ các tri thức mà con người đã đạt được tới thời đại đó, "nắm bắt trật tự của giới tự nhiên" để xây dựng "trong trí tuệ con người" một kiểu mẫu của thế giới giống như nó tồn tại thực tế, chứ không phải giống như cái mà tư duy gợi cho mỗi người. "Hiệu quả của sự sáng chế thực tiễn là người bảo lãnh và ghi nhận tính chân lý của các triết học". - Quan niệm về thế giới. + Khảng định sự tồn tại của thế giới vật chất khách quan. Khoa học không thể biết gì khác ngoài thế giới vật chất khách quan. "Hình dạng" là bản chất của sự vật "tự nhiên", tức là các sự vật được con người nhận biết được b��ng các giác quan (cảm tính) là sự biểu hiện ra bên ngoài của hình dạng: Đó chính là hiểu biết của con người về vật chất. Như vậy, Bê cơn đã tìm thấy trong vật chất những "hình dạng" và "tự nhiên", tức là bao gồm cả tính đa dạng lẫn tính thống nhất của thế giới. + Khảng định vật chất không tách rời vận động. Nhận thức bản chất của các sự vật là nhận thức sự vận động của chúng. Có 19 hình thức vận ��ộng của vật chất. Các hình thức vận động này hầu như bị qui vào các hình thức vận động cơ học, tuy vậy đóng góp của Bê cơn là coi đứng yên là một hình thức của vận động, coi vận động là một thuộc tính cố hữu (vốn có) của vật chất. Ông là một trong những triết gia đầu tiên nhận thấy tính bảo toàn vật chất của thế giới. + Trong lĩnh vực nghiên cứu bản chất của linh hồn (ý thức), Bê cơn cũng có những quan niệm duy vật: "linh hồn biết cảm giác" tồn tại trong óc người, vận động theo các dây thần kinh và mạch máu. Linh hồn chính là một "vật thể, thể xác, là vật chất chân chính", giống như lửa và không khí. Quan niệm về ý thức của Bê cơn là quan niệm duy vật tầm thường, không vượt xa hơn các nhà duy vật Hy Lạp cổ đại. - Lý luận nhận thức. Đóng góp to lớn của Bê cơn cho triết học là lý luận nhận thức. Ông là người đầu tiên xây dựng phương pháp qui nạp thành một hệ thống có giá trị trong nghiên cứ khoa học. Phương pháp này được trình bày trong tác phẩm "Oóc ga nôn mới". + Lý luận nhận thức của Bê cơn nêu lên và giải quyết ba vấn đề sau đây: Một là: Không có tri thức bẩm sinh, mọi tri thức đều bắt đầu từ kinh nghiệm và thực hiện sự "chế biến" các kinh nghiệm đó thành một hệ thống để cho ta khả năng nhận thức được bản chất, qui luật của sự vật. Hạn chế của Bê cơn trong vấn đề này là chưa lý giải được quan hệ biện chứng của việc phát triển từ nhận thức cảm tính lên nhận thức lý tính, cũng như chưa lý giải được biện chứng của tư duy lý tính. Vấn đề thực chất trong lý luận nhận thức của Bê cơn là hướng tư duy và trí tuệ vào sự khái quát và diễn giải những tài liệu do nhận thức cảm tính mang lại, chế biến lại tựa như con ong biến nhuỵ hoa thành mật. Phương pháp nhận thức bằng kinh nghiệm, thực nghiệm do Bê cơn xây dựng là khoa học chân chính cần xuất phát từ bản thân sự vật của thế giới khách quan. Ông cho rằng, nhà khoa học, sau khi bắt đầu từ sự thật cần phải cải tiến suy nghĩ về sự thật rồi đi tơí định lý, rồi từ định lý lại phải đi tới sự thật mới. Hai là: Muốn nhận thức được giới tự nhiên một cách khoa học, đúng đắn, người ta phải từ bỏ các ảo tưởng (hay còn gọi là những ngẫu tượng) đã và đang thống trị lâu nay, đồng thời áp dụng phương pháp nhận thức tối ưu là phương pháp qui nạp. Bê cơn chia ảo tưởng (ngẫu tưởng) ra làm bốn loại. Công lao của ông trong học thuyết về ảo tưởng là đã đặt ra vấn đề cơ sở xã hội của quá trình nhận thức, tuy chưa nhận thấy tính hạn chế lịch sử của thời đại và cơ sở kinh tế-xã hội cũng như cơ chế quan hệ xã hội ảnh hưởng lên quá trình nhận thức. + Khi từ bỏ ảo tưởng, chúng ta phải áp dụng phương pháp nhận thức mới- đó là phương pháp qui nạp gồm ba bước: * Bước thứ nhất: Thông qua các giác quan, con người nhận thức được giới tự nhiên đa dạng và sinh động. * Bước thứ hai: Trên cơ sở những tài liệu do các giác quan mang lại, cần phải lập bảng so sánh, hệ thống lại và phân tích chúng. * Bước thứ ba: "Qui nạp thật sự", "với những bậc phủ định" để giữ lại hay bài trừ những tài liệu kinh nghiệm trên thu được trong những điều kiện khác nhau để xác định mối quan hệ nhân-quả của các hiện tượng mà ta nghiên cứu. Đây là bước quan trọng trong quá trình nhận thức, giúp chúng ta khám phá ra "hình dạng", tức bản chất của sự vật. Ba là: Trong lý luận nhận thức, Bê cơn không đứng vững trên lập trường vô thần, ông thừa nhận chân lý có tính hai mặt, đó là mặt khoa học và thần học. Khoa học và thần học không nên can thiệp vào công việc của nhau: Khoa học nghiên cứu những vấn đề mà thần học không thể có được, thần học nghiên cứu những vấn đề mà khoa học không vươn tới được. - Quan niệm chính trị-xã hội. Bê cơn chủ trương xây dựng nhà nước tập quyền, mạnh để bảo vệ lợi ích và sự phát triển của tư bản chủ nghĩa, chống lại đặc quyền của bọn quí tộc. Sự phát triển công nghiệp và thương nghiệp có ý nghĩa quan trọng nhất trong đời sống xã hội. Xã hội cần phát triển theo con đường giáo dục và các phát minh kỹ thuật mà không cần những cuộc đấu tranh của nhân dân. Nước Anh cần làm bá chủ thế giới, nô dịch các dân tộc khác. b. Tô mát Hốp bơ (1588-1679, có tài liệu viết là Hốp xơ, nhà triết học duy vật nổi tiếng người Anh thế kỷ XVII, người kế tục và hệ thống hoá triết học của Ph.Bê cơn. Ông là người sáng tạo ra hệ thống đầu tiên của chủ nghĩa duy vật siêu hình trong lịch sử triết học có hình thức phù hợp với đặc trưng và yêu cầu của khoa học tự nhiên thời kỳ đó. Hốp bơ cho rằng, hình học và cơ học là những mẫu mực lý tưởng của tư duy khoa học). - Quan niệm về giới tự nhiên. Những quan niệm về giới tự nhiên trong triết học Hốp bơ mang tính siêu hình và cả những yếu tố của chủ nghĩa duy tâm. + Giới tự nhiên là tổng các vật thể có quảng tính (độ dài, khoảng cách), được phân biệt với nhau bằng đại lượng, hình khối, vị trí và vận động cơ giới. Hốp bơ không thừa nhận tính phong phú về chất là một thuộc tính khách quan của giới tự nhiên: Chất lượng cảm tính không phải là thuộc tính của bản thân sự vật, mà là hình thức tri giác chung. + Quan niệm về con người như là một cơ thể sống cũng mang tính siêu hình: trái tim là cái lò xo, dây thần kinh là những sợi chỉ, các khớp xương là các bánh xe làm cho cơ thể con người chuyển động. - Phương pháp nhận thức và nhận thức luận. Hốp bơ hiểu phương pháp nhận thức như là nghệ thuật kết hợp giữa chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa duy danh (chỉ có sự vật đơn nhất, cá biệt là có thực, còn những cái chung (cái phổ biến) chỉ là những tên gọi mà con người gắn cho các hiện tượng riêng lẻ). Ông giải thích bước chuyển từ cái riêng đến cái chung, từ tri giác cảm tính đến khái niệm theo quan điểm của chủ nghiã duy danh: Khái niệm chỉ là tên của những cái tên. Như vậy, chủ nghĩa duy vật của Hốp bơ là chủ nghĩa duy vật siêu hình. - Quan điểm về xã hội, bên cạnh những mặt tiến bộ nhất định như bác bỏ nguồn gốc thần thánh của nhà nước, chống tôn giáo và thần học còn có những yếu tố duy tâm chủ nghĩa: Hốp bơ cho rằng nhà nước ra đời là do sự qui ước, thoả thuận giữa con người với nhau nhằm tránh những cuộc chiến tranh tàn khốc và hình thức lý tưởng nhất của nhà nước là chế độ quân chủ. Ông bài bác quyền tự do, dân chủ của xã hội và cho rằng quyền lực của giai cấp đại tư sản phải là vô hạn. Tôn giáo và giáo hội là "dây trói buộc xã hội" nên vẫn có ích cho nhà nước. (Phần này nên mở rộng thêm: Quan điểm của Hốp bơ về đối tượng của triết học. Về bản thể luận triết học. Về nhận thức luận và Lý luận về xã hội và nhà nước. tr.276-281) 2. Triết học duy tâm Pháp a. R.Đề các tơ (1596-1650, nhà khoa học, triết học nổi tiếng người Pháp, là người sáng lập lên nền khoa học và triết học của một thời đại mới, chống lại tôn giáo, chống lại chủ nghĩa kinh viện, xây dựng nên một nếp tư duy mới giúp cho việc nghiên cứu khoa học). Học thuyết triết học của Đề các tơ gồm hai bộ phận: "Vật lý học" và "Siêu hình học". Trong "vật lý học", ông là nhà duy vật; trong "siêu hình học" ông là nhà đa nguyên luận: Khi giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học, ông cho rằng có hai thực thể là thực thể vật chất và thực thể tinh thần tồn tại độc lập với nhau, nhưng chúng đều phụ thuộc vào thực thể thứ ba, do thực thể thứ ba là Thượng đế qui định. - Bản chất của triết học. Đề các tơ cho rằng, triết học có thể hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng, triết học là tổng thể tri thức của con người về nhiều lĩnh vực, triết học, theo nghĩa này, mang lại lợi ích thiết thực và trực tiếp cho đời sống con người. Theo nghĩa hẹp, triết học là "siêu hình học" (Mêta phi zik ca- sau vật lý), là nền tảng của thế giới quan, nó phục vụ cho con người một cách gián tiếp, chủ yếu thông qua các khoa học khác. Theo Đề các tơ, triết học là sự thể hiện cơ bản nhất sự thông thái của con người trong lĩnh vực nhận thức và cả trong công việc, do vậy, trình độ phát triển tư duy triết học là thước đo quan trọng nhất để đánh giá trình độ văn minh của con người và sự ưu việt của dân tộc này đối với dân tộc khác. Triết học có nhiệm vụ xây dựng được những nguyên lý phương pháp luận cơ bản làm cơ sở cho các khoa học khám phá ra chân lý, giúp con người làm chủ tự nhiên trên cơ sở nhận thức các qui luật của tự nhiên. + Điểm xuất phát của triết học Đề các tơ là quan điểm "Tôi tư duy vậy là tôi tồn tại". Từ quan điểm này ông xây dựng lên hệ thống triết học của mình. * Để nhận thức đúng, trước hết phải nghi ngờ. Ông khảng định rằng phải nghi ngờ tất cả, kể cả cái mà người ta đã cho rằng đó là chân lý, có thể nghi ngờ cả cái mà về sau rất có thể được thừa nhận là chân lý. Nghi ngờ không phải là để nghi ngờ, mà đó chỉ là một biện pháp cần thiết để không mắc phải sai lầm trong nhận thức, nghi ngờ để có lòng tin chắc chắn, nghi ngờ để tin. * Từ nguyên tắc "nghi ngờ", Đề các tơ kết luận rằng, dù tôi nghi ngờ mọi cái, nhưng không thể nghi ngờ rằng tôi đang nghi ngờ, mà nghi ngờ cũng là tư duy, là suy nghĩ, từ đó ông đi đến kết luận nổi tiếng rằng "tôi suy nghĩ vậy là tôi tồn tại". Đó là nguyên lý cơ bản, bất di bất dịch, không thể gây ra sự nghi ngờ nào cả và có thể lấy nguyên lý ấy làm điểm xuất phát cho kết luận lô-gích của toàn bộ nhận thức, là điểm xuất phát của phương pháp khoa học, giúp con người tránh được những ý kiến thiên lệch, xác định dược chân lý. Sai lầm của nguyên tắc nghi ngờ Đề các tơ là quá đề cao tư duy, coi thường kinh nghiệm và chứng minh sự tồn tại của con người thông qua tư duy. Nhưng ở thế kỷ XVII, sự thống trị khe khắt của Nhà Thờ với nguyên tắc giáo lý cơ bản là lòng tin vào Chúa, thì nguyên tắc nghi ngờ mọi tri thức mà nhân loại đã đạt được từ trước đến nay dưới sự phê phán của lý tính có một ý nghĩa rất to lớn, đòi hỏi các nhà khoa học phải suy nghĩ bằng chính lý trí của mình. - Bản thể luận triết học. Đề các tơ đưa ra quan điểm duy vật về thế giới. Theo ông, tự nhiên là một khối thống nhất bao gồm những hạt nhỏ vật chất có quảng tính và vận động vĩnh viễn theo những qui luật cơ học. Vũ trụ là thế giới vật chất vô tận, vật chất cho dù gồm có cả những hạt nhỏ, nhưng về nguyên tắc là có thể phân chia vô cùng, không có giới hạn. + Không có không gian và thời gian trống rỗng, không có vật chất, trái lại, không gian và thời gian là thuộc tính gắn liền với vật thể, vận động là không thể bị tiêu diệt, mà nó luôn gắn liền với các vật thể, vật thể luôn vận động, chuyển đổi vị trí, tức là vận động trong không gian (vận động cơ giới). + Từ lý luận về những hạt nhỏ của vật chất, Đề các tơ đã xây dựng lý thuyết giả định về sự hình thành của vũ trụ: Ông cho rằng, vật chất lúc đầu ở trạng thái hoàn toàn đồng loại và chuyển động không ngừng theo chiều xoáy như những cơn lốc. Quá trình "xoáy lốc" đó phân chia vật chất ra thành ba loại: Loại thứ nhất là những hạt lớn hợp thành yếu tố vật chất như "đ���t, đá". Loại thứ hai là những hạt nhỏ hợp thành yếu tố "không khí". Loại thứ ba là những hạt cực nhỏ hợp thành yếu tố "lửa". Giải thuyết "xoáy lốc" của Đề các tơ rõ ràng là còn nhiều hạn chế và thiếu luận cứ khoa học cụ thể, song nó là một bước tiến dài cả về qui mô lẫn tầm vóc tư duy so với các quan niệm về vũ trụ thời cổ đại. - Trong "Siêu hình học", Đề các tơ đứng trên quan điểm nhị nguyên luận. Ông cho rằng có hai thực thể là thực thể vật chất và thực thể tinh thần tồn tại độc lập với nhau, không phụ thuộc vào nhau. Đặc trưng của thực thể vật chất là quảng tính, đặc trưng của thực thể tinh thần là biết tư duy, cả hai thực thể này phụ thuộc vào một nguyên thể tối cao là Thượng đế. Con người được kết hợp bởi hai yếu tố là vật chất (thể xác) và yếu tố tinh thần (tư duy). - Phương pháp luận của Đề các tơ, nếu Ph.Bê cơn từ thực nghiệm của khoa học vật lý đề cao phương pháp qui nạp, thì Đề các tơ từ góc độ toán học đã đề ra phương pháp suy lý. Thực ra cả Bê cơn và Đề các tơ đều mắc cùng một sai lầm là đã tách rời hai giai đoạn (cảm tính và lý tính) của quá trình nhận thức. Từ việc đề cao phương pháp suy lý (của nhận thức lý tính) Đề các tơ đi đến quan điểm sai lệch về tiêu chuẩn của chân lý, khi cho rằng, tiêu chuẩn của chân lý là có tư duy rành mạch, khúc chiết và lô-gích chứ không phải là thực tiễn, thực nghiệm khoa học như lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng quan niệm. + Phương pháp nhận thức của Đê các tơ gồm bốn nguyên tắc: Một là, Trước tiên là phải nghi ngờ khi chưa thấy chắc chắn nó là chân lý; hai là, Cần chia nhỏ đối tượng để nhận thức; ba là: Trong quá trình nhận thức cần xuất phát từ những điều đơn giản nhất dần dần đi đến những điều phức tạp hơn, theo trình độ lô gíc của nó; bốn là, Phải xem xét đầy đủ mọi dữ kiện, không bỏ sót một tư liệu nào trong quá trình nhận thức. Do quá đề cao tư duy lý tính, xem nhẹ nhận thức cảm tính nên Đề các tơ cho rằng, có "tư tưởng bẩm sinh" và đó là những nguyên tắc cơ bản của lô gíc học và toán học. 3. Triết học duy vật Hà Lan B. Xpi nô da (1632-1677, nhà triết học Hà Lan nổi tiếng, nhà duy vật và vô thần, nhà tư tưởng của tầng lớp dân chủ tư sản). Triết học của ông phản ánh giai đoạn phát triển mạnh nhất của tư sản Hà Lan thế kỷ XVII- Là một nước tư bản điển hình, thực hiện cuộc cách mạng tư sản đầu tiên, số lượng tàu thuỷ của Hà Lan nhiều hơn của tất cả các nước châu Âu cộng lại, là nước giàu nhất châu Âu lúc bấy giờ (C.Mác). Sau khi đoạn tuyệt với tôn giáo, Xpi nô da chuyên tâm nghiên cứu khoa học tự nhiên và triết học. Ông sống một cuộc đời rất bình thường, làm nghề mài kính để kiếm sống. Xpi nô da xây dựng hệ thống triết học duy vật của mình trên cơ sở tiếp thu những quan điểm duy vật của Bru nô, phương pháp duy lý của Đề các tơ, khoa học tự nhiên có tính duy vật, siêu hình. Trong lĩnh vực lý luận nhận thức và xã hội học Xpi nô da chịu ảnh hưởng sâu sắc của Hốp xơ. - Quan niệm về thực thể. Xpi nô da cho rằng, thực thể chính là giới tự nhiên duy nhất, hoàn toàn độc lập, tự tồn tại, tự nó sinh ra nó, mọi thực thể đều có thuộc tính. Thuộc tính là đặc trưng chất lượng của thực thể (làm cho các thực thể phân biệt với nhau). Số thuộc tính là vô tận, trong đó trí tuệ hạn chế của con người mới chỉ nhận thức được hai trong số vô vàn thuộc tính đó của thực thể. Đó là thuộc tính quảng tính (độ dài, khoảng cách) và thuộc tính tư duy. Quảng tính và tư duy là hai thuộc tính của một thực thể. Giới tự nhiên tồn tại được là nhờ lực lượng tiềm tàng của chính mình, không cần có một cái gì siêu nhiên đứng trên nó, nghĩa là không cần có thần thì giới tự nhiên vẫn tồn tại. Đồng thời ông gọi giới tự nhiên là thần, tư tưởng là thuộc tính của mọi vật chất, vạn vật đều có linh hồn. Thực thể duy nhất (giới tự nhiên) là nguồn gốc chung, là cơ sở và nền tảng, đồng thời là bản chất chung của mọi sự vật vật chất và hiện tượng tinh thần. Do đó, "thực thể trở thành thực tại tối cao", vô tận về không gian, vĩnh hằng về thời gian. Khi giải thích sự phụ thuộc của các sự vật cụ thể vào thực thể, ông đưa ra khái niệm "dạng thức": Dạng thức là cái tồn tại ở một cái khác và biểu hiện thông qua cái khác nên nó không giống thực thể. Như vậy, "dạng thức" là biểu hiện đơn nhất của thực thể, tức là các sự vật đơn nhất. Thực thể thì bất động, còn dạng thức thì luôn vận động, bị chi phối bởi qui luật nhân-quả: không có sự vật nào không có nguyên nhân và nó là nguyên nhân của chính bản thân nó. Tóm lại, học thuyết về thực thể khảng định lập trường nhất nguyên về thế giới, giải thích thế giới chính từ bản thân thế giới, tạo điều kiện cho sự phát triển của chủ nghĩa duy vật về sau. - Quan niệm duy vật về thế giới. Theo Xpi nô da, thế giới là thế giới của các sự vật riêng lẻ. Toàn bộ thế giới là một hệ thống toán học có thể nhận thức đến cùng nhờ phương pháp hình học. Thế giới có vô vàn cách thức vận động và đứng im. Có những cách thức gắn với thế giới các sự vật riêng lẻ có quảng tính, có những cách thức thì gắn với thế giới các sự vật riêng lẻ có thuộc tính tư duy (thế giới con người). Trong quan niệm về thế giới các sự vật, ông khảng định rằng, mọi vật đều có khả năng hoạt động tinh thần- Đó là ảnh hưởng của vật hoạt luận (tức là lý luận cho rằng mọi vật đều có ý thức) lên Xpi nô da. - Lý luận nhận thức. Xpi nô da đứng trên lập trường của chủ nghĩa tự nhiên khi xem xét vấn đề này. Ông xem con người chỉ là một bộ phận của tự nhiên. Linh hồn và thể xác con người là các bộ phận độc lập có quan hệ tương tác với nhau do tính độc lập của hai thuộc tính (quảng tính và tư duy) của thực thể. Nhận thức luận của Xpi nô da gồm bốn nội dung chính. Một là, Thừa nhận khả năng nhận thức của con người là vô hạn; hai là, Không thừa nhận có tư tưởng bẩm sinh và cho rằng, nhiệm vụ của nhận thức là phải đạt tới việc phát hiện ra sự tồn tại của những nguyên nhân khách quan của các "dạng thức", tức là của các sự vật đơn nhất; ba là, Chia quá trình nhận thức của con người thành nhận thức cảm giác, nhận thức giác tính và trực giác. Trực giác lý tính giúp chúng ta nhận thức được bản chất đích thực của thực thể; bốn là, Giải quyết mối quan hệ giữa tất yếu và tự do một cách duy vật, tất yếu và tự do không loại trừ nhau, mà phụ thuộc vào nhau- muốn có tự do phải nhận thức và hành động theo cái tất yếu. Con người phải cố gắng không phải để "giới tự nhiên tuân theo mình mà trái lại, để mình tuân theo giới tự nhiên". - Con người trong triết học. Xpi nô da cho rằng, con người là "dạng thức" của thực thể, là sản phẩm của tự nhiên, do vậy mọi hoạt động của con người đều phải tuân theo qui luật tự nhiên. Thể xác và linh hồn của con người chỉ là thể hiện của hai thuộc tính của thực thể là quảng tính và tư duy, do vậy chúng không thể tách rời nhau. Mọi quan niệm coi linh hồn và thể xác có thể tách rời nhau đều là không chính xác, duy tâm. Bản tính của con người là nhận thức. Nhu cầu nhận thức là khát vọng lớn nhất của con người. Nhận thức là chìa khoá giúp con người giải quyết mọi tệ nạn xã hội, giải phóng mọi bất công và áp bức. Nhiệm vụ của triết học là phục vụ cuộc sống con người, giúp con người có học thức, hiểu biết qui luật tự nhiên và sống theo lý tưởng cao đẹp. 4. Triết học duy tâm Nam Ai Len a. G. Béc cli (1685-1753, đại biểu điển hình của chủ nghĩa duy tâm chủ quan). Ông sinh ra ở miền Nam Ailen, say mê nghiên cứu thần học, toán học và triết học. Là giáo chủ ở Iếc lăng (1734-1752). Ông để lại cho đời sau nhiều tác phẩm có giá trị. - Khái quát những nội dung chính của triết học Béc cli vào hai điểm. + Một là, Béc cli phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất. Điểm xuất phát của triết học Béc cli là kinh nghiệm cảm tính. Kinh nghiệm cảm tính là tổng hợp những biểu tượng hay những cảm giác. Những cảm giác này là thực tại khách quan mà không phải là sự phản ánh thực tại khách quan: "Không phải tôi cho rằng sự vật biến thành biểu tượng, mà cho rằng biểu tượng biến thành sự vật", "mà biểu tượng thì tồn tại trong trí óc, cho nên sự tồn tại của chúng là ở chỗ chúng được tri giác". "vật thể trong thế giới quanh ta là sự phúc hợp của cảm giác". Thực chất của luận điểm này là: tồn tại là được tri giác, cái gì ở ngoài tri giác là không tồn tại, mọi vật chỉ tồn tại khi ta cảm biết được chúng. Ông tuyên bố: tồn tại có nghĩa là được cảm biết. Như vậy, chủ nghĩa duy tâm khách quan đã đưa triết học Béc cli đến chủ nghĩa duy ngã, đến chỗ phủ nhận sự tồn tại khách quan, tồn tại thực sự của của sự vật - kể cả sự tồn tại của con người, trừ chủ thể nhận thức (là con người đang cảm giác), loại trừ "cái tôi" mà thôi. Tất cả mọi sự vật hợp thành vũ trụ đều phụ thuộc vào tri giác của "tôi", nếu "tôi" không tri giác hay cảm giác được chúng thì chúng không tồn tại. Để tránh rơi vào chủ nghĩa duy ngã, Béc cli đã chuyển từ chủ nghĩa duy tâm chủ quan sang chủ nghĩa duy tâm khách quan: Ông khảng định rằng, chủ thể nhận thức không phải chỉ có một cá nhân "tôi" và của những "tinh thần" của người khác mà còn có một "tinh thần vĩnh viễn" đó là Thượng đế, nghĩa là chủ thể nhận thức không chỉ có một, và một vật nào đó khi không còn được nhận thức bởi chủ thể này thì nó lại tiếp tục được nhận thưcs bởi các chủ thể khác, thậm chí, khi tất cả các chủ thể nhận thức (con người) không còn nữa, thì vật đó vẫn tiếp tục tồn tại như là tổng số tư tưởng trong trí tuệ của Thượng đế. Vì Thượng đế cũng là một chủ thể nhận thức, nhưng tồn tại vĩnh viễn và luôn đưa vào trong ý thức của mình những chủ thể nhận thức riêng lẻ (con người) nội dung của cảm giác. + Hai là, Béc cli cho rằng không có chân lý khách quan. Béc cli đặt nhiệm vụ chính cho triết học của mình là đấu tranh chống lại lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật. Từ chỗ phủ nhận tồn tại khách quan của thế giới vật chất, Béc cli đã đi đến phủ nhận chân lý khách quan: Tìm chân lý ở tính rõ ràng của các tri giác cảm tính, ở tiêu chuẩn "ý kiến chung", nghĩa là so sánh sự thật của ý thức người này với ý thức người khác xem chúng có trùng khớp không, ở sự đơn giản và dễ hiểu của các quan niệm và ở sự phù hợp của tri thức với ý thức và tuân theo ý Chúa. Triết học duy tâm chủ quan của Béc cli về sau được Đ.Hi um, Ma khơ và những người theo chủ nghĩa Ma khơ phát triển. Ngày nay triết học Béc cli được tồn tại dưới nhiều hình thức biến tướng mới. - Bản chất giai cấp của triết học, triết học Bec cli là sự phản ánh hệ tư tưởng của giai cấp tư sản đã giành được chính quyền, rất sợ những tư tưởng tiến bộ, cách mạng. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên trong triết học của mình, Béc cli đã sử dụng phép siêu hình, chủ nghĩa cơ giới để chống lại những tư tưởng tiến bộ trong khoa học (như chống lại quan niệm của Niu-tơn về không gian như bể chứa những vật thể tự nhiên, chống lại quan điểm của Lốc-cơ về nguồn gốc của khái niệm vật chất và không gian). b. Đ. Hi um [1711-1776, nhà triết học, sử học, nhà kinh tế học người Anh. Ông là người sáng lập những nguyên tắc cơ bản của "thuyết không thể biết" ở châu Âu thời cận đại. Những tác phẩm chính của ông: "Bàn về nhân tính" (1739-1740), "Lịch sử nước Anh" gồm 8 tập (1753-1762)]. - Lý luận nhận thức là điểm nổi bật mỗi khi người ta nghiên cứu triết học Hi-um. Khi giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học, nghĩa là khi trả lời câu hỏi: con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không, người ta thường dẫn chứng ông như là một trong những triết gia đại diện cho "thuyết không thể biết". Lý luận nhận thức của Đ.Hi um được xây dựng trên kết quả cải biến chủ nghĩa duy tâm chủ quan của Béc cli theo tinh thần của thuyết không thể biết và hiện tượng luận. Đây là học thuyết triết học cho rằng, con người chỉ nhận biết được hiện tượng bề ngoài mà không thể nhận thức được bản chất bên trong của của sự vật, học thuyết này đã tách rời bản chất với hiện tượng. Theo Hi um: + Những tri giác đầu tiên là những ấn tượng trực tiếp của kinh nghiệm bên ngoài (tức cảm giác). + Những tri giác thứ hai là những hình ảnh cảm tính của trí nhớ ("ý niệm") và các đối tượng của kinh nghiệm bên trong (các xúc cảm, ước muốn, sự nhiệt thành). Vấn đề mối quan hệ giữa tồn tại và tinh thần không thể giải quyết được về mặt lý luận, vì vậy để giải quyết vấn đề mối quan hệ đó, Hi um đã thay vấn đề đó bằng vấn đề về sự phụ thuộc của những ý niệm đơn giản (những hình ảnh cảm tính của trí nhớ) vào những ấn tượng bên ngoài (cảm giác). Còn việc tạo ra các ý niệm (tư tưởng) phức tạp được ông giải thích như là sự liên kết về tâm lý giữa các ý niệm đơn giản với nhau. Điểm trung tâm trong lý luận nhận thức của Hi um là học thuyết về tính nhân-quả. Vấn đề mối liên hệ nhân-quả được ông giải quyết theo lập trường thuyết không thể biết: + Sự tồn tại của mối liên hệ nhân-quả là không thể chứng minh được, bởi vì, cái mà người ta cho là kết quả lại không thể được chứa đựng trong cái nguyên nhân, về mặt lô gíc, không thể rút kết quả từ nguyên nhân ra vì kết qủa không giống nguyên nhân. + Cơ chế tâm lý làm cho người ta tin vào sự tồn tại khách quan của tính nhân-quả là ở chỗ họ nhận thấy sự xuất hiện và tiếp diễn thường xuyên theo thời gian, thí dụ, của một sự kiện B sau liền sự kiện A kề bên: Những thực tế đó cho phép người ta thừa nhận sự ra đời tất yếu của kết quả-do nguyên nhân. + Nhưng điều đó là sai lầm vì nó biến sự trông chờ, hy vọng thành mối liên hệ vững chắc, thành thói quen và cuối cùng thành "niềm tin" rằng, trong tương lai, mọi sự xuất hiện của sự kiện A nhất định sẽ kéo theo sự xuất hiện của sự kiện B. + Nếu trong khoa học tự nhiên, mối liên hệ nhân-quả là khách quan không thể chứng minh được về mặt lý luận thì trong tâm lý học tính nhân-quả là điều không phải tranh cãi, không phải chứng minh, bởi vì, mối liên hệ nhân-quả hoạt động, có cơ chế liên hệ như là sản phẩm của ý niệm (hình ảnh cảm tính của trí nhớ) do ấn tượng (cảm giác) sinh ra. Nói cách khác, mối quan hệ nhân-quả không phải là một qui luật của tự nhiên mà chỉ là thói quen tâm lý. Chỉ có trong một nhánh của tâm lý học, có quan hệ với lịch sử công dân, với đạo đức học và tôn giáo mới có thể tồn tại mối liên hệ nhân-quả. - Quan niệm đạo đức: Con người có bản tính tự nhiên hay thay đổi, là một thực thể yếu, hay hạm sai lầm và có quan hệ không ổn định. Do vậy cần giáo dục cho con người thói quen, chứ không phải tri thức. Giá trị đạo đức cần xuất phát từ sự khoái cảm, nhưng những khoái cảm đó là những nhu cầu của đời sống, những khoái cảm xã hội để tránh chủ nghĩa cá nhận. - Mỹ học: Hi um đã qui những tri giác nghệ thuật vào khoa học tâm lý. Cái đẹp là những phản ứng xúc cảm của chủ thể đối với tính hợp lý thực tế của khách thể. - Quan niệm xã hội: Xã hội xuất hiện như là kết quả của sự tăng trưởng gia đình. Quyền lực chính trị là quần chúng lệ thuộc vào lãnh tụ như là "một thói quen". Mức độ hợp lý của quyền lực phụ thuộc vào thời hạn cai trị và tính tuân thủ nguyên tắc của chế độ sở hữu tư nhân một cách liên tục. 5. Triết học duy vật Pháp Triết học duy vật Pháp thế kỷ XVIII là tiền đề tư tưởng chuẩn bị cho cuộc cách mạng tư sản Pháp 1789-1794. Triết học duy vật Pháp có nguồn gốc từ chủ nghĩa duy vật Anh (Lốc cơ), "Vật lý học" của Đề các tơ và vật lý học của Niu-tơn. Có hai khuynh hướng duy vật trong triết học Pháp thời kỳ này (La Mê-tri và Hôn bách là hai đại diện chính). Nhưng triết học Pháp thời kỳ này có những đặc điểm chung nổi bật là đại diện cho lợi ích của giai cấp tư sản cách mạng thời đó và mang tính siêu hình đậm nét. Một số nhà triết học tiêu biểu. a. Giulien Ôphrơ La Mê tri (1709-1751, nhà duy vật tiêu biểu của triết học Pháp thế kỷ XVIII, cùng với các nhà bách khoa toàn thư khác của Pháp chuẩn bị về mặt tư tưởng cho cuộc cách mạng Pháp 1789-1794, đồng thời ông còn là bác sỹ). - Quan điểm duy vật về thế giới. La Mê tri cho rằng, thế giới là thực thể vật chất. Thực thể vật chất là nguồn gốc duy nhất của mọi sự vật, hiện tượng- kể cả của con người. Trong thế giới không có gì khác ngoài vật chất đang vận động vĩnh viễn. Nguyên nhân của sự vận động là do "vật chất chứa đựng một lực lượng làm nó sống động và là nguyên nhân trực tiếp của mọi qui luật vận động". Thực thể vật chất là sự thống nhất của ba hình thức vật chất trong tự nhiên là giới vô cơ, giới thực vật và giới động vật (trong đó có con người), có thuộc tính không gian, thời gian và cảm giác. Nhưng năng lực cảm giác chỉ xuất hiện ở các "vật thể có tổ chức đặc biệt"- là giới sinh vật, chứ không xuất hiện ở bất kỳ dạng vật chất nào. Giữa ba hình thức đó của giới tự nhiên không có sự khác nhau về chất, chỉ khác nhau về lượng. Loài người có tính cảm giác và trí tuệ cao hơn động vật. - Lý luận nhận thức: Khi giải quyết vấn đề lý luận nhận thức, La Mê tri đứng trên quan điểm duy giác luận, nghĩa là nhờ có các giác quan cảm giác mà người ta suy nghĩ, do vậy giác quan là cái đáng tin trong đời sống hàng ngày. Mọi tư tưởng, suy nghĩ của con người đều bị qui định bởi cấu trúc cơ thể và chịu sự tác động của môi trường và các điều kiện sống "con người là một cỗ máy phức tạp tới mức hoàn toàn không thể có một ý tưởng rõ ràng, và do vậy, không thể đưa ra một định nghĩa chính xác về con người". Mọi nhận thức được bắt đầu từ cảm giác đến tư duy trừu tượng: phán đoán và suy lý, trong đó phán đoán là sự so sánh, kết hợp các biểu tượng có được nhờ trí nhớ ghi lại từ các cảm giác của con người trong đời sống hàng ngày. Suy lý là sự so sánh kết hợp các phán đoán với nhau nhằm khảng định hay phủ định một vấn đề nào đó. Như vậy, quan niệm duy vật về quá trình nhận thức của La Mê tri đã có nhiều yếu tố biện chứng. Tuy nhiên nó cũng vẫn mang tính trực quan, siêu hình. Nghề bác sỹ của ông cũng để lại dấu ấn trong triết học khi ông quá nhấn mạnh về vai trò của tâm sinh lý trong nhận thức luận. - Quan điểm xã hội. La Mê tri coi lợi ích của mọi người quyết định đời sống xã hội của họ, nhưng các lợi ích này lại phụ thuộc vào các tư tưởng chính trị. Ông lẫn lộn tư tưởng tự do về sở hữu với tự do của con người-tự do là sự hiểu biết qui luật. La Mê-tri cho rằng, những người nghèo khổ nhông cần tự do, cái mà họ cần là tôn giáo. Là người có tư tưởng khai sáng, ông chủ trương thông qua giáo dục, truyền bá tư tưởng tiên tiến cho mọi người thì sẽ giải quyết được mọi đòi hỏi của tiến bộ xã hội. Là người duy vật vô thần nhưng La Mê tri hoàn toàn lúng túng trước tôn giáo. Đối với người làm khoa học thì không cần tôn giáo, nhưng quản lý xã hội lại cần.Tôn giáo rất cần thiết đối với đa số nhân dân không có học. b. Đêni Đi đrô (1713-1784, nhà duy vật tiêu biểu của triết học thời kỳ khai sáng, người chủ biên cuốn "Bách khoa toàn thư" (1751-1789) của Pháp. Những tác phẩm chính của ông là "Các tư tưởng triết học" (1746) v.v...) - Quan niệm về tự nhiên, Ông phê phán chủ nghĩa duy tâm chủ quan của Béc cli và phê phán tính không triệt để của chủ nghĩa duy vật Anh. Theo Đi đrô, trong vũ trụ chỉ có một thưch thể- cả trong con người lẫn trong động vật- đó là vật chất. Vật chất bao gồm toàn bộ các vật thể có hình thức, luôn vận động và có quảng tính. Nguyên nhân vận động của vật chất là tự thân vận động. Sự dịch chuyển của vật thể từ vị trí này sang vị trí khác không phải là vận động mà chỉ là sự di động, còn vận động thì có cả ở vật thể đang vận động lẫn cả ở vật thể đang đứng yên. Chính quá trình vận động và phát triển của giới tự nhiên nên loại trừ những gì không thích nghi và chọn lọc những gì thích nghi đã giúp cho giới tự nhiên ngày càng hoàn thiện. Từ đây, ông rút ra kết luận rằng, kết cấu và trạng thái của sinh vật là kết quả của quá trình tiến hoá lâu dài của giới tự nhiên. Có ý kiến cho rằng, đây là quan niệm tiền thân của học thuyết tiến hoá của Đác Uyn. Như vậy, quan điểm về bản thể luận trên đây của Đi đrô rất gần gũi với quan điểm duy vật hiện đại. - Lý luận nhận thức, ông đã xây dựng lý luận nhận thức của mình trên lập trường duy vật. Đi đrô cho rằng, cơ thể con người là khí quan vật chất của tư duy, của ý thức cũng như của quá trình tâm lý. Ông chứng minh rằng, bước chuyển tiếp từ vô tri, vô giác tới khả năng cảm giác, tư duy đều gắn liền với quá trình phát triển của cấu trúc vật chất từ vô cơ, hữu cơ đến sự sống và cơ thể con người. Đi đrô đề cao khả năng nhận thức cảm tính trong quá trình nhận thức của con người theo phái duy lý kiểu mới: "Phương pháp triết lý đúng đắn đã và sẽ phải là ở chỗ, sao cho kiểm tra trí tuệ bằng trí tuệ, sao cho bằng trí tuệ và thực nghiệm kiểm soát được các cảm tính, bằng cảm tính nhận thức giới tự nhiên, nghiên cứu giới tự nhiên để sáng chế các công cụ, dùng các công cụ đó để tìm tòi và hoàn thiện các tri thức". - Quan điểm chính trị-xã hội, Đi đrô cho rằng, trí tuệ và đạo đức của con người là do môi trường và hoàn cảnh xã hội tạo nên. Phê phán quan điểm cho rằng Thượng đế chi phối tất cả, ông cho rằng, Thượng đế chỉ là sự thần thánh hoá các điều kiện sống hiện thực của con người, chỉ có khoa học mới đem lại cho chúng ta quan niệm đúng về thế giới, làm cho con người lớn mạnh thêm, còn tôn giáo chỉ đem lại những điều ảo tưởng, làm cho con người mềm yếu đi. Đứng trên quan điểm về khế ước, ông đòi thực hiện cai trị theo chế độ dân chủ tư sản, mở mang hệ thống giáo dục cho nhân dân, xây dựng các đạo luật tiến bộ. c. Hôn bách (1723-1789, nhà triết học- một trong những triết gia sáng lập trường phái triết học duy vật Pháp thế kỷ XVIII, nhà tư tưởng của giai cấp tư sản cách mạng Pháp, người tham gia soạn thảo cuốn "Bách khoa toàn thư" do Đi đrô đứng đầu). Hôn bách đã xây dựng hệ thống triết học duy vật và chủ nghĩa vô thần của mình dựa trên những tri thức của khoa học tự nhiên. - Vấn đề cơ bản của triết học, mà cụ thể là vật chất và vận động được ông giải quyết trên lập trường của chủ nghĩa duy vật và dựa vào những tài liệu của khoa học tự nhiên. Hôn bách khảng định một cách dứt khoát rằng, tự nhiên là nguyên nhân đầu tiên của vạn vật. Vật chất là thực tại khách quan tác động lên giác quan của con người. Những đặc tính của vật chất là :phổ biến (quảng tính), vận động, tính có thể phân chia, tính chắc chắn trọng lực. Theo Hôn bách, tự nhiên tồn tại vĩnh viễn, không ai sáng tạo ra nó và cũng không thể bị tiêu diệt. Vật chất hoạt động là do lực của bản thân nó mà không cần có sức thúc đẩy ở bên ngoài. Công lao của Hôn bách thể hiện ở chỗ, ông thừa nhận vận động là thuộc tính của vật chất, nhưng là nhà duy vật siêu hình cộng với sự hạn chế của các điều kiện lịch sử, ông hiểu vận động chỉ là sự đổi chỗ giản đơn của các vật thể trong không gian. - Lý luận nhận thức của Hôn bách được thể hiện trong tác phẩm "Hệ thống của tự nhiên". Ông khảng định ý thức là đặc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao và phê phán tính chất vô lý của các học thuyết về linh hồn, phi vật thể, về con người được tạo ra theo hình ảnh của Thượng đế: "Con người là sản phẩm của tự nhiên, tồn tại trong tự nhiên, phục tùng qui luật của tự nhiên, không thể thoát khỏi tự nhiên, thậm chí cả về mặt tư tưởng cũng không thể vượt khỏi tự nhiên được" (Từ điển triết học, Nxb.Sự thật, Hànội, 1976, tr.409). Hôn bách cho rằng, trí lực của con người phụ thuộc vào cơ cấu của toàn thể con người. Năng lực cảm giác của con người giúp cho nó nhận thức được thế giới và các qui luật của nó. Không có linh hồn bất tử, không có tư tưởng bẩm sinh. Con người phải rút ra những quan niệm và tư tưởng từ thế giới bên ngoài chứ không phải từ linh hồn. Hạn chế của Hôn bách thể hiện ở chỗ, ông chưa hiểu được tính khách quan của hiện tượng ngẫu nhiên, cho rằng những hiện tượng ngẫu nhiên đều là mọi hiện tượng mà con người chưa nhận thức được. - Quan điểm xã hội của Hôn bách mang nhiều tính duy tâm. Ông coi sự phát triển của xã hội như một quá trình do định mệnh chi phối. Là nhà triết học của Phái Khai sáng, ông quả quyết rằng, loài người có thể thoát khỏi ách phong kiến bằng việc phổ cập giáo dục, làm cho lý trí thắng chủ nghĩa ngu dân thời trung cổ và mong muốn có sự quá độ từ chế độ phong kiến sang xã hội tư bản bằng con đường hoà bình. V. Triết học cổ điển Đức 1. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của triết học cổ điển Đức. a. Hoàn cảnh ra đời của triết học cổ điển Đức - Nước Đức vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX vẫn là một nước lạc hậu về kinh tế và chính trị so với nhiều nước châu Âu như Anh và Pháp. - Trong khi đó, chủ nghĩa tư bản đã được thiết lập ở một số nước Tây Âu như Italia, Pháp, Anh v.v. đem lại một sức sản xuất chưa từng có trong lịch sử. - Tấm gương các nước Tây Âu đã thức tỉnh tinh thần phản kháng cách mạng của gia cấp tư sản Đức và những bộ phận tiến bộ khác của xã hội Đức. Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử giai cấp tư sản Đức đã không thể tiến hành cách mạng tư sản trong thực tiễn, mà tiến hành cuộc cách mạng trong tư tưởng. Các tác phẩm của Gớt, Sinle, Hainơ v.v. đều toát lên tinh thần đó. - Thời kỳ này xuất hiện nhiều thành tựu khoa học gắn liền với các phát minh, cùng các tác giả nổi tiếng, như Lơvenhúc với việc phát hiện ra tế bào, định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng của Lơmanôxốp, Cantơ với thuyết “Tinh vân nguyên thuỷ” v.v. - Bối cảnh chính trị -xã hội và sự phát triển của khoa học ở Tây Âu và nước Đức lúc đó chứng tỏ sự bất lực của phương pháp tư duy siêu hình. Nó đòi hỏi cần phải có cách lý giải mới về bản chất của các hiện tượng tự nhiên và lịch sử nhan loại, cũng như cần có quan niệm mới về khả năng và vai trò của con người. Triết học cổ điển Đức ra đời là nhằm đáp ứng yêu cầu đó. 2. Đặc điểm của triết học cổ điển Đức - Triết học cổ điển Đức ra đời và phát triển trong chế độ chuyên chế của nhà nước Phổ và nó bảo vệ về mặt tư tưởng cho chế độ đó. Các nhà triết học cổ điển Đức, nhất là Hêghen, chịu nhiều ảnh hưởng của cuộc cách mạng tư sản Pháp (1789-1794), đồng thời những điều kiện kinh tế-xã hội đã làm nảy sinh ra hệ tư tưởng có tính chất tiểu tư sản, thoả hiệp. Đó là những nét riêng của triết học cổ điển Đức. - Đặc trưng những học thuyết duy tâm của triết học cổ điển Đức: Khôi phục lại truyền thống phép biện chứng; Là bước chuyển từ chủ nghĩa duy tâm chủ quan, tiên nghiệm của Can tơ đến chủ nghĩa duy tâm khách quan của Hêghen; Phê phán phép siêu hình "lý tính" truyền thống; Chú ý nhiều đến triết học lịch sử. - Triết học cổ điển Đức là thế giới quan và ý thức hệ của giai cấp tư sản Đức nửa cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX muốn thể hiện rõ tính cách mạng trong việc lật đổ giai cấp phong kiến song lại không dám tiến hành cuộc cách mạng tư sản trong hiện thực. Chính vì vậy, triết học cổ điển Đức chứa đựng một nội dung cách mạng (phép biện chứng), nhưng hình thức của nó lại cực kỳ “rối rắm” và có tính chất bảo thủ (chủ nghĩa duy tâm và hệ thống siêu hình). - Triết học cổ điển Đức đề cao vai trò tích cực của hoạt động của con người, coi con người là một thực thể hoạt động, là nền tảng và điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học. - Triết học cổ điển Đức đã xây dựng phép biện chứng trở thành phương pháp luận triết học đối lập với phương pháp siêu hình trong việc nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên xã hội. - Hầu hết các nhà triết học cổ điển Đức đều có tham vọng muốn xây dựng triết học của mình trở thành một hệ thống mà trong đó có thể bao quát toàn bộ tri thức của nhân loại đã đạt được từ trước tới nay.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan