Bé Quèc phßng
Häc viÖn chÝnh trÞ
TrÇn hËu t©n
KÕt hîp N©ng cao n¨ng lùc t duy lý luËn
Víi n¨ng lùc thùc tiÔn cña chÝnh trÞ viªn
trong Qu©n ®éi nh©n d©n ViÖt Nam HIÖN NAY
luËn ¸n tiÕn sÜ triÕt häc
Hµ néi - 2013
Bé Quèc phßng
Häc viÖn chÝnh trÞ
TrÇn hËu t©n
KÕt hîp N©ng cao n¨ng lùc t duy lý luËn
Víi n¨ng lùc thùc tiÔn cña chÝnh trÞ viªn
trong Qu©n ®éi nh©n d©n ViÖt Nam HIÖN NAY
Chuyªn ngµnh:
M· sè:
Chñ nghÜa duy vËt biÖn chøng
vµ duy vËt lÞch sö
62 22 03 02
luËn ¸n tiÕn sÜ triÕt häc
Ngêi híng dÉn khoa häc
1. GS, TS NguyÔn V¨n Tµi
2. PGS, TS Vò Quang T¹o
Hµ néi - 2013
Lêi cam ®oan
T«i cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh
nghiªn cøu cña riªng t«i. C¸c sè liÖu,
kÕt qu¶ nªu trong luËn ¸n lµ trung
thùc, cã nguån gèc, xuÊt xø râ rµng.
T¸c gi¶ luËn ¸n
TrÇn HËu T©n
MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
5
9
27Chương
1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KẾT HỢP NÂNG CAO
NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN VỚI NĂNG LỰC THỰC
TIỄN CỦA CHÍNH TRỊ VIÊN TRONG QUÂN ĐỘI
NHÂN DÂN VIỆT NAM
1.2.Thực
Những nhân tố cơ bản quy định việc kết hợp nâng cao năng
chất của việc lực tư duy lý luận với năng lực thực tiễn của chính trị viên
kết hợp nâng trong Quân đội nhân dân Việt Nam
cao năng lực
tư duy lý
luận với
năng lực
thực tiễn của
chính trị
viên trong
Quân đội
nhân dân
Việt Nam
1.1.
Chương 2 THỰC TRẠNG VÀ YÊU CẦU KẾT HỢP NÂNG CAO
2.1.
2.2.
Yêu
cầu
kết
hợp
nâng cao
năng lực tư
duy lý luận
với năng
lực
thực
tiễn
của
chính trị
viên trong
Quân đội
nhân dân
Việt Nam
trước tác
động của
tình hình
hiện nay
Chương 3
NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN VỚI NĂNG LỰC
THỰC TIỄN CỦA CHÍNH TRỊ VIÊN TRONG QUÂN
ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
Thực trạng kết hợp nâng cao năng lực tư duy lý luận với năng
lực thực tiễn của chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt
Nam hiện nay
98
GIẢI PHÁP CƠ BẢN KẾT HỢP NÂNG CAO NĂNG
LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN VỚI NĂNG LỰC THỰC
27
53
73
73
113
3.1.
3.2.
3.3.
TIỄN CỦA CHÍNH TRỊ VIÊN TRONG QUÂN ĐỘI
NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
Nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm kết
hợp nâng cao năng lực tư duy lý luận với năng lực thực tiễn
của chính trị viên
Xây dựng môi trường hoạt động tạo điều kiện để chính trị
viên kết hợp nâng cao năng lực tư duy lý luận với năng lực
thực tiễn
Phát huy vai trò nhân tố chủ quan của chính trị viên trong kết
hợp nâng cao năng lực tư duy lý luận với năng lực thực tiễn
150
KẾT
LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
113
129
141
152
154
169
5
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về công trình nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài kết hợp nâng cao năng lực tư duy lý luận với năng lực
thực tiễn của chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay xuất
phát từ những yêu cầu mới về vai trò chủ trì về chính trị, đảm nhiệm công tác
đảng, công tác chính trị của chính trị viên theo tinh thần Nghị quyết 51/NQTW của Bộ Chính trị khoá IX, Nghị quyết 513/NQ-ĐUQSTƯ (nay là Quân uỷ
Trung ương). Vì vậy, đề tài này có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn,
được tác giả ấp ủ nghiên cứu từ nhiều năm nay. Việc làm rõ nội hàm của năng
lực tư duy lý luận, năng lực thực tiễn, cũng như chỉ ra thực chất kết hợp nâng
cao năng lực tư duy lý luận với năng lực thực tiễn của chính trị viên, từ đó làm
rõ những nhân tố cơ bản quy định việc kết hợp nâng cao năng lực tư duy lý luận
với năng lực thực tiễn là việc làm cần thiết để khảo sát thực trạng, dự báo tình
hình tác động và đề ra yêu cầu kết hợp nâng cao năng lực tư duy lý luận với
năng lực thực tiễn của chính trị viên. Trên cơ sở đó, đưa ra giải pháp cơ bản,
đồng bộ, có tính khả thi kết hợp nâng cao năng lực tư duy lý luận với năng lực
thực tiễn của chính trị viên, giúp họ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Công trình được kết cấu gồm: phần mở đầu, 3 chương (7 tiết), kết luận,
danh mục các công trình khoa học đã công bố của tác giả, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục. Với kết cấu 3 chương (7 tiết) cho phép tác giả triển khai
và giải quyết được những vấn đề lý luận và thực tiễn mà luận án đề ra.
2. Lý do lựa chọn đề tài
Người cán bộ chính trị dù ở cấp nào cũng cần phải có năng lực tư duy lý
luận và năng lực thực tiễn, hai năng lực này tạo nên tài năng của họ. Năng lực tư
duy lý luận và năng lực thực tiễn trong người cán bộ có quan hệ chặt chẽ với
nhau, hỗ trợ nhau cùng phát triển. Người cán bộ muốn có trình độ khái quát tốt
đòi hỏi phải có năng lực tư duy lý luận tốt. Ngược lại, nếu có năng lực tư duy lý
6
luận mà không biết liên hệ với thực tiễn thì năng lực tư duy lý luận sẽ dần dần
phai nhạt, dừng lại ở tư duy trừu tượng, chỉ là lý thuyết, xa rời thực tế. Chủ tịch
Hồ Chí Minh khẳng định: “Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành
thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không có liên hệ với thực tiễn là lý luận
suông” [82, tr. 496]. Thực tế đó đòi hỏi người cán bộ chính trị cần phải có
năng lực tư duy lý luận và năng lực thực tiễn tốt.
Chính trị viên là người chủ trì về chính trị, đảm nhiệm công tác đảng, công
tác chính trị ở cấp phân đội; giữ vai trò chủ chốt trong việc xây dựng phân đội
vững mạnh về chính trị, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng Quân đội
nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, bảo vệ
vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới của cách mạng. Nhiệm
vụ đó đòi hỏi chính trị viên không những phải kiên định vững vàng, nhạy bén về
chính trị, mà còn phải có năng lực quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng, tổ
chức thực hiện thắng lợi nghị quyết, chỉ thị của cấp trên phù hợp với điều kiện cụ
thể của đơn vị mình. Vì vậy, cần kết hợp nâng cao năng lực tư duy lý luận với
năng lực thực tiễn của chính trị viên để họ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Nhận thức được tầm quan trọng của năng lực tư duy lý luận và năng
lực thực tiễn đối với chính trị viên, thời gian qua, lãnh đạo, chỉ huy các cấp đã
luôn quan tâm đến việc kết hợp nâng cao năng lực tư duy lý luận với năng lực
thực tiễn của chính trị viên. Theo đó, các học viện, nhà trường quân đội đã
nhận thức và đặc biệt quan tâm đến việc kết hợp trang bị tri thức lý luận khoa
học và nâng cao khả năng vận dụng tri thức đó vào thực tiễn công tác đảng,
công tác chính trị theo cương vị, chức trách của chính trị viên. Trong chương
trình đào tạo, bồi dưỡng đã chú trọng tri thức lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, công tác đảng, công tác chính trị, đường lối, quan
điểm của Đảng và năng lực thực tiễn phù hợp với cương vị, chức trách của
chính trị viên. Các đơn vị trong quản lý, sử dụng chính trị viên cũng đặc biệt
7
quan tâm bồi dưỡng, nâng cao cả về năng lực tư duy lý luận và năng lực thực
tiễn. Nhận thức tầm quan trọng của việc nâng cao phẩm chất, năng lực trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao, chính trị viên cũng thường xuyên tự
tu dưỡng, rèn luyện nâng cao trình độ lý luận và khả năng vận dụng tri thức
khoa học vào thực tiễn công tác.
Tuy nhiên, trong nhận thức và thực hiện việc kết hợp nâng cao năng
lực tư duy lý luận với năng lực thực tiễn của chính trị viên còn có không ít
bất cập. Hiện nay, một bộ phận chính trị viên còn hạn chế về năng lực tư
duy lý luận và năng lực thực tiễn, làm ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu
quả công việc. Bên cạnh đó, việc phát huy vai trò của các chủ thể, cũng
như sự đổi mới về nội dung và phương thức kết hợp nâng cao năng lực tư
duy lý luận với năng lực thực tiễn của chính trị viên hiện nay vẫn còn tồn
tại những hạn chế nhất định.
Vì vậy, kết hợp nâng cao năng lực tư duy lý luận với năng lực thực tiễn của
chính trị viên giúp họ hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao. Đây là việc
làm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ
chính trị Quân đội ta vững mạnh toàn diện.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Góp phần làm tốt việc kết hợp nâng cao năng lực tư duy lý luận với năng
lực thực tiễn của chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu thực chất và những nhân tố cơ bản
quy định kết hợp nâng cao năng lực tư duy lý luận với năng lực thực tiễn của
chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu: kết hợp nâng cao năng lực tư duy lý luận với
năng lực thực tiễn của chính trị viên ở các đơn vị binh chủng hợp thành, số
liệu khảo sát từ năm 2006 đến nay.
8
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
* Đóng góp mới của luận án: góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận,
thực tiễn về kết hợp nâng cao năng lực tư duy lý luận với năng lực thực tiễn
của chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
Đề xuất giải pháp cơ bản, đồng bộ, có tính khả thi kết hợp nâng cao
năng lực tư duy lý luận với năng lực thực tiễn của chính trị viên trong Quân
đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
* Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án: kết quả nghiên cứu của luận án
là cơ sở khoa học giúp các cơ quan chức năng nghiên cứu đổi mới, nâng cao chất
lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng chính trị viên Quân đội ta hiện nay.
Luận án có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu khoa học, giảng
dạy, học tập và tiến hành kết hợp nâng cao năng lực tư duy lý luận với năng
lực thực tiễn của chính trị viên.
9
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
1.1. Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến năng lực tư duy,
năng lực tư duy lý luận và nâng cao năng lực tư duy lý luận của người cán bộ
1.1.1. Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến năng lực tư
duy và năng lực tư duy lý luận của người cán bộ
Ở nước ngoài có các công trình tiêu biểu: “Tư duy triết học về nghiên
cứu lý luận quân sự” của Lý Tiểu Quân và Vương Vĩnh Bình [95]. Công trình
khẳng định rằng, trong lĩnh vực quân sự, tư duy lý luận có vai trò rất quan
trọng, ảnh hưởng đến tiến trình, thậm chí đến kết cục của chiến tranh. Vì vậy,
nắm vững lý luận là một trong những nguyên tắc cần chú trọng của những
người chỉ đạo chiến tranh. Trong thực tế, tư duy lý luận quân sự không ngừng
phát triển, vì khoa học quân sự phát triển không ngừng. Các nhà nghiên cứu
cho rằng, trong hệ thống tri thức quân sự, triết học, đặc biệt là triết học mác
xít là phương pháp luận cao nhất.
Nghiên cứu lý luận quân sự là một trong những lĩnh vực nghiên cứu rất
phức tạp, nếu trong nghiên cứu chỉ giới hạn ở tư duy lôgíc trạng thái tĩnh thì
hoàn toàn không đủ mà cần phải nhắm vào những nội dung cụ thể đang vận
động, thay đổi của chiến tranh để khảo sát biện chứng. Quá trình nghiên cứu
đòi hỏi phải nắm được quá trình đi đến kết luận của các công trình, từ đó
khẳng định lập trường, quan điểm và phương pháp quan sát, phân tích, giải
quyết vấn đề quân sự của tiền nhân và lấy đó làm nền tảng để nâng cao khả
năng nghiên cứu. Do đó, cần kết hợp sự phát triển cách mạng quân sự thế giới
với thực tiễn xây dựng quân đội, tạo ra lý luận mới phù hợp với thực tiễn, yêu
cầu đó đòi hỏi phải có phương pháp nghiên cứu khoa học. Vì phương pháp
khoa học là công cụ và phương tiện của tư duy lý luận.
Cuối cùng, công trình kết luận rằng: lối thoát có tính khoa học và đem lại
hiệu quả trong nghiên cứu lý luận quân sự là phải nhằm thẳng vào sự khác
10
nhau của đối tượng nghiên cứu và mục đích nhận thức, sử dụng tổng hợp các
phương pháp khoa học bao gồm cả phương pháp triết học mác xít, kết hợp cả
vĩ mô với cụ thể, định tính với định lượng, kết hợp sự phát triển của lý luận
quân sự với sự vận động, biến hoá của chiến tranh; từ đó đạt được mục đích chỉ
đạo chiến tranh một cách khoa học.
Khi nghiên cứu về tư duy hoàn hảo và giúp mọi người tự học cách tư
duy của Edward De Bono [33] cho rằng, tư duy rất quan trọng và cần thiết,
nhưng điều đó chưa đủ, tác giả cho rằng, chúng ta chú ý nhiều đến quá trình
tư duy, tuy nhiên lại ít chú ý đến nguồn gốc của các yếu tố cấu thành nó và nó
được lựa chọn như thế nào?
Edward De Bono chỉ ra rằng: các thành phần cho quá trình tư duy được
hình thành từ nhận thức, nhận thức là cách chúng ta quan sát thế giới. Theo tác
giả cuốn sách thì việc mắc sai lầm là do chúng ta luôn tin rằng, lôgíc là bộ phận
quan trọng nhất trong quá trình tư duy mà không chú ý đến nhận thức. Edward
De Bono cho rằng, lôgíc là một hệ thống bên ngoài chỉ có thể hoạt động được
với những gì có trong nó. Quan niệm về sức mạnh của lôgíc là một trong những
nhược điểm của phương pháp tư duy truyền thống. Không thể phủ nhận, trong
nhận thức lý tính, lôgíc có thể chỉ ra những nhược điểm về mặt nhận thức.
Nhưng trong nhận thức cảm tính, điều đó hoàn toàn không đúng. Theo Edward
De Bono, việc tin nhận thức và quá trình hình thành nhận thức đều hoạt động
theo hệ thống thông tin thụ động dẫn đến sự cần thiết phải có một bộ xử lý bề
ngoài để tổ chức, sắp xếp và phân tích thông tin. Theo ông thì ngày nay, chúng
ta đã biết, nhận thức diễn ra trong hệ thống thông tin tự tổ chức được điều khiển
bởi mạng lưới dây thần kinh trong não. Điều này có nghĩa là thông tin và bề mặt
chứa thông tin có các hoạt động riêng và thông tin tự sắp xếp thành nhóm, chuỗi.
Theo Edward De Bono, bộ ba nhà triết học Sôcrát, Platôn, Aristốt đã
dựa trên việc phân tích, đánh giá; phương pháp đó đã giải quyết được nhiều
11
vấn đề, có những vấn đề không tìm được nguyên nhân và nếu tìm được thì
cũng không thể giải quyết được. Đối với những vấn đề ấy không cần phân
tích thêm mà cần sáng tạo. Theo đó, tác giả cuốn sách cho rằng, phương pháp
tư duy truyền thống rất thiếu tính xây dựng, ít sáng tạo, chỉ miêu tả và phân
tích. Điều đó là chưa đủ. Để tìm ra chân lý, theo Edward De Bono việc suy
đoán giữ một vai trò quan trọng trong tư duy.
Edward De Bono đi đến kết luận: phương pháp tư duy truyền thống
mặc dù rất tốt nhưng chưa đầy đủ. Tuy nhiên, ông vẫn nhấn mạnh rằng,
phương pháp tư duy truyền thống còn có giá trị và chỗ đứng nhất định. Sai
lầm ở chỗ chúng ta cho rằng, thế là đủ và để nó thống trị chúng ta. Do đó, để
giúp con người tự học cách tư duy và có một tư duy hoàn hảo, Edward De
Bono nghiên cứu các phương pháp tư duy. Theo đó, tác giả đưa ra năm
phương pháp để mỗi người tự trả lời nó, giúp hoàn thiện phương pháp tư duy,
đó là: thứ nhất, tôi muốn đi đâu; thứ hai, bước thông tin; thứ ba, các khả năng
gì; thứ tư, kết quả là gì; thứ năm, thực hiện phương pháp.
Ở trong nước có các công trình tiêu biểu: Nghiên cứu về vấn đề năng
lực tư duy, tác giả Nguyễn Ngọc Long cho rằng, năng lực tư duy là tổng hợp
những phẩm chất trí tuệ đáp ứng yêu cầu nhận thức thế giới và bản thân con
người, bảo đảm cho hành động sáng tạo của mình [63, tr. 48]. Với quan niệm
này, năng lực tư duy chính là những phẩm chất trí tuệ, giúp chủ thể có thể giải
quyết được những vấn đề mà thực tiễn đặt ra trong quá trình họ tham gia hoạt
động thực tiễn, chính năng lực trí tuệ giúp chủ thể có thể hoạt động sáng tạo,
đem lại hiệu quả cao trong công việc.
Tiếp cận năng lực tư duy là sự biến đổi tri thức thành phương pháp, tác
giả Hồ Bá Thâm quan niệm: năng lực tư duy chính là khả năng biến tri thức
thành phương pháp và sử dụng thành thạo chúng để tiếp tục nhận thức, tìm ra
bản chất, quy luật, xu hướng tất yếu của sự vật và vận dụng đúng đắn quy luật đó
12
trong cuộc sống [107, tr. 15]. Cách tiếp cận này cho ta thấy, năng lực tư duy
chính là khả năng biến tri thức thành phương pháp trong quá trình chủ thể sử
dụng và tiếp tục vận dụng vào hoạt động để tiếp tục nhận thức, làm cho khả năng
nhận thức của chủ thể không ngừng tăng lên bằng cách vận dụng đúng đắn vào
cuộc sống. Khả năng này được cụ thể: năng lực tư duy là tổng hợp những khả
năng ghi nhớ, tái hiện, trừu tượng hoá, khái quát hoá, liên tưởng, luận giải và
xử lý trong quá trình phản ánh, phát triển tri thức và vận dụng chúng vào
thực tiễn trên cơ sở quy luật khách quan và nó mang lại những kết quả nhất
định. Theo quan niệm này, thì năng lực tư duy chính là năng lực ghi nhớ, tái
hiện những hình ảnh bằng ngôn ngữ, khái niệm, bằng hình ảnh, do nhận thức
cảm tính đem lại; năng lực trừu tượng hoá, khái quát hoá trong phân tích và
tổng hợp; năng lực tưởng tượng, suy luận, liên tưởng để nhận biết, phát
triển, lựa chọn xử lý trong nhận thức và hành động. Cách hiểu này nhấn
mạnh đến năng lực ghi nhớ, tái hiện, khả năng trừu tượng hoá, khái quát hoá
và khả năng suy luận, liên tưởng của chủ thể nhận thức.
Cũng tiếp cận về năng lực tư duy, tác giả Trần Văn Phòng cho
rằng, năng lực tư duy là tổng hợp những phẩm chất trí tuệ - (chẳng hạn
như sự thông minh, khả năng suy luận, phán đoán, phân tích, năng khiếu
nhạy cảm, v.v..) - của con người nhằm đáp ứng yêu cầu nhận thức đúng
đắn bản chất thế giới tự nhiên, xã hội, con người, bảo đảm cho hoạt động
thực tiễn và hoạt động sáng tạo của con người phù hợp với quy luật, đạt
hiệu quả [91]. Năng lực tư duy theo tác giả là sự tổng hợp các phẩm chất
trí tuệ, để thoả mãn nhu cầu nhận thức thế giới, xã hội con người của chủ
thể, sự nhận thức đó đem lại hiệu quả trong hoạt động thực tiễn, nhờ sự
vận dụng đúng đắn, sáng tạo quy luật nhận thức.
Luận chứng về tư duy lý luận, tác giả Nguyễn Văn Dũng quan niệm:
“Tư duy lý luận là tư duy ở cấp độ cao, dựa trên các phương tiện là khái
13
niệm, phạm trù, quy luật, hướng tới phân tích, tổng hợp, khái quát để tìm ra
bản chất, quy luật của hiện thực khách quan; từ đó định hướng, hướng dẫn
hoạt động thực tiễn của con người ngày càng có kết quả cao hơn” [10, tr. 23].
Tư duy lý luận được nói đến ở đây là tư duy biện chứng duy vật triệt để là
công cụ nhận thức sắc bén, giúp con người hoạt động thực tiễn đạt hiệu quả
cao. Tư duy lý luận là loại hình tư duy có tính khái quát và trừu tượng cao,
tư duy bằng khái niệm, phạm trù, quy luật. Tư duy lý luận luôn có sự thống
nhất giữa nội dung tư duy và phương pháp tư duy. Đó là sự vận dụng các
khái niệm, phạm trù, quy luật theo một lôgíc khoa học.
Về năng lực tư duy lý luận, tác giả Dương Minh Đức đưa ra quan
niệm: “Năng lực tư duy lý luận là tổng hợp các phẩm chất trí tuệ của chủ
thể đáp ứng yêu cầu phát hiện, nhận thức nhanh nhạy, đúng đắn đối với
hiện thực ở trình độ lý luận, nhờ vậy có những đề xuất cụ thể sắc bén, sáng
tạo, thiết thực góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn của con người” [12, tr. 18]. Ở quan niệm này, tác giả nhấn
mạnh đến tổng thể các phẩm chất thuộc về chủ thể tư duy và những phẩm
chất này giúp cho chủ thể có được những đề xuất cũng như quyết định
đúng đắn, đem lại hiệu quả cao trong hoạt động thực tiễn.
Theo tác giả Nguyễn Văn Dũng, “năng lực tư duy của một chủ thể nhất
định là tổng hoà các yếu tố chủ quan của chủ thể trong quá trình tư duy phản
ánh chân thực và nhạy bén hiện thực khách quan đáp ứng yêu cầu của hoạt
động tư duy, từ đó tạo ra khả năng đánh giá và chỉ đạo hoạt động thực tiễn
của chủ thể làm cho những hoạt động đó đạt hiệu quả cao” [10, tr. 25]. Theo
cách hiểu này, năng lực tư duy lý luận là tổng hợp các yếu tố thuộc về chủ
thể, giúp chủ thể trong quá trình tư duy và phản ánh đúng đắn hiện thực khách
quan, đáp ứng yêu cầu, mục đích đề ra. Trên cơ sở sự nhận thức phản ánh hợp
quy luật, giúp chủ thể nhận thức đạt được kết quả cao. Năng lực tư duy thuộc
14
về các yếu tố chủ quan mà chủ thể tích luỹ được, hai là các yếu tố thuộc về sự
nỗ lực của chủ thể trong quá trình nhận thức, quá trình hoạt động thực tiễn,
giúp chủ thể tư duy đạt đến chân lý.
1.1.2. Những công trình tiêu biểu liên quan đến nâng cao năng lực tư duy
lý luận của người cán bộ
Quan niệm về năng lực tư duy sáng tạo của đội ngũ sĩ quan cấp phân
đội, tác giả Đào Văn Tiến [112] đã đưa ra khái niệm, cấu trúc năng lực tư duy
sáng tạo. Theo tác giả, tư duy sáng tạo khác với tư duy nói chung ở việc tạo ra
những khái niệm, phán đoán, suy lý mới. Sự tạo ra những khái niệm, phán
đoán, suy luận mới đó được dựa trên những tài liệu mà chủ thể nhận thức và
ghi nhớ được trong quá trình học tập, công tác và các hoạt động thực tiễn.
Năng lực tư duy sáng tạo của con người có được không chỉ nhờ có sự nhanh
nhạy của bộ óc, của cơ quan cảm giác mà còn là kết quả của quá trình khổ luyện
học tập và rèn luyện trong thực tiễn.
Trên cơ sở luận chứng về năng lực tư duy sáng tạo, công trình này đã
đưa ra quan niệm về năng lực tư duy sáng tạo của đội ngũ sĩ quan cấp phân
đội; chỉ ra bản chất, đặc điểm vai trò của năng lực tư duy sáng tạo đối với
hoạt động thực tiễn của sĩ quan trẻ.
Khi nghiên cứu về năng lực tư duy lý luận và vai trò của nó, tác giả
Nguyễn Đình Trãi cho rằng, năng lực tư duy lý luận được đặc trưng bởi sự tích
luỹ về phương pháp tư duy. Là khả năng lựa chọn, sắp xếp các thao tác tư duy
theo một lôgíc nhất định nhằm đạt tới kết quả cụ thể; là khả năng xác định mục
đích, các bước tiến hành các khâu chủ yếu trong quá trình phản ánh để lựa chọn
các thao tác chính xác trong tư duy. “Năng lực tư duy lý luận là tổng hợp các
phẩm chất trí tuệ của chủ thể có thể đáp ứng yêu cầu phát hiện, nhận thức (ở
trình độ lý luận) nhanh, nhạy, đúng đắn và sáng tạo đối với hiện thực, nhờ
vậy, có những đề xuất sắc bén, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động thực
15
tiễn của con người” [121, tr. 28]. Năng lực tư duy lý luận là khả năng tích luỹ tri
thức và nghệ thuật sử dụng tri thức, xử lý thông tin một cách khoa học, hiệu quả;
là “nghệ thuật vận dụng các khái niệm”. Năng lực tư duy lý luận giữ vai trò quan
trọng trong hoạt động nghiên cứu và giảng dạy của người giảng viên.
Khi bàn về việc phát triển năng lực tư duy lý luận của chính uỷ trung
đoàn Quân đội nhân dân Việt Nam, tác giả Nguyễn Văn Dũng [10] cho rằng,
năng lực tư duy lý luận của một chủ thể là tổng thể các yếu tố thuộc về chủ quan
của chủ thể và những yếu tố đó được chủ thể áp dụng vào việc phát hiện, nhận
thức đúng để từ đó đề xuất những giải pháp cụ thể trong quá trình hoạt động
thực tiễn, nhằm giải quyết hiệu quả công việc.
Năng lực tư duy lý luận của người chính uỷ trung đoàn là những yếu tố
thuộc về chủ quan của họ và những yếu tố đó trực tiếp giúp họ nhận thức những
vấn đề lý luận và thực tiễn quân sự diễn ra trong quá trình thực hiện chức trách,
nhiệm vụ. Năng lực tư duy lý luận giúp người chính uỷ trung đoàn kịp thời đưa
ra những giải pháp lãnh đạo nâng cao hiệu quả hoạt động công tác đảng, công
tác chính trị, giúp họ hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao.
Tác giả Nguyễn Bá Dương trong cuốn sách Sĩ quan trẻ với tư duy về
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc thời kỳ hội nhập WTO [13] cho rằng, tư duy biện
chứng duy vật không chỉ là “tài sản vô giá” mà còn là “chìa khoá” mở
đường, thúc đẩy sự phát triển, tiến bộ của sĩ quan trẻ; là hành trang cần thiết
của sĩ quan trẻ để họ vững tin hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Tư duy biện chứng duy vật giúp sĩ quan trẻ không những nhận thức đúng
tình hình, nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu mà còn tìm ra những giải
pháp phù hợp để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, luôn tiến bộ,
trưởng thành. Cách luận chứng này cho chúng ta thấy, tư duy biện chứng
duy vật phản ánh đúng đắn sự vận động, phát triển không ngừng của hiện
thực và có vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động thực tiễn.
16
Tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ trong nhận thức nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc được luận chứng là quá trình suy nghĩ, nhận định, quản lý phân đội,
phản ánh hoạt động quân sự trong quá trình xây dựng quân đội và bảo vệ Tổ
quốc. Đó là quá trình phản ánh gián tiếp của sĩ quan phân đội về hoạt động quân
sự, trên cơ sở của sự năng động, sáng tạo, giúp chủ thể vạch ra cái bản chất, tất
yếu, giúp họ vận dụng vào thực hiện chức trách, nhiệm vụ, góp phần xây dựng
đơn vị vững mạnh toàn diện, sẵn sàng chiến đấu cao.
Tác giả công trình khẳng định rằng, quá trình phát triển tư duy biện
chứng duy vật trong nhận thức nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của sĩ quan trẻ vừa
chịu sự quy định của điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan vừa có sự nỗ
lực không ngừng của chủ thể trong quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn.
1.2. Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến năng lực
thực tiễn và nâng cao năng lực thực tiễn của người cán bộ
1.2.1. Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến năng lực thực
tiễn, năng lực thực tiễn của người cán bộ
Ở nước ngoài, trong cuộc hội thảo về chủ đề thực tiễn luận với hệ
thống triết học mác xít [111], những người tham dự hội thảo đã nhấn mạnh
một số nội dung: cách tiếp cận triết học lấy thực tiễn con người, đời sống loài
người làm cơ sở, cái mà C.Mác cần nói rõ là phương hướng, mục tiêu, cơ sở
hình thành, phát triển thế giới cùng với sự cải tạo hơn nữa; phương thức tư
duy dùng quan điểm thực tiễn để tìm hiểu con người, tìm hiểu bản chất con
người, tìm hiểu quan hệ con người với thế giới; chức năng của triết học là
không chỉ nhận thức thế giới mà còn cải tạo thế giới; nội hàm bản thể luận,
triết học mác xít là khoa học về tồn tại nói chung, khoa học của quy luật nói
chung cả thế giới. Đó là thế giới quan hoặc vũ trụ quan khoa học; vấn đề cơ
bản của nội dung lý luận, thực tiễn luận mác xít. Nhìn chung, quan điểm của
các học giả là khác nhau. Nhưng tựu chung các nhà khoa học thừa nhận tiêu
17
chuẩn của thực tiễn, thực tiễn là nguồn gốc của tư duy, tinh thần thực tiễn
cách mạng phê phán; về phương pháp nghiên cứu thực tiễn luận mác xít: các
nhà khoa học cho rằng, thứ nhất, nguyên tắc có tính tổng thể; vấn đề thực tiễn
là vấn đề tính tổng thể trong triết học mác xít; thứ hai, nguyên tắc có tính kết
cấu; hoạt động thực tiễn nhiều mặt, nhiều tầng lớp, phải nắm vững chính xác
kết cấu của nó, nhấn mạnh ý nghĩa cơ bản nhất thực tiễn sản xuất và phát triển
sức sản xuất của xã hội; thứ ba, nguyên tắc tính lịch sử, cụ thể.
Ở trong nước, khi bàn đến vấn đề năng lực và năng lực thực tiễn có
nhiều công trình khoa học đã đi sâu nghiên cứu luận chứng về mặt năng lực
cũng như khả năng hoạt động thực tiễn của con người nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động vật chất và hoạt động tinh thần. Các công trình khoa học luận
chứng một cách khoa học về sự gắn liền giữa năng lực của con người với hoạt
động thực tiễn mà trực tiếp là lao động sản xuất.
Bàn về năng lực thực tiễn của người cán bộ, tác giả Vũ Quang Tạo quan
niệm: “Năng lực thực tiễn của cán bộ có thể được hiểu là tổng thể những
thuộc tính hợp thành khả năng giúp người cán bộ hoạt động thực tiễn có hiệu
quả, theo yêu cầu nhiệm vụ chức trách của mình” [101, tr. 67]. Nâng cao năng
lực thực tiễn cho đội ngũ cán bộ là một đòi hỏi cấp bách hiện nay. Theo cách
tiếp cận năng lực thực tiễn là tổng thể những thuộc tính hợp thành khả năng
của cán bộ, giúp họ thực hiện có hiệu quả các hoạt động thực tiễn. Năng lực
thực tiễn của người cán bộ được tạo bởi khả năng xác định đúng hay không
đúng, phù hợp hay không phù hợp về mục đích, phương pháp, cách thức, lực
lượng, động lực… của hoạt động thực tiễn. Chủ thể có xác định đúng, giữ vững
mục đích của quá trình hoạt động thì họ mới có kết quả, vì không cảnh giác, con
người càng hoạt động càng xa mục đích của mình. Năng lực thực tiễn của người
cán bộ được quan niệm là sự khơi dậy, quy tụ, sử dụng có hiệu quả các lực
lượng, phương tiện để thực hiện mục đích hoạt động; thể hiện ở việc kiểm tra,
18
đánh giá kết quả, xác định đúng nguyên nhân và rút ra bài học kinh nghiệm
trong quá trình tham gia hoạt động thực tiễn, giúp người cán bộ nâng cao năng
lực hoạt động của mình.
Các công trình khoa học liên quan đến năng lực thực tiễn của người cán
bộ đã luận chứng về những thuộc tính, những yếu tố cần có để có thể giúp họ
hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Trong đó, nhấn mạnh biện pháp tiến hành
bồi dưỡng, rèn luyện người cán bộ, cần công phu, chủ động, tích cực và
thường xuyên, kết hợp chặt chẽ giữa công tác tư tưởng và công tác tổ chức,
phát huy trách nhiệm của các lực lượng vào nhiệm vụ bồi dưỡng phẩm chất,
năng lực cho họ.
1.2.2. Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến nâng cao
năng lực thực tiễn của ngươi cán bộ
Khi nghiên cứu về việc bồi dưỡng năng lực thực hành công tác đảng, công
tác chính trị của học viên đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội ở Học viện Chính trị
quân sự trong giai đoạn hiện nay, tác giả Nguyễn Chính Lý [67] cho rằng, bồi dưỡng
năng lực thực hành công tác đảng, công tác chính trị của học viên đào tạo cán bộ
chính trị cấp phân đội là bộ phận cơ bản của hoạt động giáo dục, đào tạo, gồm tổng
thể những tác động có chủ định và hệ thống của lãnh đạo, chỉ huy, cơ quan chức
năng, đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý cùng với sự nỗ lực học tập, rèn luyện của
học viên để trang bị, củng cố, mở rộng tri thức và hình thành, phát triển kỹ xảo, kỹ
năng cho người học. Năng lực công tác đảng, công tác chính trị hợp thành năng lực
của người cán bộ chính trị cấp phân đội và khả năng tổ chức hoạt động thực tiễn.
Năng lực thực hành công tác đảng, công tác chính trị là trình độ thực tế
vận dụng tri thức, kỹ năng, kỹ xảo được trang bị để giải quyết những nhiệm
vụ cụ thể, công việc cụ thể công tác tư tưởng, công tác tổ chức trong thực tiễn
theo chức trách, nhiệm vụ được phân công của người cán bộ chính trị. Trên
cơ sở đó, công trình đã luận chứng những vấn đề có tính nguyên tắc trong
19
việc nâng cao năng lực thực hành công tác đảng, công tác chính trị. Khảo sát
thực trạng, đưa ra hệ thống giải pháp để nâng cao năng lực của người học viên
đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội.
Nghiên cứu giải pháp nâng cao năng lực thực tiễn của đội ngũ cán
bộ, tác giả Vũ Quang Tạo đã luận chứng về năng lực thực tiễn và cho rằng:
“năng lực thực tiễn của người cán bộ do nhiều yếu tố hợp thành…, khả
năng xác định mục đích, khơi dậy, quy tụ, sử dụng các lực lượng phương
tiện và phát hiện, giải quyết kịp thời các mâu thuẫn bất cập trong hoạt động
thực tiễn là những thuộc tính cơ bản quan trọng nhất” [101, tr. 69]. Trên cơ
sở luận chứng những yếu tố cơ bản hợp thành năng lực thực tiễn của người
cán bộ, công trình đã đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm phát huy cả yếu
tố khách quan và nhân tố chủ quan trong việc nâng cao năng lực thực tiễn
của đội ngũ cán bộ hiện nay.
Nghiên cứu hệ thống động lực và giải pháp để phát triển toàn diện con
người nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thực tiễn của người cán bộ, tác giả
Nguyễn Văn Tài đã tiếp cận con người, từ “con người hiện thực” - con người
hoạt động, mà cơ sở là hoạt động thực tiễn lấy đó làm “tiền đề xuất phát” [99].
Phương pháp tiếp cận này tuân theo yêu cầu hoạt động - giá trị - nhân cách. Tiếp
cận từ hoạt động vì đó là phương thức quan hệ giữa con người với thế giới là
phương thức tác động lẫn nhau giữa người với người, là cơ sở hình thành nhân
cách, là hình thức tồn tại và biểu hiện của nhân tố con người trong hiện thực.
Tích cực hoá nhân tố con người là quá trình phát hiện, bồi dưỡng kích
thích phát triển đối với con người, tác giả cho rằng, nhân tố con người chính là
sự thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa hoạt động với phẩm chất và năng lực
chính là động lực bên trong thúc đẩy tính tích cực, tự giác, sáng tạo của con
người phát triển. Phát huy tính tích cực xã hội của đội ngũ cán bộ là quá trình
làm chuyển biến, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ cán bộ cả về phẩm chất, năng
lực, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Quá
- Xem thêm -