Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khắc phục biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng...

Tài liệu Khắc phục biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên ở hà tĩnh hiện nay

.PDF
85
1043
83

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------------- ĐẶNG QUỐC VINH KHẮC PHỤC BIỂU HIỆN SUY THOÁI VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA MỘT BỘ PHẬN CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN Ở HÀ TĨNH HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành Chính trị học Hà Nội – 2013 i ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------------------------- ĐẶNG QUỐC VINH KHẮC PHỤC BIỂU HIỆN SUY THOÁI VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA MỘT BỘ PHẬN CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN Ở HÀ TĨNH HIỆN NAY Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học Mã số: 60 31 02 01 Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Phùng Hữu Phú Hà Nội – 2013 ii LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác, trung thực. Những kết luận của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Đặng Quốc Vinh iii MỤC LỤC MỞ ĐẦU ...........................................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ ......................................................................................................8 1.1. Một số khái niệm ........................................................................................8 1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về suy thoái tư tưởng chính trị ................................................................................................. 13 Chương 2: NHẬN DIỆN BIỂU HIỆN SUY THOÁI TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA MỘT BỘ PHẬN CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN Ở HÀ TĨNH HIỆN NAY ................................................................................................................ 23 2.1. Tình hình chung về tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng viên ở Đảng bộ Hà Tĩnh ........................................................................................................... 23 2.2. Một số biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị trong một bộ phận cán bộ, đảng viên ở Hà Tĩnh hiện nay ................................................................... 26 2.3. Nguyên nhân của tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên ở Hà Tĩnh .................................................................. 39 Chương 3: GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC BIỂU HIỆN SUY THOÁI TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA MỘT BỘ PHẬN CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN Ở HÀ TĨNH HIỆN NAY .................................................................................. 48 3.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên ............................................................................................ 48 3.2. Tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên ............................................................................... 55 3.3. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, giữ nghiêm kỷ luật của Đảng . 60 3.4. Đẩy mạnh cải cách hành chính; tăng cường công tác quản lý nhà nước trên các lĩnh vực .............................................................................................. 64 3.5. Tập trung phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân .............................................................. 66 3.6. Kiên quyết đấu tranh, thực hiện có hiệu quả công tác phòng, chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm .................................... 69 KẾT LUẬN .................................................................................................... 74 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 77 iv MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, việc làm thường xuyên nhằm không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Xây dựng Đảng có nhiều nội dung, trong đó xây dựng Đảng về tư tưởng chính trị là một nhiệm vụ quan trọng nhất. Nhờ làm tốt công tác xây dựng Đảng về tư tưởng chính trị, thường xuyên chăm lo bồi dưỡng tư tưởng chính trị cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân nên trong mọi giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, tranh thủ sự giúp đỡ to lớn và có hiệu quả của nhân dân tiến bộ trên thế giới, đưa sự nghiệp cách mạng giành nhiều thắng lợi vĩ đại. Mặc dù vậy, so với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, công tác xây dựng Đảng còn bộc lộ nhiều hạn chế. Đặc biệt, tình trạng một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống như Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng” đã chỉ ra đang làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Ở Hà Tĩnh, từ trước đến nay, công tác tư tưởng chính trị luôn được các cấp uỷ quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Đa số cán bộ, đảng viên giữ vững bản chất của người cộng sản; tuyệt đối trung thành với mục tiêu, lý tưởng cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn; tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành, quản lý của Nhà nước và chính quyền các cấp; gương mẫu đi đầu trong mọi phong trào; Đảng bộ đoàn kết, thống nhất, nhân dân đồng thuận cao; thường xuyên nâng cao cảnh giác, đấu tranh ngăn chặn và làm thất bại âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, giữ vững trận địa tư tưởng, góp phần vào những thành tựu chung của tỉnh trên các lĩnh vực. 1 Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, tình hình tư tưởng chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên ở Hà Tĩnh hiện nay có biểu hiện suy thoái. Đáng chú ý là một bộ phận cán bộ, đảng viên giảm sút lòng tin vào chủ nghĩa Mác - Lê nin; thiếu tin tưởng vào vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị; hoài nghi vào mục tiêu chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cũng như mục tiêu phát triển của Hà Tĩnh; thiếu ý chí chiến đấu, ngại va chạm; chưa thực hiện đúng nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng; chưa đấu tranh mạnh mẽ trước những luận điệu sai trái, lệch lạc của những phần tử cơ hội và các thế lực thù địch. Những biểu hiện của sự suy thoái tư tưởng chính trị nói trên diễn ra trong những thời điểm khác nhau, ở nhiều cấp độ khác nhau, có khi phức tạp, gây mất đoàn kết nội bộ ở một số cơ quan, đơn vị, là cơ hội để các phần tử xấu lợi dụng xuyên tạc, chống phá. Vì vậy, cần phải có sự nhìn nhận khách quan, bình tĩnh, đề ra giải pháp khắc phục có hiệu quả, nhằm không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. Xuất phát từ tình hình trên, tôi chọn đề tài: “Khắc phục biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên ở Hà Tĩnh hiện nay” làm luận văn thạc sỹ, chuyên ngành Chính trị học. 2. Tình hình nghiên cứu Liên quan đến vấn đề đặt ra của luận văn, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu tình hình tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng viên ở phạm vi khác nhau. Những vấn đề này chủ yếu được đề cập nhiều trong các văn kiện của Đảng, các giáo trình đạo đức công dân dùng trong hệ thống giáo dục quốc dân và một số bài viết đăng trên các báo, tạp chí như: Nhận diện đúng tính chất, mức độ của sự suy thoái để kết hợp tốt giữa “xây” và “chống” của Nguyễn Hữu Chính (Báo Quân đội Nhân dân, ngày 8/5/2012) nêu lên một trong những nguy cơ lớn nhất của đảng cầm quyền là sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, 2 nhất là cán bộ có chức, có quyền. Đặc biệt, tác giả đã có những nhận diện về các biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng viên, chỉ ra nguyên nhân và hậu quả của nó. Từ đó, tác giả đã nêu lên biện pháp cơ bản để khắc phục là kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”. Nhận diện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên của Nguyễn Văn Hào đã chỉ ra một số biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị và biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống; mối quan hệ giữa suy thoái tư tưởng chính trị và suy thoái đạo đức, lối sống. Từ đó gợi mở một số vấn đề tham khảo trong việc nhận diện để khắc phục suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên hiện nay. Tìm hiểu nguyên nhân tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay của Đoàn Thế Hanh. Trên cơ sở những nguyên nhân cơ bản mà Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá XI) chỉ ra, tác giả bàn thêm về nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan dẫn đến sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Trong hai nhóm nguyên nhân nói trên, nhóm nguyên nhân chủ quan là vấn đề hàng đầu cần có giải pháp khắc phục hiệu quả. Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng chính trị hiện nay - Thực trạng và quan điểm của Đảng ta của Lê Hữu Nghĩa đã chỉ ra một số nguyên nhân chủ yếu tác động tiêu cực đến tình hình tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng viên như âm mưu và hoạt động “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch; tình hình thế giới biến đổi nhanh chóng, chủ nghĩa tư bản còn nhiều tiềm năng để phát triển, chủ nghĩa xã hội hiện thực lâm vào thoái trào; mặt trái của kinh tế thị trường. Từ đó, tác giả nêu những quan điểm của Đảng ta trong việc đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái, thù địch nhằm bảo vệ Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Công trình cũng chỉ ra một số hạn chế, yếu kém cần khắc phục trong cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng chính trị. 3 Những giải pháp và điều kiện thực hiện phòng chống suy thoái tư tưởng đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên (2011) do Vũ Văn Phúc và Ngô Văn Thạo (đồng chủ biên). Công trình đã tập trung phân tích cơ sở lý luận của việc chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên; nêu kinh nghiệm của Liên Xô (trước đây), Trung Quốc, Hàn Quốc, Sinhgapo và Cu Ba trong đấu tranh phòng chống tham nhũng, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Đánh giá thực trạng suy thoái và phòng chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên hiện nay; nêu mục tiêu, quan điểm, giải pháp, điều kiện thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ phòng chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên hiện nay. Đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống của Bùi Thanh Sơn cho rằng đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là một việc làm rất khó khăn. Vì vậy cần phải nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về những vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng Đảng, lựa chọn phương pháp thực hiện, xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện, kết hợp xây và chống, dựa vào quần chúng nhân dân, cấp trên gương mẫu để cấp dưới noi theo... Đồng thời phải thường xuyên nâng cao cảnh giác với những âm mưu chống phá của các thế lực thù địch nhằm kích động, chia rẽ đoàn kết nội bộ. Nâng cao hiệu quả đấu tranh chống “diễn biến hoà bình” và phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” của Nguyễn Xuân Thành phân tích âm mưu và hoạt động của chiến lược “diễn biến hoà bình”; chỉ ra thủ đoạn của các thế lực thù địch là thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ hệ thống chính trị Việt Nam, đặc biệt là tập trung làm biến chất lực lượng vũ trang. Cuối cùng, tác giả nêu giải pháp đẩy mạnh công tác chính trị, tư tưởng và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp để đấu tranh chống “diễn biến hoà bình” và phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong lực lượng vũ trang. 4 Nhìn chung, đã có nhiều tác giả tiếp cận nghiên cứu vấn đề đấu tranh, ngăn chặn suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên ở những phạm vi khác nhau. Đã có những nhận diện bước đầu về biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Các công trình khoa học đã chỉ ra được một số nguyên nhân dẫn đến tình hình suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên nhưng chưa phân tích làm rõ từng nguyên nhân, đặc biệt là những nguyên nhân trực tiếp, cơ bản nhất. Các công trình chưa đi sâu phân tích làm rõ biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế hiện nay; chưa chỉ ra mối liên hệ giữa âm mưu và hoạt động “diễn biến hoà bình” với quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ và suy thoái tư tưởng chính trị của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Nhiều công trình đã đề xuất được một số giải pháp nhằm khắc phục biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Tuy vậy các giải pháp còn chung, thiếu cụ thể, chưa đồng bộ, chưa chỉ ra cơ sở khoa học để đề ra và thực hiện các giải pháp. Mặt khác, không gian và đối tượng nghiên cứu của các công trình khoa học rất rộng, bao gồm phạm vi cả nước và nhiều đối tượng. Việc nghiên cứu biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên và đề ra giải pháp khắc phục biểu hiện suy thoái đó ở các địa phương nói chung, ở Hà Tĩnh nói riêng đến nay chưa có công trình khoa học nào thực hiện. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích Luận văn cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn, chỉ ra biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, từ đó đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm khắc phục biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên ở Hà Tĩnh hiện nay. 5 3.2. Nhiệm vụ Thứ nhất: Phân tích cơ sở lý luận về tư tưởng chính trị và suy thoái về tư tưởng chính trị. Thứ hai: Nhận diện biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên ở Hà Tĩnh hiện nay. Thứ ba: Đề xuất các giải pháp cơ bản để khắc phục biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên ở Hà Tĩnh hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những biểu hiện của suy thoái về tư tưởng chính trị trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: Trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. - Về thời gian: Từ năm 2006 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, chủ trương, biện pháp của tỉnh Hà Tĩnh về khắc phục biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Trong đó coi trọng các phương pháp nghiên cứu như: phân tích, tổng hợp, so sánh, logic - lịch sử, thống kê,… 6. Đóng góp của luận văn - Chỉ ra những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên ở Hà Tĩnh hiện nay. - Đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm khắc phục biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên ở Hà Tĩnh hiện nay, nhằm nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ Hà Tĩnh, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn cách mạng mới. 6 7. Ý nghĩa của luận văn Luận văn góp phần giúp các cấp uỷ Đảng đấu tranh ngăn chặn biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong tình hình hiện nay theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, học tập tại Trường Chính trị Trần Phú Hà Tĩnh và các trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu 3 chương. 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ 1.1. Một số khái niệm a.Tư tưởng Theo nghĩa chung nhất, “tư tưởng là sự suy nghĩ, hoạt động của trí tuệ nhằm một đối tượng cần thiết, cần nghiên cứu. Là toàn bộ những sản phẩm của trí tuệ hợp thành một học thuyết”. [26, tr.882] Như vậy, tư tưởng là khái niệm gắn với con người và xã hội loài người. Chỉ có con người mới có ý thức, tư tưởng. Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng là quá trình phát triển lâu dài của con người và xã hội loài người, thông qua quá trình lao động sản xuất và sự hình thành ngôn ngữ - công cụ vật chất của tư duy. Có nhiều cách phân loại về tư tưởng. Theo trình độ phát triển có tư tưởng sơ khai; tư tưởng sâu sắc, hiện đại. Theo xu thế phát triển có tư tưởng tiến bộ và tư tưởng phản tiến bộ. Theo tính chất giai cấp có tư tưởng của giai cấp thống trị, tư tưởng của giai cấp bị trị, tư tưởng phong kiến, tư tưởng tư sản, tư tưởng nông dân, công nhân. Theo phân ngành khoa học có tư tưởng triết học, tư tưởng đạo đức, tư tưởng chính trị,… b. Chính trị Chính trị là khái niệm gắn liền với giai cấp, nhà nước. Thuật ngữ chính trị theo nguồn gốc của tiếng Hi Lạp cổ đại là “politika”, tiếng Anh là “politic”, tiếng pháp là “politique”. Theo nghĩa gốc của những thuật ngữ trên thì chính trị có nghĩa là những công việc nhà nước hay những công việc xã hội. Chính trị là phạm trù phức tạp, có quan hệ đến nhiều lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, xã hội,…Tính phức tạp của chính trị bắt nguồn từ tính đa diện và sự biểu hiện rất đa dạng của chính trị trong đời sống xã hội. Do đó có nhiều quan niệm khác nhau về chính trị. 8 Thời cổ đại, ở phương Tây, quan niệm phổ biến cho rằng, chính trị là “nghệ thuật cung đình”, là các tri thức liên quan đến nhà nước và chính phủ của nhà nước ấy. Theo Platon, chính trị là công việc nhà nước, công việc xã hội, là nghệ thuật cai trị con người với sự bằng lòng của họ. Aristot thì quan niệm, chính trị là khoa học lãnh đạo con người, khoa học tổ chức xã hội. Ở phương Đông, trong Luận ngữ, Khổng Tử - nhà tư tưởng lớn của Trung Hoa cổ đại cho rằng, chính trị là sự sắp đặt, lo liệu, quản lý để xã hội có kỷ cương, nền nếp. Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, chính trị thể hiện ở những luận điểm cơ bản sau: - Chính trị là sự tham gia vào công việc của nhà nước, là sự định hướng cho nhà nước, xác định các hình thức, nhiệm vụ và nội dung hoạt động của nhà nước. - Chính trị là quan hệ lợi ích giữa các giai cấp. Quan hệ chính trị về bản chất là quan hệ giai cấp. Chính trị chỉ xuất hiện trong xã hội có giai cấp. Lợi ích của các giai cấp quy định nội dung, đặc điểm, bản chất, xu hướng vận động của chính trị. Khi giai cấp xuất hiện, mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt, đòi hỏi cần phải được giải quyết bởi tổ chức đặc biệt đó là nhà nước. - Nhà nước là bộ phận trung tâm của chính trị. Nhà nước là một bộ máy tổ chức quyền lực đặc biệt của xã hội trong điều kiện xã hội có đối kháng giai cấp. Nhà nước là hệ thống tổ chức đại biểu cho quyền lực chung của xã hội để quản lý, điều hành mọi hoạt động của xã hội và công dân, thực hiện chức năng chính trị và chức năng xã hội cùng chức năng đối nội và đối ngoại của quốc gia. Về thực chất bất cứ nhà nước nào cũng là công cụ quyền lực thực hiện chuyên chính giai cấp thống trị, giai cấp nắm giữ được những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, nó chính là chủ thể thực sự của quyền lực nhà nước. Nhà nước chỉ xuất hiện khi chế độ tư hữu ra đời và giai cấp xuất hiện. Do đó nhà nước là một hiện tượng lịch sử. Nhà nước ra đời khi có những điều kiện khách quan và cũng sẽ bị tiêu vong khi không còn các điều kiện của nó. 9 Quan điểm này phê phán chủ nghĩa duy tâm cho rằng nhà nước là ý chí quyền lực tối thượng của lực lượng siêu nhân, bất biến, vĩnh hằng. Điều căn bản nhất của chính trị là tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước như thế nào, quyền lực thuộc về ai, của quảng đại quần chúng nhân dân lao động hay chỉ nằm trong tay một nhóm người, hoặc một cá nhân. - Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Chính trị với tư cách là yếu tố của kiến trúc thượng tầng, do dó chính trị bị chi phối bởi quan hệ kinh tế, trong đó quan trọng và trực tiếp nhất là lợi ích kinh tế; phụ thuộc vào chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất. Chế độ kinh tế như thế nào thì chế độ chính trị như thế đó. Giai cấp nào chi phối về kinh tế thì cũng nắm quyền lực thống trị xã hội về mặt chính trị, tư tưởng, pháp quyền. Ngược lại, chính trị có tác động tới kinh tế, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của kinh tế. Nếu chính trị phản ánh đúng quy luật khách quan, thì sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển, và ngược lại. Do đó muốn thúc đẩy sự phát triển của xã hội trước hết phải xuất phát từ đổi mới về kinh tế. Nhưng đồng thời phải từng bước đổi mới chính trị. - Chính trị là lĩnh vực nhạy cảm. Phạm vi tác động của chính trị là rất rộng lớn, phổ biến trong quần chúng nhân dân lao động, trong mọi tầng lớp xã hội. Do đó, một quyết sách chính trị của giai cấp cầm quyền hoặc của một cá nhân chính trị sẽ có tác động rất lớn đến toàn bộ đời sống xã hội. Một chủ trương chính trị đúng đắn sẽ có tác động thúc đẩy xã hội phát triển, ngược lại sẽ kéo lùi, thậm chí có thể gây rối loạn xã hội. Vì vậy việc đưa ra các chủ trương, quyết sách chính trị phải hết sức thận trọng; phải được cân nhắc kỹ càng dựa trên những căn cứ khoa học, thực tiễn, phù hợp với quy luật vận động của xã hội. Mọi sự chủ quan, duy ý chí, nóng vội, rập khuôn, máy móc đều là những sai lầm đáng tiếc của giai cấp cầm quyền và của cá nhân chính trị. - Chính trị vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật. Chính trị là khoa học nghĩa là chính trị bao hàm hệ thống những tri thức của con người và xã hội về chính trị. Đó là những tri thức phản ánh đời sống chính trị xã hội, về quan hệ 10 giai cấp, về công tác tổ chức và quản lý nhà nước, quản lý xã hội... Do đó, trong hoạt động chính trị cần phải nắm vững và vận dụng những tri thức đó vào thực tiễn một cách có hiệu quả. Khi nói chính trị là nghệ thuật, có nghĩa trong việc tổ chức, quản lý xã hội tuyệt đối không cứng nhắc, rập khuôn, máy móc, áp đặt, chủ quan, nóng vội, duy ý chí… mà phải thật mềm dẻo, linh hoạt; kết hợp chặt chẽ giữa nguyên tắc và phương pháp trong từng thời điểm, từng hoàn cảnh cụ thể. Từ phát ngôn chính trị đến hành động phải tùy thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện cụ thể. Nếu quá cứng nhắc trong quản lý, điều hành xã hội có khi lại phản tác dụng. Vì vậy người cầm quyền cần phải thường xuyên hiểu và nắm chắc môi trường chính trị, đời sống chính trị xã hội để đưa ra quyết sách chính trị thích hợp nhất. Từ những luận điểm cơ bản nói trên, có thể rút ra khái niệm chính trị như sau: Chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia, các lực lượng xã hội trong việc giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị mà tập trung là quyền lực nhà nước. c. Tư tưởng chính trị Tư tưởng chính trị là hình thái ý thức xã hội, là yếu tố của kiến trúc thượng tầng, là hệ thống các quan điểm, quan niệm phản ánh tồn tại xã hội trên khía cạnh quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc trong việc giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước. Tư tưởng chính trị phản ánh tồn tại xã hội, nhưng không phải phản ánh một cách thụ động, một chiều. Nếu tư tưởng chính trị tiến bộ, phù hợp với quy luật vận động khách quan của xã hội thì thúc đẩy xã hội phát triển. Ngược lại, nếu tư tưởng chính trị phản tiến bộ, thì sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội. Tư tưởng chính trị là hình thái ý thức xã hội, do đó có quan hệ chặt chẽ với các hình thái ý thức xã hội khác. Ý thức chính trị bao giờ cũng là của giai cấp thống trị, do đó các hình thái ý thức khác chịu ảnh hưởng rất lớn của ý thức chính trị. Chẳng hạn, ý thức đạo đức, ý thức pháp luật, ý thức nghệ thuật 11 của một chế độ xã hội bao giờ cũng bị ảnh hưởng bởi sắc màu chính trị của giai cấp cầm quyền. Đồng thời các hình thái ý thức xã hội khác cũng có sự tác động trở lại đối với ý thức chính trị. d. Suy thoái về tư tưởng chính trị và những biểu hiện của nó Theo nghĩa chung nhất, suy thoái là sự trở nên yếu kém so với trước và ở trạng thái kéo dài [26, tr.727]. Trong quá trình vận động và phát triển, do nhiều nguyên nhân khác nhau, các sự vật, hiện tượng có thể dẫn đến tình trạng suy giảm, suy thoái, khủng hoảng và có thể ảnh hưởng đến sự tồn tại của nó. Đó là trạng thái thụt lùi, suy giảm, ngược lại với sự phát triển, tiến triển theo chiều hướng tiến bộ, tích cực. Trong cuốn “Những giải pháp và điều kiện thực hiện phòng, chống suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên” của PGS.TS Vũ Văn Phúc và PGS.TS Ngô Văn Thạo (đồng chủ biên) xác định “Suy thoái tư tưởng chính trị nói chung được hiểu là sự biến đổi về phẩm chất chính trị của mỗi người, mỗi tổ chức xã hội theo chiều hướng xấu, dẫn đến sự xa rời những nguyên tắc, quan điểm của đảng chính trị, có thể dẫn tới sự thay đổi hẳn bản chất của chúng”[ 38, tr.18]. Như vậy, suy thoái về tư tưởng chính trị không chỉ có trong cán bộ, đảng viên, trong từng cá nhân mà còn biểu hiện trong các tổ chức đảng, tổ chức chính trị - xã hội. Suy thoái tư tưởng chính trị trong cán bộ lãnh đạo, quản lý, và trong tổ chức của Đảng ở cấp càng cao thì càng nguy hiểm, vì cấp cao là cấp hoạch định đường lối, chiến lược; nếu cán bộ, tổ chức đảng ở cấp cao suy thoái thì dẫn đến chệch hướng, sai lầm đường lối, do đó nếu chậm phát hiện, khắc phục hoặc không được phát hiện và khắc phục thì có thể ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ. Trong giai đoạn hiện nay, do sự tác động mạnh mẽ của những mặt trái cơ chế thị trường, của hội nhập quốc tế, sự chống phá, mua chuộc của các thế lực bên ngoài, cơ chế quản lý và hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, nên một 12 bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có những biểu hiện khác nhau về sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống như: Phai nhạt về lý tưởng, cơ hội; tham nhũng, tham ô, hối lộ, lãng phí; quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, tự cao, tự đại, coi thường tập thể, coi thường quần chúng; lợi dụng địa vị, chức quyền, dung túng, bao che cho người thân làm ăn phi pháp, chiếm đoạt tài sản bất chính; nịnh hót cấp trên, dọa nạt cấp dưới, thành kiến, hẹp hòi, bảo thủ trì trệ; phô trương, hình thức, chạy theo thành tích, báo cáo sai sự thật; chạy danh, chạy lợi, chạy chức, chạy quyền, chạy tội; địa phương, cục bộ, bè phái; ngại khó, ngại khổ, tranh công, đổ lỗi, lợi mình, hại người; “dĩ hoà vi quý”, “gió chiều nào, che chiều ấy”, thủ tiêu đấu tranh… 1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về suy thoái tư tưởng chính trị 1.2.1. Quan điểm và những cảnh báo của Hồ Chí Minh về suy thoái tư tưởng chính trị Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất, nhà chính trị lỗi lạc của Việt Nam, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người luôn mong muốn và tích cực đấu tranh để xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, hòa bình, dân chủ, giàu mạnh, đó là một chế độ mà nhân dân lao động có quyền làm chủ thực sự, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là nhân dân, vì dân là chủ, dân làm chủ. Cán bộ là công bộc của dân. Bộ máy chính quyền đều do nhân dân lập ra. Để xây dựng nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, Người đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng cán bộ. Người cán bộ cách mạng không phải là “ông quan” mà phải là công bộc, đầy tớ trung thành của nhân dân, gần gũi nhân dân, học hỏi nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân, của Đảng, của dân tộc lên trên lợi ích cá nhân mình. Bác Hồ đặc biệt quan tâm đến công tác giáo dục cán bộ, ngăn ngừa cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Theo Người, 13 “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Vì vậy Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ. Sau khi Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời được nửa tháng, ngày 17-9-1945, trong Thư gửi các đồng chí tỉnh nhà (Nghệ An), Bác căn dặn: “Cán bộ ta nhiều người cúc cung tận tụy, hết lòng trung thành với nhiệm vụ, với chính phủ, với quốc dân. Nhưng cũng có nhiều người hủ hóa, lên mặt làm quan cách mạng, hoặc là độc hành, độc đoán, hoặc là dĩ công dinh tư. Thậm chí dùng phép công để báo thù tư, làm cho dân oán đến Chính phủ và Đoàn thể. Những khuyết điểm trên, nhỏ thì làm cho dân chúng hoang mang, lớn thì làm cho nền đoàn kết lay động. Chúng ta phải lập tức sửa đổi ngay…” [30, tr.20]. Phê phán những thói hư tật xấu trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, giáo dục cách làm người, làm cán bộ là những việc làm thường xuyên, thắm tình đồng chí, đòi hỏi phải tiến hành bền bỉ, liên tục. Ngày 17-10-1945, trong Thư gửi ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng, Bác đã nêu 6 căn bệnh của cán bộ, công chức thời bấy giờ. Đó là “trái phép” - do tư thù tư oán mà bắt bớ trái phép, tịch thu bừa bãi; “cậy thế” - cho mình là người của ban này ban nọ, rồi ngang tàng phóng túng, muốn sao được vậy; “hủ hóa”- muốn ăn ngon mặc đẹp, chi tiêu ngày càng xa xỉ, lấy của công dùng vào việc tư; “tư túng” - kéo bè kéo cánh, không tài năng gì cũng đưa vào chức này chức nọ; “chia rẽ”, bênh vực lớp này chống lại lớp kia; “kiêu ngạo” - lúc nào cũng lên mặt “quan cách mạng”, coi khinh quần chúng. Người phê phán gay gắt những “lầm lỗi rất nặng nề nói trên”, đồng thời chỉ rõ: “chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết sai lầm thì phải ra sức sửa chữa”. Sự nghiệp cách mạng phát triển, công việc ngày càng nhiều, cán bộ đảng viên tăng thêm; do ý thức tư tưởng, rèn luyện kém, không ít người đã vi phạm khuyết điểm và những khuyết điểm đó mang nặng dấu ấn của “quan cai trị”, “người cầm quyền” dưới thời kỳ thống trị của thực dân, phong kiến. 14 Sau ngày toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp tháng 12-1946, để tiến hành công cuộc chiến đấu thần thánh của nhân dân ta chống kẻ xâm lược và bè lũ tay sai, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, ngày 1-3-1947, trong Thư gửi các đồng chí Bắc Bộ, Bác đã nêu tám khuyết điểm “phải kiên quyết tẩy sạch”. Đó là: “Địa phương chủ nghĩa”, chỉ biết đến lợi ích của địa phương mình, bộ phận mình; “Óc bè phái”, nghe người, dùng người hẩu với mình; “óc quân phiệt quan liêu”, hống hách, như một “ông vua con” ở nơi mình phụ trách; “óc hẹp hòi”, không biết dùng chỗ hay của người khác và giúp họ chữa chỗ dở; “ham chuộng hình thức”, thích hình thức bề ngoài, phô trương cho oai; “làm việc lối bàn giấy”, thích làm việc kiểu giấy tờ, chỉ tay năm ngón, ít đi vào quần chúng, bám sát thực tiễn; “vô kỷ luật, kỷ luật không nghiêm”, việc dễ thì làm, khó thì bỏ, bỏ địa phương khi chiến tranh lan đến; “ích kỷ, hủ hóa”, thích ăn ngon mặc đẹp, xa hoa, chỉ lo danh lợi của bản thân mình… Những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp và bè lũ tay sai, công việc thật bộn bề, khó khăn gian khổ chồng chất, Bác cùng Bộ Chính trị tập trung mọi công sức vào công tác đối nội, đối ngoại của một chính quyền non trẻ đang còn thiếu thốn mọi bề. Cùng với việc xây dựng bộ máy kháng chiến, kiến quốc từ trên xuống dưới, Người đã dành nhiều thời gian cho việc xây dựng, rèn luyện, uốn nắn những lầm lỗi, lệch lạc của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đúc kết kinh nghiệm hoạt động của bộ máy chính quyền từ sau ngày giành được độc lập, nhất là trong gần một năm điều hành công cuộc kháng chiến, kiến quốc, tháng 10-1947, Bác cho ra đời tập sách “Sửa đổi lối làm việc”, một cẩm nang gối đầu giường của đông đảo cán bộ, đảng viên. Bác nghiêm khắc đòi hỏi từng tổ chức, từng người: “Ngay từ bây giờ, các cơ quan, các cán bộ, các đảng viên, mỗi người mỗi ngày phải thiết thực tự kiểm điểm và kiểm điểm đồng chí mình. Hễ thấy khuyết điểm phải kiên quyết tự sửa và giúp đồng chí mình sửa chữa. Phải như thế Đảng mới nhanh chóng phát triển, công việc mới chóng thành công”. Bác Hồ đã nêu lên khá nhiều khuyết điểm của không ít cán bộ, đảng viên và chỉ dẫn cách thức chữa từng căn bệnh cụ 15 thể. Những khuyết điểm đó, theo Người, có thể xếp vào ba loại: “Khuyết điểm về tư tưởng, tức là bệnh chủ quan. Khuyết điểm về sự quan hệ trong Đảng và ngoài Đảng, tức là bệnh hẹp hòi. Khuyết điểm về cách nói và cách viết, tức là ba hoa. Ba “chứng bệnh nguy hiểm” này nếu không chữa ngay để nó lây ra thì có hại vô cùng. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Bác đã nêu lên hàng loạt chứng bệnh tệ hại khác và mỗi chứng bệnh là một kẻ địch. Kẻ địch bên trong của mỗi người cán bộ, đảng viên. Người phân tích sâu sắc “Mỗi kẻ địch bên trong là một bạn đồng minh của kẻ địch bên ngoài. Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong ta đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra”. Những chứng bệnh này là bước phát triển tất nhiên của những chứng bệnh cũ. Đó là: “Bệnh nể nang”, làm ngơ trước sai lầm của người quen biết, họ hàng, thân thích; “bệnh tham lam”, tự tư tự lợi, đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích dân tộc, “bệnh lười biếng”, tự cho mình là cái gì cũng biết, việc gì cũng giỏi, lười suy nghĩ, lười học tập, dành lấy việc dễ, đẩy việc khó cho người; “bệnh kiêu ngạo”, tự cao tự đại, ham địa vị, danh vọng, hay lên mặt, thích được tâng bốc; “bệnh hiếu danh”, tự cho mình là anh hùng, quan trọng, không chịu làm những công tác thiết thực; “thiếu kỷ luật”, đặt mình lên trên tổ chức, thích sao làm vậy; “óc hẹp hòi”, khinh người, không cân nhắc người tốt, sợ người ta hơn mình; “óc lãnh tụ”, làm được một vài việc thì cho mình đáng là lãnh đạo, lãnh tụ ở địa phương, đơn vị; “bệnh hữu danh vô thực”, làm việc không thiết thực, làm cho có chuyện, làm ít nói nhiều; “kéo bè kéo cánh”, từ bè phái dẫn đến chia rẽ, hợp với mình thì dở cũng cho là hay, che đậy cho nhau; “bệnh cận thị”, không nhìn xa thấy rộng; “bệnh tị nạnh”, cái gì cũng muốn “bình đẳng”, cào bằng như nhau; “xu nịnh, a dua”, bốc thơm cấp trên và những người có quyền thế, theo gió bẻ buồm…những chứng bệnh trên bắt nguồn từ “bệnh cá nhân”, mọi suy nghĩ việc làm đều xuất phát từ lợi ích cá nhân và đặt lợi ích cá nhân lên trên hết, trước hết. Tất cả đều vì cá nhân, vì gia đình mình, vì phe nhóm mình. Bác khẳng định: mắc những căn bệnh đó là do “kém tính 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan