Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khả năng sử dụng cám gạo lên men làm thức ăn cho artemia...

Tài liệu Khả năng sử dụng cám gạo lên men làm thức ăn cho artemia

.PDF
62
228
110

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA THỦY SẢN LÊ HỒNG NGHI KHẢ NĂNG SỬ DỤNG CÁM GẠO LÊN MEN LÀM THỨC ĂN CHO ARTEMIA LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2009 1 TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA THỦY SẢN LÊ HỒNG NGHI KHẢ NĂNG SỬ DỤNG CÁM GẠO LÊN MEN LÀM THỨC ĂN CHO ARTEMIA LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN CÁN BỘ HƯỚNG DẪN NGUYỄN THỊ HỒNG VÂN NGUYỄN VĂN HÒA 2009 2 LỜI CẢM TẠ Trong quá trình thực hiện đề tài nhờ sự chỉ dẫn tận tình của quý thầy cô cùng sự giúp đỡ của các anh chị và các bạn thuộc khoa Thủy Sản trường Đại Học Cần Thơ, tôi mới có thể hoàn thành khóa học của mình cũng như viết cuốn Luận văn Tốt nghiệp Đại Học này. Nhân đây, xin gửi lời cám ơn chân thành nhất đặc biệt đến:  Ths. Nguyễn Thị Hồng Vân.  Ts. Nguyễn Văn Hòa.  Các anh chị thuộc Trung tâm Ứng dụng và Chuyển giao Công NghệTrường Đại học Cần Thơ.  Các anh chị thuộc Bộ môn Dinh dưỡng-Trường Đại học Cần Thơ.  Tập thể lớp Nuôi Trồng Thủy Sản K31-Trường Đại học Cần Thơ. Do kiến thức còn hạn chế và thời gian có hạn nên Luận văn còn nhiều điểm thiếu sót. Rất mong quý thầy cô và các bạn đóng góp ý kiến để luận văn được hoàn chỉnh hơn. i TÓM TẮT Đề tài tập trung đánh giá khả năng sử dụng cám gạo ủ men (Saccharomyces ceverisiae) làm thức ăn cho Artemia. Các hàm lượng (HL) men dùng để ủ cám gồm: 0,5; 0,7; 1; 1,2; 1,5 và 2 ppm (có hoặc không có bổ sung đường). Kết quả cho thấy, HL men từ 0,5 – 1ppm khá thích hợp để sử dụng cho việc ủ cám thông qua độ nở, hiệu quả sử dụng và mùi thơm đặc trưng của cám ủ. Trong thí nghiệm thứ hai về ảnh hưởng của cám gạo ủ men lên sinh trưởng và phát triển của quần thể Artemia cho thấy: 1) Cả 6 loại cám ủ men đều có thể sử dụng làm thức ăn cho Artemia tuy nhiên HL men 0,7- 1 ppm, không đường nên được chọn để sử dụng vì cho tỷ lệ sống (TLS) cao nhất (52,7-55,8 %), phù hợp nuôi sinh khối Artemia ở các thể tích lớn (lượng sinh khối thu đạt 23,8-25,1 g sinh khối tươi/10 L). Vào ngày nuôi thứ 14, cám ủ men không đường khi sử dụng làm thức ăn cho Artemia thì cho TLS khá ổn định giữa các lần lặp lại (độ lệch chuẩn biến thiên từ 0,7-5,3), cao hơn (từ 39,7-55,8%) nhưng cho tăng trưởng chậm hơn (từ 5,96-5,99 mm) so với cám ủ men có đường (từ 6,02-6,69 mm). Ngược lại, cám ủ men có đường thì có TLS biến động giữa các lần lặp lại (độ lệch chuẩn biến thiên từ 3,37,7) và thấp hơn (từ 38,1-46,5 %), tuy nhiên lại có tăng trưởng tốt hơn so với ủ men thông thường. ii MỤC LỤC MỤC LỤC--------------------------------------------------------------------------------- iii DANH SÁCH BẢNG -------------------------------------------------------------------- v DANH SÁCH HÌNH -------------------------------------------------------------------- vi Phần 1: GIỚI THIỆU ------------------------------------------------------------------ 1 Phần 2: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU ---------------------------------------------------- 3 A. Artemia là gì?--------------------------------------------------------------------------- 3 2.1. Đặc điểm phân loại -------------------------------------------------------------- 3 2.2. Đặc điểm phân bố---------------------------------------------------------------- 3 2.3. Đặc điểm môi trường sống------------------------------------------------------ 4 2.4. Hình thái vòng đời của Artemia------------------------------------------------ 5 2.4.1. Đặc điểm về hình thái ----------------------------------------------------- 5 2.4.2. Vòng đời của Artemia----------------------------------------------------- 6 2.5. Đặc điểm môi trường sống và dinh dưỡng ----------------------------------- 8 2.6. Đặc điểm sinh sản Artemia ----------------------------------------------------- 9 2.7. Quá trình di nhập----------------------------------------------------------------10 2.8. Tình hình sản xuất và sử dụng Artemia trên thế giới và Việt Nam ------10 2.8.1. Thế giới --------------------------------------------------------------------10 2.8.2. Việt Nam-------------------------------------------------------------------11 B. Sơ lược về nấm men (Saccharomyces ceverisiae) ------------------------------11 2.9. Phân loại--------------------------------------------------------------------------11 2.10. Giá trị dinh dưỡng của nấm men --------------------------------------------12 2.11. Làm giàu thêm đạm cho thực phẩm tinh bột và thức ăn gia súc --------13 2.12. Cám gạo-------------------------------------------------------------------------13 Phần 3: VẬT LIỆU VÀ PHUƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU---------------------15 A. VẬT LIỆU NGHIÊN CỨU --------------------------------------------------------15 3.1. Dụng cụ, vật tư và hoá chất----------------------------------------------------15 3.2. Nguồn trứng giống Artemia ---------------------------------------------------15 3.3. Nguồn nước----------------------------------------------------------------------15 3.4. Thức ăn ---------------------------------------------------------------------------15 3.5 Thời gian và địa điểm -----------------------------------------------------------15 B. PHUƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ------------------------------------------------- 16 3.6. Phương pháp bố trí thí nghiệm ------------------------------------------------16 3.6.1. Thí nghiệm 1: Xác định hàm lượng (HL) men và đường thích hợp để ủ cám gạo ----------------------------------------------------------16 3.6.2. Thí nghiệm 2: Ảnh hưởng của cám gao ủ men êl n sinh trưởng và phát triển của quần thể Artemia------------------------------------17 3.7. Phương pháp làm thức ăn và cách cho ăn -----------------------------------18 3.8. Chế độ chăm sóc ----------------------------------------------------------------19 3.9. Phương pháp thu thập số liệu--------------------------------------------------20 3.9.1. Các yếu tố môi trường ---------------------------------------------------20 iii 3.9.2. Các chỉ tiêu khác----------------------------------------------------------20 3.10. Thử nghiệm nuôi sinh khối Artemia----------------------------------------21 3.11. Phương pháp phân tích số liệu ----------------------------------------------21 Phần 4: KẾT QUẢ THẢO LUẬN ---------------------------------------------------22 4.1. Thí nghiệm 1: Xác định hàm lượng (HL) men và đường thích hợp để ủ cám gạo--------------------------------------------------------------------22 4.1.2. Độ nở thức ăn-------------------------------------------------------------22 4.1.2. Hiệu quả sử dụng---------------------------------------------------------23 4.2. Thí nghiệm 2: Ảnh hưởng của các loại cám ủ lên tỉ lệ sống của Artemia ---------------------------------------------------------------------------24 4.2.1. Điều kiện môi trường ----------------------------------------------------24 4.2.2. Ảnh hưởng của các loại cám ủ lên tỉ lệ sống của Artemia ---------26 4.2.3. Chiều dài (mm) -----------------------------------------------------------27 4.2.4. Mật độ và thành phần quần thể-----------------------------------------28 4.2.5. Năng suất sinh khối ------------------------------------------------------33 4.2.6. Sức sinh sản ---------------------------------------------------------------34 4.2.7. Phương thức sinh sản ----------------------------------------------------35 4.3 Thử nghiệm nuôi sinh khối Artemia ----------------------------------------36 Phần 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT -------------------------------------------------37 5.1. KẾT LUẬN ----------------------------------------------------------------------37 5.2. ĐỀ XUẤT------------------------------------------------------------------------37 TÀI LIỆU THAM KHẢO-------------------------------------------------------------38 PHỤC LỤC ------------------------------------------------------------------------------40 iv DANH SÁCH BẢNG Bảng 3.1: Sơ đồ thí nghiệm 1 -----------------------------------------------------------16 Bảng 3.2: Sơ đồ thí nghiệm 2 -----------------------------------------------------------17 Bảng 4.1: Thể tích tăng (ml) của cám ủ men sau 24h--------------------------------22 Bảng 4.2: Hiệu quả sử dụng (%) của cám ủ men -------------------------------------23 Bảng 4.3: Nhiệt độ trung bình ± độ lệch chuẩn (ĐLC) ------------------------------25 Bảng 4.4: pH trung bình ± ĐLC --------------------------------------------------------26 Bảng 4.5: TLS (%) của Artemia theo ngày (Trung bình ± ĐLC)-------------------26 Bảng 4.6: Trung bình chiều dài Artemia (mm) ± ĐLC qua các ngày nuôi -------27 Bảng 4.7: Mật độ (con/L) của các NT trong 5 tuần nuôi ----------------------------29 Bảng 4.8: Mật độ (con/L) và thành phần quần thể Artemia ở NT I trong 5 tuần nuôi-----------------------------------------------------------------------------49 Bảng 4.9: Mật độ (con/L) và thành phần quần thể Artemia ở NT II trong 5 tuần nuôi-----------------------------------------------------------------------------49 Bảng 4.10: Mật độ (con/L) và thành phần quần thể Artemia ở NT III trong 5 tuần nuôi --------------------------------------------------------------------------50 Bảng 4.11: Mật độ (con/L) và thành phần quần thể Artemia ở NT IV trong 5 tuần nuôi -------------------------------------------------------------------50 Bảng 4.12: Mật độ (con/L) và thành phần quần thể Artemia ở NT V trong 5 tuần nuôi --------------------------------------------------------------------------50 Bảng 4.13: Mật độ (con/L) và thành phần quần thể Artemia ở NT VI trong 5 tuần nuôi -------------------------------------------------------------------50 Bảng 4.14: Mật độ (con/L) và thành phần quần thể Artemia ở NT VII trong 5 tuần nuôi -------------------------------------------------------------------51 Bảng 4.15: Khối lượng sinh khối Artemia sau 5 tuần nuôi--------------------------33 Bảng 4.16: Sức sinh sản trung bình ± ĐLC của Artemia (số phôi/con cái) -------34 Bảng 4.17: Tỷ lệ (%) ± ĐLC con cái mang túi ấp đẻ Nauplii và cyst ----------- 531 Bảng 4.18 : Kết quả TLS (%) của Artemia và khối lượng sinh khối (g) của Artemia sau 14 ngày nuôi ---------------------------------------------------------------36 v DANH SÁCH HÌNH Hình 2.1: Bản đồ phân bố Artemia trên thế giới --------------------------------------- 4 Hình 2.2: Lược đồ sự phát triển của quần thể Artemia trên ruộng muối (theo Sorgeloos và ctv., 1996)----------------------------------------------------- 5 Hình 2.3: Hình dạng của Artemia trưởng thành --------------------------------------- 6 Hình 2.4 : Vòng đời của Artemia (theo Sorgeloos và ctv., 1980) ------------------- 6 Hình 2.5: Trứng đang nở------------------------------------------------------------------ 7 Hình 2.6: Artemia bung dù---------------------------------------------------------------- 7 Hình 2.7: Artemia ở Instar I -------------------------------------------------------------- 7 Hình 2.8: Artemia cái và đực ------------------------------------------------------------- 8 Hình 2.9: Sự bắt cặp của Artemia-------------------------------------------------------- 9 Hình 2.10: Saccharomyces ceverisiae--------------------------------------------------12 Hình 3.1: Hệ thống thí nghiệm ----------------------------------------------------------18 Hình 3.2: Men bánh mì trong bao bì ---------------------------------------------------18 Hình 3.3: Lưới lọc thức ăn 50 µm ------------------------------------------------------19 Hình 3.4: Thức ăn được trữ lạnh--------------------------------------------------------19 Hình 3.5: Một số dụng cụ đo môi trường ----------------------------------------------20 Hình 4.1: Thể tích (ml) của cám ủ men sau 24h --------------------------------------40 Hình 4.2: Hiệu quả sử dụng (%) của cám ủ men -------------------------------------41 Hình 4.3: Biến động nhiệt độ trung bình trong 5 tuần nuôi -------------------------42 Hình 4.4: Biến động pH sáng chiều ----------------------------------------------------44 Hình 4.5: Tỷ lệ sống trung bình của Artemia sau 7 và 14 ngày nuôi -------------45 Hình 4.6: Trung bình chiều dài Artemia (mm) ± ĐLC qua các ngày nuôi --------49 Hình 4.7: Biến động mật độ (con/L) và thành phần quần thể Artemia ở NT I trong 5 tuần nuôi -------------------------------------------------------------30 Hình 4.8: Biến động mật độ (con/L) và thành phần quần thể Artemia ở NT II trong 5 tuần nuôi ------------------------------------------------------------30 Hình 4.9: Biến động mật độ (con/L) và thành phần quần thể Artemia ở NT III trong 5 tuần nuôi -----------------------------------------------------------30 Hình 4.10: Biến động mật độ (con/L) và thành phần quần thể Artemia ở NT IV trong 5 tuần nuôi-----------------------------------------------------------31 Hình 4.11: Biến động mật độ (con/L) và thành phần quần thể Artemia ở NT V trong 5 tuần nuôi------------------------------------------------------------31 Hình 4.12: Biến động mật độ (con/L) và thành phần quần thể Artemia ở NT VI trong 5 tuần nuôi-----------------------------------------------------------31 Hình 4.13: Biến động mật độ (con/L) và thành phần quần thể Artemia ở NT VII trong 5 tuần nuôi----------------------------------------------------------32 Hình 4.14: Khối lượng sinh khối Artemia sau 5 tuần nuôi --------------------------33 Hình 4.15: Tỷ lệ (%)±ĐLC con cái mang túi ấp đẻ Nauplii và cyst ---------------41 vi Phần 1 GIỚI THIỆU Trong số những nguồn thức ăn tươi sống được sử dụng trong ngành nuôi trồng thủy sản thì ấu trùng Artemia được sử dụng rất rộng rãi do những thuận tiện và giá trị mà chúng mang lại. Không có gì ngạc nhiên khi khả năng đẻ trứng hay còn gọi là bào nang (cyst) làm cho Artemia trở thành nguồn thức ăn tiện lợi và dồi dào cho ấu trùng cá (Dhont, 1993). Sau khi thu hoạch và xử lý, trứng ở trạng thái tiềm sinh có thể được trữ trong nhiều năm và đem ra sử dụng như là “nguồn thức ăn tươi sống luôn có sẵn”. Sự thuận tiện và đơn giản của việc ấp làm cho Artemia trở thành nguồn thức ăn tươi sống thuận tiện nhất trong ngành chăn nuôi thủy sản (Ts Frank Marini - nguồn www.advancedaquarist.com). Ngoài ra, Artemia là loại thức ăn giàu dinh dưỡng và giàu lượng acid béo không bão hòa (HUFA). Trong thực tế thức ăn tươi sống có nguồn gốc động vật là loại thức ăn cung cấp nhiều năng lượng vì nó chứa nhiều chất dinh dưỡng thiết yếu góp phần nâng cao tỷ lệ sống của các đối tượng thuỷ sản mà thức ăn chế biến không thể đáp ứng tốt. Artemia có hàm lượng dinh dưỡng rất cao, 40-70% protein, 10-30% lipid, nhiều acid béo và các acid amin cần thiết (Leger et., 1985). Ngoài ra, Artemia còn có ưu thế là ít gây ô nhiễm môi trường nước nuôi so với việc sử dụng các loại thức ăn nhân tạo. Hơn nữa, quá trình phát triển của Artemia từ giai đoạn nauplii đến giai đoạn trưởng thành có các kích cỡ khác nhau có thể làm thức ăn thích hợp cho từng giai đoạn phát triển của ấu trùng tôm cá, như Sorgeloos và et al. (1982) đã nhận định: “Artemia là loại thức ăn thích hợp cho nhiều loại cá nước lợ vì giá trị dinh dưỡng cao và dễ sử dụng”. Ngoài dạng sinh khối có thể sử dụng làm thức ăn tươi sống trực tiếp cho tôm cá, trứng bào xác của Artemia (Cyst) có thể dự trữ được nhiều năm ở dạng sấy khô để đáp ứng nhu cầu cho các thị trường trong và ngoài nước với giá khá cao. Artemia là loại sinh vật có khả năng chịu đựng những điều kiện khắc nghiệt của môi trường (như nhiệt độ, độ mặn, oxy…), chúng có tập tính sống trôi nổi. Và ăn lọc không chọn lựa (Reeve, 1963), và có thể sử dụng nhiều loại thức ăn khác nhau (Sorgcloos et al., 1986). Ở giai đoạn ấu trùng chúng có thể sử dụng thức ăn có kích cỡ 25-30µm và tăng lên 40-50µm khi đạt đến kích cỡ trưởng thành (Dobbeleir et al., 1980). 1 Thức ăn của Artemia mặc dù tốt nhất là tảo tươi, tuy nhiên với thực tế đồng ruộng thì loại thức ăn này không thể cung cấp đủ lượng để đảm bảo cho sinh trưởng và sinh sản của quần thể Artemia nhất là vào những ngày mưa bão hoặc không có nắng. Trong thực tiễn nông dân sử dụng các loại phụ phẩm nông nghiệp chủ yếu là cám gạo để làm thức ăn cho Artemia, tuy nhiên theo Nguyễn Văn Hòa và ctv. (2007) thì hiệu quả sử dụng chỉ khoảng 20%. Để tăng hiệu quả sử dụng, ủ cám với men là một phương pháp trong chăn nuôi gia súc đã được sử dụng nhiều nhưng đối với thủy sản vẫn còn rất ít tài liệu được công bố. Để tìm hiểu hiệu quả sử dụng cám gạo ủ men làm thức ăn cho Artemia nhằm hướng tới việc bổ sung một nguồn thức ăn có hiệu quả cả về kinh tế lẫn sử dụng, đề tài “Khả năng sử dụng cám gạo lên men làm thức ăn cho Artemia” được thực hiện với mong muốn sẽ có những đóng góp nhất định cho sự phát triển của nghề nuôi Artemia. Mục tiêu nghiên cứu Nghiên cứu ảnh hưởng của cám gạo ủ men (Saccharomyces cerevisiae) và hiệu quả sử dụng của nó khi làm thức ăn cho Artemia và thấy được tác dụng của việc thêm đường trong quá trình ủ cám nhằm kích thích sự phát triển của vi khuẩn, từ đó đưa ra một công thức ủ cám với hàm lượng men và lượng đường thích hợp nhằm tăng khả năng sử dụng đối với Artemia. Nội dung nghiên cứu o Xác định hàm lượng men (Saccharomyces cerevisiae) và đường tốt nhất để ủ cám làm thức ăn cho Artemia. o Theo dõi các chỉ tiêu sinh trưởng, tỷ lệ sống, sự phát triển của quần thể, sức sinh sản và lượng sinh khối thu của Artemia khi sử dụng cám gạo ủ men với các hàm lượng khác nhau. 2 Phần 2 LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU A. Artemia là gì? 2.1. Đặc điểm phân loại Theo Nguyễn Văn Hoà và ctv. (2007), Artemia là tên Latin của một loại giáp xác nhỏ chuyên sống ở những vùng nước mặn có biên độ muối rộng (từ vài %o đến 250 %o như ruộng muối), có tên và vị trí trong hệ thống phân loại như sau: Ngành: Arthropoda. Lớp: Crustacea. Lớp phụ: Branchiopoda. Bộ: Anostraca. Họ: Artemiidae. Giống: Artemia, Leach (1819). Các thí nghiệm lai chéo đã chỉ ra sự khác biệt giữa các quần thể Artemia và sự ghi nhận các loài anh em theo các tên gọi khác nhau. Giữa các dòng Artemia lưỡng tính hoặc dị hợp tử (quần thể bao gồm con dực và con cái) có tất cả sáu loài anh em như sau: Artemia salina : Lymington (Anh quốc, bây giờ đã tuyệt giống) Artemia tunisiana: Châu Âu Artemia franciscana: Châu Mỹ (Bắc, Trung và Nam Mỹ) Artemia perrsimilis: Achentina Artemia urmiana: Iran Artemia monica: Mono Lake, CA- USA 2.2 Đặc điểm phân bố Artemia được tìm thấy ở 500 hồ tự nhiên và nhân tạo trên thế giới, rãi rác khắp vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới và ôn đới. Chúng có khả năng thích nghi với biên độ nhiệt độ khác nhau từ 6 oC đến 35 oC và với nồng độ muối tới 250 %o (Nguyễn Văn Hoà và ctv., 2007). Tuy vậy, Artemia lại không có trong tự nhiên ở khu vực Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng do ảnh hưởng của chế độ gió mùa, thủy vực không có độ mặn cao và có nhiều sinh vật thù địch (Nguyễn Văn Hoà và ctv.,1994). 3 Sự phân bố của Artemia được chia làm hai nhóm:  Những loài bản địa tồn tại tồn tại từ rất lâu trong các hồ, vịnh tự nhiên được gọi là những loài Cựu thế giới (Old World).  Những loài thuộc về Tân thế giới (New World) là những loài mới xuất hiện ở những vùng trước đây không có sự hiện diện của Artemia. Sự có mặt của chúng là do người, chim hoặc là gió tạo ra mà tiêu biểu là loài Artemia franciscana (đại diện cho loài Artemia Tân thế giới) đã được sử dụng rộng rãi để thả nuôi ở nhiều ruộng muối trên khắp các lục địa. Sự phân bố Artemia trên thế giới Hình 2.1: Bản đồ phân bố Artemia trên thế giới (nguồn www.Palaeos.com/Invertebrates/Crustacea.html) 2.3. Đặc điểm môi trường sống Các quần thể Artemia trong tự nhiên phân bố không liên tục mà thành từng vùng Artemia có thể sinh sống tốt trong nước biển tự nhiên (độ muối 35 %o), nhưng chúng không thể phát tán ngang qua biển do có quá nhiều loài cạnh tranh và địch hại (tôm, cá, copepode….). Vì thế Artemia phân bố chủ yếu ở vùng nước có độ mặn cao (trên 70 %o) để hạn chế kẻ thù. Chúng có thể sống ở độ mặn gần bão hòa (250 %o). Sự thích nghi của chúng với độ mặn cao theo một cơ chế bao gồm: Hệ thống điều hòa thẩm thấu tốt. Khả năng tổng hợp các sắc tố hô hấp cao nhằm thích ứng với tình trạng oxy thấp ở nơi có độ mặn cao. Khả năng sản xuất trứng bào xác khi môi trường bất lợi. 4 Hình 2.2: Lược đồ sự phát triển của quần thể Artemia trên ruộng muối (theo Sorgeloos và ctv., 1996) Các dòng Artemia khác nhau thích nghi rộng với sự biến đổi môi trường sống khác nhau đặc biệt là nhiệt độ (6-35 oC), độ muối (độ mặn của nước) và thành phần ion của môi trường sống. Ở các thủy vực nước mặn với muối NaCl là thành phần chủ yếu tạo nên các sinh cảnh Artemia ven biển và các sinh cảnh nước mặn khác nằm sâu trong đất liền, chẳng hạn hồ Great Salt Lake (GSL) ở Utah, Mỹ. Các sinh cảnh Artemia khác không có nguồn gốc từ biển nằm sâu trong lục địa có thành phần ion khác rất nhiều so với vực nước biển: Vực nước sulphate (Chaplin lake, Saskatchewan, Canada), vực nước carbonate (Mono lake, Califonia, Mỹ), và các khu vực nước giàu lân (rất nhiều hồ ở Nebraska, Mỹ). 2.4. Hình thái vòng đời của Artemia 2.4.1. Đặc điểm về hình thái Artemia thân có dạng hình ống tròn, cơ thể có phân đốt, không vỏ đầu ngực, phần đầu ngắn nhỏ, giữa phần trước có một đôi mắt đơn gọi là mắt giữa, hai bên mắt giữa là một đôi mắt kép. Đốt cuối của bộ phận bụng và đốt cuối của đốt đuôi có một chục đuôi hình lá, chân bụng của Artemia có khoảng 10 đôi mọc hai bên thân có dạng lá. 5 Hình 2.3: Hình dạng của Artemia trưởng thành (nguồn www.Palaeos.com/Invertebrates/Crustacea.html) 2.4.2 Vòng đời của Artemia Artemia có vòng đời ngắn (ở điều kiện tối ưu có thể phát triển thành con trưởng thành sau 7-8 ngày nuôi), sức sinh sản cao (Sorgeleloos, 1980; Jumalon et al., 1982) và quần thể Artemia luôn luôn có hai phương thức sinh sản đẻ trứng và đẻ con (Browne et al., 1984). Con cái mang trứng bào xác hoặc ấu trùng Nauplii Trứng bào xác Bắt cặp Ấu trùng mới nở Artemia Ấu trùng qua các giai đoạn lột xác trưởng thành Hình 2.4 : Vòng đời của Artemia (theo Sorgeloos et al., 1980) 6 Ngoài tự nhiên, Artemia đẻ trứng bào xác nổi trên mặt nước và được sóng gió thổi dạt vào bờ. Các trứng nghỉ này ngưng hoạt động trao đổi chất và ngưng phát triển khi được giữ khô. Nếu cho vào nước biển hoặc khi điều kiện tự nhiên thuận lợi (nhiệt độ ấm áp, mưa nhiều độ mặn giảm...), trứng bào xác có hình cầu lõm sẽ hút nước phồng to. Lúc này, bên trong trứng sự trao đổi chất bắt đầu hoạt động (Vos và Rosa, 1980). Sau khoảng 20h, màng nở bên ngoài nứt ra và phôi xuất hiện. Phôi được màng nở bao quanh trong khi phôi đang treo bên dưới vỏ trứng, sự phát triển của ấu trùng tiếp tục và một thời gian ngắn sau đó màng nở bị phá vỡ và ấu thể Artemia được phóng thích ra ngoài. Hình 2.5: Trứng đang nở Hình 2.6: Artemia bung dù Ấu trùng Artemia mới nở (instar I, có chiều dài 400-500 µm) có màu vàng cam, có một mắt nauplii (ấu thể) màu đỏ ở phần đầu và 3 đôi phụ bộ (anten I có chức năng cảm giác, anten II có chức năng bơi lội và lọc thức ăn, và bộ phận hàm dưới để lọc thức ăn). Ấu trùng giai đoạn I không tiêu hoá được thức ăn, vì bộ máy tiêu hóa chưa hoàn chỉnh, chúng sống nhờ vào noãn hoàng. Hình 2.7: Artemia ở Instar I Sau khoảng 8-10 giờ lúc nhỏ, ấu trùng lột xác thành giai đoạn (instar II), lúc này chúng có thể tiêu hoá được các hạt thức ăn cỡ nhỏ (tế bào tảo, vi khuẩn, chất vẩn) có kích thước từ 1-50 µm, và lúc này bộ máy tiêu hóa đã hoạt động. Ấu trùng tăng trưởng qua 15 lần lột xác trước khi đạt giai đoạn trưởng thành. Hình 2.5; 2.6; 2.7 nguồn http://diendancacanh.com/forum/show thread.php?t=129 7 Artemia trưởng thành dài khoảng 10-12 mm (tuỳ dòng). Tuổi thọ trung bình của cá thể Artemia trong các ao nuôi ở ruộng muối khoảng 40-60 ngày tuỳ thuộc điều kiện môi trường nuôi (nhiệt độ, độ mặn, thức ăn …) (Nguyễn văn Hòa et al., 1994). Từ giai đoạn 10 ngày trở đi, Artemia có sự thay đổi đáng kể về hình thái và chức năng. Râu mất dần chức năng ban đầu của chúng và có sự khác biệt ở cá thể đực, cái. Con đực, râu phát triển thành mấu bám trong khi ở con cái râu phát triển thành phụ bộ cảm giác. Con đực có một cặp cơ quan giao cấu ở phần sau của vùng thân. Ở con cái có đôi buồng trứng nằm ở hai bên ống tiêu hoá sau các chân ngực. Con đực Con cái Hình 2.8: Artemia cái và đực (www.novalex.com/kordon/Frozen_Brine_Shrimp index2htm&63 2.5. Đặc điểm môi trường sống và dinh dưỡng Động vật này có tập tính sống trôi nổi, bơi lội tự do trong môi trường nước mặn, có đặc tính ăn lọc không chọn lọc (Reeve, 1963) và chúng có thể sử dụng nhiều loại thức ăn khác nhau (Sorgeloos et al., 1986). Ở giai đoạn ấu trùng chúng có thể sử dụng thức ăn có kích cỡ 25-30 µm và 40-50 µm khi trưởng thành (Dobbeleir et al., 1980), và chúng có khả năng lọc các vật chất lơ lửng trong nước (mùn bã hữu cơ, vi khuẩn, tế bào tảo đơn bào). Ở phạm vi kích thước nhỏ hơn 50µm (Sorgeloos et al., 1986). Chúng bắt mồi bằng cách dùng chân bơi đưa thức ăn từ dưới lên miệng (trích dẫn từ Nguyễn Đại Khoa, 1999). Ở ruộng nuôi thức ăn cho Artermia chủ yếu dựa vào việc bón phân gây màu tảo trực tiếp (trong ao nuôi) hoặc gián tiếp (ao gây nuôi) (Rothis,1986). Ngoài ra chúng còn sử dụng các phụ phẩm như: 8 bột đậu nành, cám gạo. Đặc biệt động vật này còn có khả năng chịu đựng những điều kiện khắc nghiệt của môi trường như sự biến động lớn của các yếu tố: nhiệt độ, hàm lượng oxy, nồng độ muối (Sorgeloos et al., 1980). Ở Việt Nam hiện nay đang nuôi rộng rãi Artemia thuộc dòng Franciscana FSB (Mỹ), gần như loài này đã được thuận hoá với môi trường nước ta, chúng có thể phát triển tốt trong điều kiện:  Độ mặn: 80-120 %o.  Nhiệt độ: 22-35 oC.  Oxy hoà tan: không thấp hơn 2 mg/L.  pH từ trung tính đến kiềm (7,0-9,0). 2.6. Đặc điểm sinh sản Artemia Trước khi giao phối, con đực bắt cặp với con cái bằng đôi râu của nó tại lỗ sinh dục và đôi chân ngực cuối cùng. Chúng bơi lội xung quanh vài ngày, sự giao phối xảy ra rất nhanh khi con đực uốn cong bụng về phía trước và đưa cơ quan giao phối vào lỗ sinh dục của con cái. Hình 2.9: Sự bắt cặp của Artemia http://diendancacanh.com/fỏum/show thread.php?t=129 Trứng thụ tinh phát triển thành ấu trùng bơi lội tự do trong nước. Khi điều kiện thích hợp, tuyến vỏ hoạt động và tiết sản phẩm bài tiết màu nâu làm trứng nổi trên mặt nước và tấp vào bờ khô lại thành trứng nghỉ. Trong điều kiện thích hợp, Artemia có thể sống nhiều tháng. Chúng phát triển từ nauplii đến trưởng thành trong vòng 8 ngày. Theo Sorgeelos (1980), Artemia phát triển thành con trưởng thành sau 2 tuần nuôi và bắt đầu tham gia sinh sản. Trong vòng đời con cái có thể tham gia cả 2 phương 9 thức sinh sản (phương thứ đẻ con = ovovivipaorus, phương thứ đẻ trứng = ovipaorus) và trung bình mỗi con đẻ khoảng 1500-2500 phôi. 2.7. Quá trình di nhập Ở Việt Nam Artemia được du nhập từ đầu thập niên 80 dưới dạng trứng bào xác để làm thức ăn cho tôm càng xanh. Sau đó nguồn trứng này được sử dụng làm giống nuôi thử nghiệm trong phòng và thả nuôi trong ruộng muối ở Vĩnh Châu, Bạc Liêu, Cam Ranh, Phan Thiết…(Nguyễn Văn Hoà và ctv, 2007). Mặc dù là đối tượng rất mới so với các nghề nông nghiệp khác ở vùng Đồng Bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), nhưng với sự hình thành Trung Tâm Nghiên Cứu và Phát Triển Artemia – Tôm Trường Đại học Cần Thơ, việc nghiên cứu ứng dụng sản xuất Artemia ở vùng ĐBSCL được thực hiện một cách liên tục và có hệ thống. Cùng với sự giúp đỡ, hợp tác về tài chính, kiến thức, kinh nghiệm của các đơn vị nghiên cứu truyền thống về Artemia trên thế giới, đến khoảng năm 1990 thì Viện Nghiên Cứu và Phát Triển Artemia – Tôm Đại Học Cần Thơ đã xây dựng và triển khai ứng dụng “Quy trình kỹ thuật sản xuất Trứng và Sinh Khối Artemia trên ruộng muối”. Thành công trong nghiên cứu và mở rộng ở nhiều vùng như ruộng muối huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu. Nghề nuôi Artemia đã trở thành quen thuộc và đạt hiệu quả kinh tế ngày càng cao (Nguyễn Kim Quang và ctv, 1993). 2.8. Tình hình sản xuất và sử dụng Artemia trên thế giới và Việt Nam 2.8.1 Thế giới Phần lớn lượng trứng bào xác thu hoạch trên thế giới đều có nguồn gốc từ Great Salt Lake (90%). Những năm trở lại đây nghề nuôi Artemia trên thế giới đang có chiều hướng phát triển và mở rộng ra những địa bàn mới, cụ thể là ở khu vực ruộng muối Brazil, sau những thành công bước đầu, sản lượng trứng bào xác bắt đầu tụt giảm từ năm 1982 cho đến nay chưa cải thiện được. Ước tính lượng tiêu thụ bào xác Artemia lên đến hàng nghìn tấn hàng năm (năm 1997, khoảng 6000 trại giống có nhu cầu tiêu thụ 1500 tấn trứng bào xác Artemia hàng năm) (Nguyễn Văn Hoà và ctv., 2007). Tuy nhiên, rất khó xác định được chính xác lượng trứng sản xuất do các thông tin ghi nhận được còn rất hạn chế. Những vùng sản xuất trứng bào xác với vi mô nhỏ mặc dù rất thành công về mặt kỹ thuật ở nhiều quốc gia Đông Nam Á và Mỹ 10 Latinh (Sorgeloos,1987), vẫn chưa được khẳng định sẽ góp phần một cách đáng kể vào nguồn cung cấp trứng bào xác trên thế giới (Lavens và Sorgeloos, 2000). Vì nó chỉ chiếm khoảng 2% tổng lượng trứng sản xuất ra hàng năm trên thế giới. Đối với những quy trình sản xuất trên quy mô lớn mặc dù đã có những thành công nhất định nhưng vẫn còn nhiều bất cập xung quanh vấn đề nuôi Artemia cần phải được giải quyết trong thời gian sắp tới. 2.8.2 Việt Nam Ở Việt Nam nghề nuôi Artemia mang tính đặc thù của vùng Duyên Hải, gắn liền với nhu cầu phát triển của nghề nuôi tôm, đặt biệt trong đầu thập niên 1980, Artemia bắt đầu được nghiên cứu và thử nghiệm nuôi ở các vùng biển thuộc tỉnh Cam Ranh, Khánh Hoà, Nha Trang, Bạc Liêu, Sóc Trăng…(Nguyễn Kim Quang và ctv., 1993). Năm 1984, thông qua chương trình hợp tác Quốc tế, khoa Thuỷ Sản, Trường Đại Học Cần Thơ đã nhập nội và nghiên cứu Artemia SanFrancisco Bay (SFB, Mỹ). Đến năm 1989, quy trình nuôi Artemia thu trứng bào xác dần dần ổn định và từng bước được gây nuôi và phát triển mạnh ở Bạc Liêu, Vĩnh Châu. Từ năm 1996 đến nay, hoạt động nghiên cứu Artemia được sự tài trợ của tổ chức VLIR (Bỉ) để tiếp tục quy trình nuôi tăng năng suất. Hiện nay, cũng với chương trình hợp tác với tổ chức VLIR (Bỉ), khoa Thuỷ Sản đang tiến hành nghiên cứu thử nghiệm sản xuất Artemia ở ruộng muối Vĩnh Châu. B. Sơ lược về nấm men (Saccharomyces ceverisiae) 2.9 Phân loại Ngành phụ nấm nang (Ascomicotina= lớp Ascomycetes) Lớp: Hemiascomycetes Bộ : Endomycetales Họ: Saccharomycetaceae Giống: Saccharomyces Loài: Saccharomyces ceverisiae 11 Giống [Chi] Saccharomyces có khoảng 40 loài (van der Wart, 1970) và các loài trong giống này được biết nhiều do chúng được ứng dụng trong làm nổi bánh, bia, rượu,…, chúng hiện diện nhiều trong sản phẩm có đường, đất, trái cây chín, phấn hoa,…, còn trong công nghiệp thực phẩm nấm men có nhiều ứng dụng rộng rãi như men nổi bánh mì, bánh bao, bánh bò,… bia, rượu, nước chát, nước trái cây lên men. Nấm men có hình bầu dục gần tròn, kích thước khoảng 6-8 µm x 5-6 µm, vỏ tế bào cấu tạo bởi carbohydrate, lipid, protein dầy khoảng 0.5 µm, màng tế bào chất, tế bào chất, và nhân. Hình 2.10: Saccharomyces ceverisiae (www.magma.ca/samat/yeast.htm) Nấm men là nhóm dị dưỡng, nguồn thức ăn chính là đường (sucroz, glucoz, fructoz…) và các nguyên tố khác, nhiều loài đặc biệt có thể sử dụng được tinh bột. Nấm men sẽ tổng hợp enzim cần thiết để có thể sử dụng các nguồn cacbon trên và cuối cùng là sản phẩm rượu và khí cacbonic. nấm men C6H12O6 2C2H5OH + 2CO2↑ + H2O + năng lượng 2.10. Giá trị dinh dưỡng của nấm men Nấm men là một chế phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, được tổng hợp theo con đường sinh học gồm đủ các thành phần dinh dưỡng. Đạm trong nấm men từ 44 55% (Hoàng Văn Tiến, 1970). Nấm Saccharomyces ceverisiae có chứa nhiều loại acid amin, hàm lượng đạm cao, tốt, nhờ khả năng tổng hợp trực tiếp từ đường của cám (Hoàng Văn Tiến, 1970). Mazid và ctv (1978) cho cá rô phi ăn 10 loại acid amin cần thiết, hầu hết có trong nấm Saccharomyces thì thấy sự tăng trưởng của cá nhanh hơn. Hàm lượng đường có trong nấm men từ 25-35% (Hoàng Văn Tiến, 1970), đường trong nấm men là các glycogen, đây là nguồn năng lượng bổ sung quan trong của cá (Bùi Lai và ctv., 1985). Chất béo trong nấm men tứ 1,5-5% (Hoàng Văn Tiến, 1970), chất béo là nguồn năng lượng cao nhất và dễ sử dụng. Chất béo Triglycerit là nguồn năng lượng cơ bản trong cơ thể giúp cá bơi khỏe (Bùi Lai và ctv., 1985). 12
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng