KẾT QUẢ TÌM HIỂU KIẾN THỨC CỦA NGƯỜI DÂN
VỀ BỆNH TAY CHÂN MIỆNG TẠI TỈNH KON TUM NĂM 2012
Bs. Y Dêch Buôn-yă,
Trung tâm TT-GDSK tỉnh Kon Tum.
Bằng phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang, tiến hành điều tra phỏng vấn 396
đối tượng tại 36 thôn của 18 xã thuộc 9 huyện/thành phố trên địa bàn tỉnh Kon Tum với
mục tiêu tìm hiểu kiến thức của người dân về bệnh tay chân miệng và đánh giá công tác
truyền thông phòng chống bệnh tay chân miệng trong năm 2011.
Kết quả nghiên cứu cho thấy 84,4% đối tượng được phỏng vấn trả lời đã có nghe
nói về bệnh tay chân miệng; 84,8% trả lời bệnh tay chân miệng là nguy hiểm; 68,2%
trả lời bệnh tay chân miệng phòng ngừa được; Tuy nhiên có 52,2% đối tượng được
phỏng vấn hoàn toàn không biết bệnh tay chân miệng lây qua đường nào; 41,9% đối
tượng được phỏng vấn không liệt kê được ít nhất 1 dấu hiệu nào của bệnh tay chân
miệng; 36,7% đối tượng được phỏng vấn không liệt kê được ít nhất 1 biện pháp nào về
phòng bệnh tay chân miệng…
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, đề xuất các kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao sự
hiểu biết của người dân về phòng chống dịch bệnh nói chung.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh tay chân miệng (TCM) là một bệnh truyền nhiễm cấp tính do virus gây nên,
bệnh thường gặp ở trẻ em (trên 90%). Bệnh có thể bị rải rác hoặc bùng phát thành các
vụ dịch nhỏ vào mùa hè ở những nơi đông dân cư, điều kiện vệ sinh kém. Biểu hiện của
bệnh là những mụn nước, bọng nước ở tay, chân và miệng. Bệnh có thể gây nhiều biến
chứng nguy hiểm như viêm não - màng não, viêm cơ tim, phù phổi cấp dẫn đến tử vong
nếu không được phát hiện sớm và xử trí kịp thời. Các trường hợp biến chứng nặng
thường do EV71. Bệnh lây chủ yếu theo đường tiêu hoá. Nguồn lây chính từ nước bọt,
phỏng nước và phân của trẻ nhiễm bệnh.
Năm 2011 là năm tỉnh Kon Tum có số trẻ em mắc bệnh TCM cao nhất, trong đó có
01 trường hợp tử vong. Trước diễn biến phức tạp của tình hình dịch bệnh TCM trong
khu vực và địa bàn tỉnh, các cấp ủy, chính quyền, các ban ngành, đoàn thể đã tập trung
vào cuộc, trong đó trách nhiệm hàng đầu vẫn là ngành Y tế và ngành Giáo dục & Đào
tạo. Đối tượng mắc bệnh TCM chủ yếu là trẻ em dưới 5 tuổi - lứa tuổi nhà trẻ, mẫu giáo
do đó đối tượng ưu tiên tập trung tuyên truyền trong thời gian qua là các bà mẹ có con
dưới 5 tuổi, các cô nuôi dạy trẻ.
Sau một thời gian tăng cường công tác truyền thông với sự tham gia của nhiều lực
lượng xã hội, tình hình bệnh TCM đã được kiểm soát, khống chế. Tuy nhiên “công tác
truyền thông giáo dục sức khỏe còn hạn chế; chuyển biến về nhận thức của người dân
về tự chăm sóc sức khỏe còn chậm”, “nhận thức và thực hành chăm sóc sức khỏe của
người dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều hạn chế” … (theo kết luận của
Thường trực Tỉnh ủy Kon Tum).
Xuất phát từ thực tế đó, chúng tôi tiến hành điều tra/phỏng vấn để khảo sát sự hiểu
biết của người dân về bệnh TCM và qua đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
nhận thức và thực hành của người dân về tự chăm sóc sức khỏe nói chung. Chúng tôi
tiến hành nghiên cứu “Kết quả tìm hiểu kiến thức của người dân về bệnh tay chân
miệng tại tỉnh Kon Tum năm 2012” nhằm các mục tiêu sau:
1. Đánh giá thực trạng hiểu biết của người dân về dịch bệnh TCM trong năm 2011,
2012.
2. Xác định lực lượng tham gia chủ yếu trong công tác tuyên truyền phòng chống
bệnh TCM ở cộng đồng trong thời gian qua.
3. Tìm hiểu sự lựa chọn của người dân về cán bộ làm công tác truyền thông, hình
thức truyền thông.
II. ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng điều tra: Được ưu tiên lựa chọn phụ nữ độ tuổi 18-30 và có con ≤ 5
tuổi.
2. Địa điểm điều tra: Tại 36 thôn của 18 xã thuộc 9 huyện/thành phố trên địa bàn
tỉnh. Mỗi huyện/thành phố chọn ngẫu nhiên 2 xã (1 xã gần, 1 xã xa trung tâm thành
thị), mỗi xã 2 thôn (1 thôn gần, 1 thôn xa trung tâm xã), mỗi thôn từ 10 đến 12 hộ (đảm
bảo có tính đại diện, được đánh dấu tên hộ gia đình trên bản đồ trước khi tiến hành đi
phỏng vấn).
3. Cỡ mẫu điều tra: Dự kiến ban đầu là 396 đối tượng, tuy nhiên khi sàng lọc loại
bỏ các phiếu không đạt yêu cầu, kết quả chỉ còn 381 phiếu (ứng với 381 đối tượng được
phỏng vấn).
4. Công cụ điều tra: Sử dụng Bộ câu hỏi/Phiếu điều tra.
5. Kỹ thuật điều tra: Sau khi xác định địa điểm điều tra, việc điều tra được thực
hiện tuần tự như sau:
- Lập bản đồ dân cư (có sự hỗ trợ của người địa phương - chủ yếu qua nhân viên y tế
thôn làng)
- Đánh dấu tên hộ gia đình sẽ phỏng vấn
- Xác định đối tượng sẽ phỏng vấn: Hộ gia đình có con dưới 5 tuổi Phụ nữ độ tuổi
18-50 Phụ nữ độ tuổi 18-30 Phụ nữ độ tuổi 18-30 và có con ≤ 5 tuổi.
- Thực hiện phỏng vấn, ghi chép theo Bộ câu hỏi/Phiếu điều tra đã được thiết kế sẵn.
6. Thời gian điều tra
- Tháng 8, 9/2012 (kết hợp trong các đợt đi truyền thông, giám sát, chỉ đạo tuyến về
công tác truyền thông, giáo dục sức khỏe của Trung tâm TT-GDSK Kon Tum).
7. Phương pháp phân tích, xử lý số liệu
- Nhập số liệu bằng phần mềm chuyên dụng EpiData 3.1;
- Phân tích số liệu bằng EpiData Analysis V2.2.1.171; Xuất dữ liệu (chọn lọc hoặc
toàn phần) từ EpiData 3.1 sang Microsoft Excel khi cần thiết. Có sử dụng các tiện ích
MacChiSquare, ProbabilityCalc để kiểm định, so sánh khi cần.
III. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN:
1. Hiểu biết của người dân về bệnh TCM:
Bảng 1: Trình độ học vấn của đối tượng được phỏng vấn
Trình độ
Không trả lời
Đại học
Cao đẳng
Biết đọc, biết viết
N
1
2
8
19
%
0,3
0,5
2,1
5
THPT
55
14,4
Không biết chữ
64
16,8
Tiểu học
94
24,7
THCS
138
36,2
381
100
Total
(95% CI)
(0,0-1,5)
(0,1-1,9)
(1,1-4,1)
(3,2-7,7)
(11,3-
Cum %
0,3
0,8
2,9
7,9
22,3
18,3)
(13,4-
39,1
20,9)
(20,6-
63,8
29,2)
(31,6-
100
41,2)
Nhìn chung đối tượng được phỏng vấn từ biết đọc, biết viết trở lên là chủ yếu.
Bảng 2: Tình hình tiếp cận với thông tin về dịch bệnh TCM
Đã có nghe nói hoặc chưa nghe nói về bệnh
Nhóm đối tượng
TCM
Phụ nữ có con < 5 T
Chưa
31
%
8,1
Có
211
Đối tượng khác
27
7,1
112
58
15,2
323
Total
%
55,4
29,4
139
84,8
Total
242
%
63,5
36,5
381
100
Tỷ lệ đối tượng được phỏng vấn đã được nghe nói về bệnh TCM chiếm 84,8%.
Chứng tỏ công tác tuyên truyền phòng chống bệnh TCM đã được triển khai rộng rãi ở
cộng đồng dân cư.
Bảng 3: Hiểu biết về sự nguy hiểm của bệnh TCM
Các nhóm đối tượng
PN có con < 5 tuổi
Bệnh TCM có nguy hiểm / không nguy hiểm
Có
%
Không
%
Total
%
210
55,1
32
8,4
242
63,5
Bệnh TCM có nguy hiểm / không nguy hiểm
Có
%
Không
%
Total
%
113
29,7
26
6,8
139
36,5
323
84,8
58
15,2
381
100
314
82,4
9
2,4
323
84,8
9
2,4
49
12,9
58
15,2
323
84,8
58
15,2
381
100
Các nhóm đối tượng
Đối tượng khác
Total
Có nghe nói về bệnh TCM
Chưa nghe nói về bệnh TCM
Total
Tỷ lệ đối tượng được phỏng vấn trả lời bệnh TCM nguy hiểm chiếm 84,8%. Nhóm
phụ nữ có con dưới 5 tuổi nhận định bệnh TCM nguy hiểm 55,1% cao hơn nhóm đối
tượng khác (29,7%). Tuy nhiên sự khác biệt này chỉ theo quan sát ngẫu nhiên, không có
ý nghĩa thống kê (chi-square = 2,056 < 3,841).
Nhóm đã được nghe tuyền truyền về bệnh TCM, tỷ lệ trả lời bệnh TCM nguy hiểm
chiếm 82,4%.
Bảng 4: Hiểu biết về khả năng phòng ngừa bệnh TCM
Bệnh TCM phòng ngừa được / không phòng ngừa
Các nhóm đối
Phòng
tượng
PN có con < 5 tuổi
Đối tượng khác
Total
Có nghe nói về B.
TCM
Chưa nghe nói về
B. TCM
Total
%
được / không biết
Không
Không %
% Total %
biết
13
3,4
61
16,0 242 63,5
6
1,6
41
10,8 139 36,5
19
5,0
102
26,8 381 100
được
168
92
260
44,1
24,1
68,2
255
66,9
9
2,4
59
15,5
323
84,8
5
1,3
10
2,6
43
11,3
58
15,2
260
68,2
19
5,0
102
26,8
381
100
Tỷ lệ đối tượng được phỏng vấn trả lời bệnh TCM phòng ngừa được là 68,2%. Có
26,8% đối tượng được phỏng vấn trả lời “không biết”.
Bảng 5. Hiểu biết về đường lây của bệnh TCM
Nhóm đối tượng
Phụ nữ có con < 5 T /
Đường lây
nhóm khác
PNCC
Nhóm
%
< 5T
khác
Có nghe / chưa nghe
Total
%
%
nói về bệnh TCM
Có
%
Chưa
%
Đường
Y
tiêu hóa N
Total
Y
Tiếp xúc
trực tiếp N
68
174
242
32
17,8
45,7
63,5
8,4
27
112
139
11
7,1
29,4
36,5
2,9
210
55,1
128
33,6
Total
Đường hô Y
N
hấp
Total
Y
242
39
203
242
63,5
10,2
53,3
63,5
28,6
90
Không
biết
1
0
9
N
Total
Không trả Y
N
lời
TOTAL
95
286
381
43
338
139
10
129
139
88,7
36,5 381
2,6
49
33,9 332
36,5 381
24,9 94
75,1 229
323
11,3 41
74,
282
0
323
12,9 48
87,1 275
323
23,6
199
52,2
156
133 34,9
49
12,9
χ2 = 13,743; p = 0,0002
242 63,5 139 36,5
17
4,5
4
1,0
225 59,1 135 35,4
242 63,5 139 36,5
182
47,8 167 43,8 15
3,9
χ2 = 13,16 ; p = 0,0003
323 84,8 58 15,2
5,5 10 2,6
11
2,9
94,5 313 82,2 47 12,3
323 84,8 58 15,2
381
21
360
381
40,
9
24,7
60,1
84,8
10,8
1
57
58
2
56
14,7
84,8
12,6
72,2
84,8
58
1
57
58
43
11,3
0,3
15,0
15,2
0,5
15,2
0,3
15,0
15,2
Bảng 5 cho thấy 52,2% đối tượng được phỏng vấn không biết đường lây của bệnh
TCM; 28,6% nhóm phụ nữ có con dưới 5 tuổi không biết đường lây của bệnh TCM;
40,9% số người đã được tuyên truyền về bệnh TCM nhưng không biết đường lây của
bệnh TCM.
Tỷ lệ không biết đường lây bệnh TCM của nhóm phụ nữ có con < 5 tuổi (28,6%) cao
hơn so với nhóm còn lại (23,6%). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (χ2 = 13,743 >
3,841). Điều này cũng bình thường, bởi đối tượng đích của truyền thông phòng chống
dịch bệnh TCM vừa qua chính là phụ nữ có con < 5 tuổi.
Tỷ lệ không biết đường lây bệnh TCM của nhóm đã được nghe về bệnh TCM
(40,9%) cao hơn rất nhiều so với nhóm chưa được nghe về bệnh TCM (11,3%). Đây là
một điều rất đáng bàn, vì đúng ra đối tượng đã được nghe về bệnh TCM sẽ được biết về
đường lây của bệnh TCM. Điều này có liên quan đến chất lượng thông tin - truyền
thông, liên quan đến lực lượng làm công tác truyền thông.
Nếu thống kê theo từng cá thể trên tổng số mẫu thì có 123 người (32,28%) trả lời
đúng đường lây (tức trả lời lây qua đường tiêu hóa, qua tiếp xúc trực tiếp với nước bọt,
phỏng nước, phân của trẻ nhiễm bệnh). Còn lại 258 người (67,72%) hoặc trả lời sai,
hoặc không biết, hoặc không trả lời (xem Biểu đồ 1).
Đối với những người làm công tác truyền thông thì đây là một kết quả hoàn toàn
không như mong muốn. Nguyên nhân của kết quả trên cơ bản phụ thuộc hai phía: Một
là từ phía đối tượng được truyền thông, hai là từ phía cán bộ làm công tác truyền thông.
Trình độ dân trí quá thấp hoặc chủ đề truyền thông chưa được người dân quan tâm thì
hiệu quả truyền thông sẽ không cao là điều khó tránh khỏi. Theo Bảng 1, trình độ học
vấn của người được phỏng vấn từ bậc Tiểu học trở lên chiếm 77,9%. Vậy thì vấn đề cần
xem xét: Đó là chất lượng của thông tin - truyền thông, điều này có liên quan trực tiếp
đến chất lượng cán bộ làm công tác truyền thông trực tiếp tại cộng đồng.
Bảng 6: Hiểu biết về dấu hiệu của bệnh TCM
Nhóm đối tượng
Phụ nữ có con < 5 T /
Dấu hiệu
Sốt
nhóm khác
PNCC
Nhóm
%
%
< 5T
khác
Y
49
12,9
24
6,3
Có nghe / chưa nghe
Total
73
%
19,2
nói về bệnh TCM
Có
%
Chưa
%
72
18,9
1
0,3
Nhóm đối tượng
Phụ nữ có con < 5 T /
Dấu hiệu
nhóm khác
PNCC
Nhóm
%
< 5T
khác
Có nghe / chưa nghe
Total
nói về bệnh TCM
%
%
Có
65,9
Chưa
%
N
193
50,7
115
30,2
308
Total
Sốt +
Y
242
33
63,5
8,7
139
34
36,5
8,9
381
67
57
323 84,8
17,6 66 17,3
N
209
54,9
105
27,6
314
Total
Y
242
63,5
139
36,5
381
30,2
44
11,5
159
41,7
158
127
242
113
33,3
63,5
29,7
95
139
38
24,9
36,5
10,0
222
381
151
58,3 165 43,3
323 84,8
39,6 150 39,4
57
58
1
15,0
15,2
0,3
N
129
33,9
101
26,5
230
60,4 173 45,4
57
15,0
Total
Sốt +
Y
242
101
63,5
26,5
139
33
36,5
8,7
381
134
323 84,8
35,2 133 34,9
58
1
15,2
0,3
N
141
37,0
106
27,8
247
64,8 190 49,9
57
15,0
Total
242
63,5
139
36,5
381
323
Y
9
2,4
1
0,3
10
2,6
N
233
61,2
138
36,2
371
97,4 313 82,2
phỏng
80,8 251
%
15,0
58
1
15,2
0,3
82,4 257 67,5
57
15,0
323 84,8
58
15,2
nước
Sốt +
1
phỏng
1
nước ở
5
N
Total
Sốt +
Y
miệng
41,
5
1
0,3
phỏng
nước ở
lòng bàn
tay
phỏng
nước ở
lòng bàn
chân
Sốt +
10
84,8
58
2,6
15,2
0
0,0
58
15,2
phỏng
nước ở
gối, mông
Nhóm đối tượng
Phụ nữ có con < 5 T /
Dấu hiệu
Không
Total
Y
N
biết
Total
Không trả
lời
Y
N
TOTAL
Có nghe / chưa nghe
nhóm khác
nói về bệnh TCM
Total %
PNCC
Nhóm
%
%
Có % Chưa %
< 5T
khác
242 63,5 139 36,5 381
323 84,8 58 15,2
93
24,4
67
17,6 160 41,9 104 27,3 56 14,7
72
57,
149 39,1
221 58,1 219
18,9
5
2
0,5
242 63,5 139 36,5 381
323 84,8 58 15,2
χ2 = 3.461; p = 0,0628
p = 0,0000
10
2,6
6
1,6
16
4,2
7 1,8
9
2,4
232 60,9 133 34,9 365 95,8 316 82,9 49 12,9
139
84,
242 63,5
381
323
58 15,2
36,5
8
Kết quả tại Bảng 6 cho thấy có 41,9% đối tượng được phỏng vấn không biết dấu
hiệu của bệnh TCM; 24,4% nhóm phụ nữ có con dưới 5 tuổi không biết dấu hiệu của
bệnh TCM; 27,3% nhóm người đã được nghe về bệnh TCM nhưng không biết dấu hiệu
của bệnh TCM.
Tỷ lệ không liệt kê được dấu hiệu bệnh TCM của nhóm phụ nữ có con < 5 tuổi
(24,4%) cao hơn so với nhóm còn lại (17,6%). Tuy nhiên sự khác biệt này chỉ theo quan
sát ngẫu nhiên, không có ý nghĩa thống kê (chi-square = 3,461 < 3,841). Điều này cho
phép suy luận hai nhóm này hiểu biết về dấu hiệu bệnh gần như nhau, có thể đây là kết
quả của việc truyền thông lẫn nhau trong cộng đồng.
Tỷ lệ không liệt kê được dấu hiệu bệnh TCM của nhóm đã được nghe về bệnh TCM
(27,3%) cao hơn nhiều so với nhóm chưa được nghe về bệnh TCM (14,7%). Sự khác
biệt này có ý nghĩa thống kê với khoảng tin cậy rất cao, p ≈ 0. Điều này cũng cần phải
xem xét từ nhiều góc độ khác nhau vì đúng ra, những người đã được nghe phải biết
nhiều hơn so với những người chưa được nghe.
Nếu thống kê theo từng cá thể trên tổng số mẫu điều tra thì có 55 người (14,44%) kể
được 1 dấu hiệu của bệnh TCM; 34 người (8,92%) kể được 2 dấu hiệu của bệnh TCM;
76 người (19,95%) kể được 3 dấu hiệu phổ biến của bệnh TCM; 38 người (9,97%) kể
được 4 dấu hiệu của bệnh TCM…(xem Biểu đồ 2).
Như vậy, hiểu biết của người dân về các dấu hiệu của bệnh TCM còn rất hạn chế.
Tuy nhiên, nếu thống kê theo các biến số ở Bảng 6, thì các câu trả lời sốt kèm theo xuất
hiện các phỏng nước ở miệng, ở lòng bàn tay, ở lòng bàn chân lần lượt là 41,7%;
39,6%; 35,2%. Tỷ lệ này mặc dù còn thấp nhưng vẫn có ý nghĩa nhất định đối với cộng
đồng.
Bảng 7: Hiểu biết về các biện pháp phòng bệnh TCM
Nhóm đối tượng
Phụ nữ có con < 5 T /
Có nghe / chưa nghe
Biện pháp
nhóm khác
nói về bệnh TCM
Total %
PNCC
Nhóm
%
%
Có % Chưa %
< 5T
khác
Th-xuyên rửa Y 130 34,1
60
15,7 190 49,9 182 47,8
8
2,1
tay với xà
Kết quả Bảng 7 có 36,7% đối tượng được phỏng vấn không liệt kê được các biện
pháp phòng bệnh TCM; 21% nhóm phụ nữ có con dưới 5 tuổi không biết biện pháp
phòng bệnh TCM; 25,2% số người đã được nghe về bệnh TCM nhưng không biết biện
pháp phòng bệnh TCM. Đặc biệt, việc quản lý xử lý tốt chất thải từ con người (phân,
đờm) để phòng ngừa dịch bệnh chưa được các đối tượng phỏng vấn quan tâm để ý (số
người có nói đến đi cầu vào nhà tiêu, không khạc nhổ bừa bãi rất thấp).
Tỷ lệ không liệt kê được biện pháp phòng bệnh TCM của nhóm phụ nữ có con < 5
tuổi (21%) cao hơn so với nhóm còn lại (15,7%). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê
(với chi-square = 3,881 > 3,841). Điều này cho phép suy luận hai nhóm này hiểu biết về
biện pháp phòng bệnh TCM gần như nhau. Tương tự như kết quả Bảng 6, có thể đây là
kết quả của truyền thông lẫn nhau trong cộng đồng.
Tỷ lệ không liệt kê được biện pháp phòng bệnh TCM của nhóm đã được nghe về
bệnh TCM (25,2%) cao hơn nhiều so với nhóm chưa được nghe về bệnh TCM (11,5%).
Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với khoảng tin cậy rất cao, p ≈ 0. Điều này chứng
tỏ hiệu quả của công tác truyền thông còn thấp.
Theo Biểu đồ 3, số người kể được từ 1 đến 6 biện pháp phòng bệnh TCM giảm dần:
28,61% kể được 1 biện pháp; 19,42% kể được 2 biện pháp; 10,76% kể được 3 biện
pháp; 3,41% kể được 4 biện pháp; 0,70% kể được 5 biện pháp….
Để phòng bệnh TCM đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ các biện pháp dự phòng. Càng
biết nhiều, thực hiện nhiều biện pháp thì hiệu quả phòng bệnh càng cao. Với kết quả tại
biểu đồ trên, rõ ràng hiệu quả phòng bệnh ở cộng đồng chưa thể cao như mong muốn
được.
2. Tình hình tham gia tuyên truyền phòng chống dịch bệnh TCM tại cộng đồng:
Bảng 8: Các nhóm lực lượng tham gia tuyên truyền phòng chống bệnh TCM
Trả lời của đối
tượng được phỏng
Chính
quyền
(UBND xã)
vấn
N
%
… có tham gia
217
57
… không th/gia
164
43
Total 381 100
Nhà trường
Trạm Y tế
N
153
228
381
N
296
85
381
%
40,2
59,8
100
%
77,7
22,3
100
Nhân viên y
tế thôn/làng
N
315
66
381
%
82,7
17,3
100
Theo kết quả Bảng 8, lực lượng tham gia tuyên truyền phòng chống dịch bệnh TCM
trong năm 2011 như sau: 82,7% là lực lượng nhân viên y tế thôn/làng; 77,7% là cán bộ
trạm y tế xã; 57% là cán bộ từ UBND xã; 40,2% là giáo viên của các trường cấp I, II
trên địa bàn.
Nhìn chung công tác tuyên truyền phòng chống dịch bệnh TCM trong năm 2011 đã
được chính quyền và các ban, ngành, đoàn thể địa phương vào cuộc rất tốt. Trong đó,
lực lượng tuyên truyền chủ yếu là nhân viên y tế thôn làng. Vì vậy, nếu lực lượng này
không được đào tạo, huấn luyện tốt về kiến thức cũng như kỹ năng truyền thông thì
chắc chắn hiệu quả tuyên truyền sẽ không cao và ngược lại.
3. Sự lựa chọn của người dân về hình thức truyền thông, cán bộ truyền thông:
Bảng 9: Hình thức truyền thông được người dân ưa thích nhất
(“Thích nhận thông tin qua hình thức
nào nhất?”)
Đài truyền thanh, hệ thống loa phát thanh
Tài liệu phát tay
Ti-vi
Cán bộ đến thăm hộ gia đình
N
%
(95% CI)
4
8
49
137
1
2.1
12.9
36
(0,4-2,7)
(1,1-4,1)
(9,9-16,6)
(31,3-40,9)
Cum
%
1
3,1
16
52
(“Thích nhận thông tin qua hình thức
N
%
(95% CI)
183
381
48
100
(43,1-53,0)
nào nhất?”)
Họp thôn/làng/tổ dân phố
Total
Cum
%
100
Theo Bảng 9, hình thức truyền thông trực tiếp là hình thức truyền thông được đối
tượng phỏng vấn lựa chọn nhiều nhất, cụ thể: Truyền thông qua họp thôn 48%, truyền
thông qua cán bộ đến thăm hộ gia đình 36% (cộng dồn tỷ lệ của 2 hình thức này là
84%).
Như vậy, với kết quả này, yếu tố liên quan hàng đầu đến chất lượng thông tin truyền thông chính là cán bộ làm công tác truyền thông. Và đây chính là cán bộ y tế xã,
lực lượng nhân viên y tế thôn làng (theo kết quả Bảng 8). Chuyển biến về nhận thức của
người dân về tự chăm sóc sức khỏe, phòng chống dịch bệnh… có theo chiều hướng tích
cực hay không, phần lớn phụ thuộc vào cán bộ y tế xã và lực lượng nhân viên y tế thôn
làng.
Bảng 10: Cán bộ truyền thông được người dân ưa thích nhất
(“Thích nghe ai nói nhất?”)
Phó trưởng thôn
Cán bộ xã
Cán bộ phụ nữ
Cán bộ y tế xã
Trưởng thôn
Cán bộ khác (*)
Nhân viên y tế thôn/làng
Total
(*): Cán bộ khác
Công an
Người thân
Bí thư chi bộ
Cha đạo
N
%
(95% CI)
1
15
24
51
71
80
139
381
0,3
3,9
6,3
13,4
18,6
21
36,5
100
(0,0-1,5)
(2,4-6,4)
(4,3-9,2)
(10,3-17,2)
(15,0-22,9)
(17,2-25,4)
(31,8-41,4)
N
%
(95% CI)
1
1
2
3
1,3
1,3
2,5
3,8
(0,2-6,7)
(0,2-6,7)
(0,7-8,7)
(1,3-10,5)
Cum
%
0,3
4,2
10,5
23,9
42,5
63,5
100
Cum
%
1.3
2.5
5
8.8
Già làng
Ai cũng được
Total
20
53
80
25
66,3
100
(16,8-35,5)
(55,4-75,7)
33.8
100
Kết quả Bảng 10 cho thấy cán bộ truyền thông được đối tượng phỏng vấn lựa chọn
nhiều nhất là Nhân viên y tế thôn làng - chiếm 36,5%, trưởng thôn 18,6%, cán bộ trạm y
tế xã 13,4%. Cán bộ phụ nữ, cán bộ xã, phó trưởng thôn được đối tượng phỏng vấn
chọn chiếm tỷ lệ thấp. Cán bộ khác chiếm 21%, trong đó tỷ lệ trả lời “ai cũng được”
chiếm 66,3%, kế đến là “già làng” 25%, còn lại thành phần khác chiếm tỷ lệ rất thấp.
IV. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Thứ nhất, nhìn chung người dân biết được sự nguy hiểm của bệnh TCM với tỷ lệ khá
cao (84,8%), biết được bệnh TCM có thể phòng ngừa được (68,2%). Tuy nhiên, hiểu
biết sâu hơn về bệnh TCM thì còn rất là hạn chế. Mức độ hiểu biết về bệnh TCM theo
thứ tự: Hiểu biết về biện pháp phòng bệnh TCM cao hơn so với hiểu biết về dấu hiệu
của bệnh TCM; Hiểu biết về dấu hiệu của bệnh TCM cao hơn so với hiểu biết về đường
lây của bệnh TCM (phải chăng do truyền thông viên chỉ tập trung tuyên truyền biện
pháp phòng bệnh là chính?).
Thứ hai, có sự tham gia của chính quyền, các ban ngành, đoàn thể trong việc tuyên
truyền phòng chống dịch bệnh TCM tại cộng đồng trong năm 2011 vừa qua, tuy nhiên
lực lượng nòng cốt vẫn là nhân viên y tế thôn/làng (82,7%), sau đó đến cán bộ trạm y tế
xã (77,7%).
Thứ ba, truyền thông trực tiếp là hình thức truyền thông được người dân lựa chọn
nhiều nhất (84%, trong đó qua họp thôn 48%, qua cán bộ đến thăm hộ gia đình 36%);
Cán bộ truyền thông được người dân lựa chọn nhiều nhất là nhân viên y tế thôn làng
(36,5%). So với trưởng thôn, cán bộ trạm y tế xã được người dân lựa chọn thấp hơn
(18,6% so với 13,4%). Như vậy, có thể nói, người dân thích nhất vẫn là truyền thông
viên am hiểu ngôn ngữ và phong tục tập quán của họ.
2. Kiến nghị, giải pháp:
Để đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác truyền thông giáo dục sức khỏe, tạo
sự chuyển biến tích cực về nhận thức của người dân về tự chăm sóc sức khỏe nói chung
và về phòng chống dịch bệnh TCM nói riêng, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, chúng
tôi xin đưa ra một số kiến nghị, giải pháp như sau:
Thứ nhất, quan tâm hơn nữa công tác đào tạo và đào tạo lại cho đội ngũ cán bộ y tế
làm công tác truyền thông, nhất là ưu tiên đào tạo và đào tạo lại lực lượng nhân viên y
tế thôn làng.
Thứ hai, kịp thời huấn luyện cán bộ y tế xã và nhân viên y tế thôn làng khi có dịch
bệnh mới nổi xảy ra. Thông thường cách làm phổ biến của chúng ta trước đây là bước
đầu tiên ưu tiên huấn luyện cho cán bộ chủ chốt tuyến tỉnh, huyện, sau đó lực lượng này
huấn luyện lại cho tuyến dưới nhưng trên thực tế với nhiều lý do khách quan, kết quả là
tuyến dưới không được huấn luyện hoặc được huấn luyện nhưng quá muộn so với yêu
cầu đặt ra, dẫn đến hiệu quả công tác truyền thông, giáo dục sức khỏe ở cộng đồng rất
thấp, còn đối tượng đích ở cộng đồng thiếu thông tin về dịch bệnh.
Thứ ba, đối với việc đào tạo/huấn luyện nhân viên y tế thôn làng: Huấn luyện về kỹ
năng truyền thông phải đi đôi với đào tạo bồi dưỡng kiến thức; bồi dưỡng về kiến thức
để phục vụ cho công tác tuyên truyền phòng chống dịch, bệnh phải đi đôi với việc huấn
luyện về kỹ năng truyền thông, vì có kỹ năng truyền thông cơ bản nhưng thiếu kiến thức
căn bản hay có kiến thức căn bản nhưng không có kỹ năng truyền thông thì công tác
truyền thông, giáo dục sức khỏe không đem lại hiệu quả cao. Thực tế đã có không ít
trường hợp nói rất tốt nhưng tuyên truyền sai lệch về kiến thức hoặc có trình độ, có kiến
thức nhưng không có “nghệ thuật” để nói cho dân nghe, dân hiểu….
Thứ tư, chú trọng đến tư cách, phẩm chất đạo đức và trình độ học vấn khi tuyển chọn
nhân viên y tế thôn làng, vì ít nhiều các tiêu chuẩn này có liên quan hoặc trực tiếp, hoặc
gián tiếp đến hiệu quả truyền thông tại cộng đồng, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu
số, vùng sâu vùng xa.
Thứ năm, tăng cường công tác phối hợp và huy động lực lượng xã hội tham gia vào
công tác truyền thông trực tiếp ở cộng đồng càng nhiều càng tốt.
Thứ sáu, tăng cường ưu tiên đầu tư nguồn lực cho công tác truyền thông trực tiếp tại
cộng đồng. Đây là hình thức truyền thông được các chuyên gia khẳng định dễ thực hiện
nhất, rẻ tiền nhất và đem lại hiệu quả cao nhất nếu sự quan tâm, đầu tư đúng trọng tâm,
trọng điểm./.
Tài liệu tham khảo:
Phương pháp nghiên cứu khoa học sức khỏe (của Nhà xuất bản Đại học Huế)
Một số Tạp chí Y học dự phòng (của Tổng hội Y học Việt Nam).
Và một số tài liệu/website về bệnh tay chân miệng.
- Xem thêm -