Căn cứ chương trình Kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa XIII, Chính phủ trình Quốc hội báo cáo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020 như sau:
CHÍNH PHỦ
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Số: 77/BC-CP
Hà Nội, ngày 16 tháng 3 năm 2016
BÁO CÁO
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020
Kính gửi: Đại biểu Quốc hội khóa XIII
Căn cứ chương trình Kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa XIII, Chính phủ
trình Quốc hội báo cáo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020
như sau:
Phần thứ nhất
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM 2011-2015
Trước Đại hội Đảng lần thứ XI, hầu hết các nước trên thế giới thực hiện
chính sách hỗ trợ tăng trưởng nhằm đối phó với khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế toàn cầu. Nhiều dự báo cho rằng khủng hoảng có thể sớm kết
thúc và triển vọng kinh tế thế giới có thể phục hồi sau năm 2010. Trong nước
chúng ta thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội, trong đó có chính sách kích cầu, hỗ trợ tăng trưởng. Giai đoạn 2006-2010
tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 7% 1. Nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát
triển, bước vào nhóm các nước đang phát triển có thu nhập trung bình và hoàn
thành nhiều Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ. Trên cơ sở kết quả đạt được
của giai đoạn 2006-2010 và do chưa lường hết được những khó khăn, thách
thức nên nhiều chỉ tiêu chủ yếu về kinh tế - xã hội đề ra cho 5 năm 2011-2015
là khá cao.
Tính theo giá so sánh năm 1994, tốc độ tăng trưởng kinh tế 5 năm 2006-2010 bình quân 5 năm là trên 7%,
trong đó: năm 2006: 8,23%, năm 2007: 8,46%, năm 2008: 6,31%, năm 2009: 5,32%; 2010: 6,78%. Tuy
nhiên, tính theo giá so sánh năm 2010, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm 2006-2010 chỉ là 6,32%,
trong đó: năm 2006: 6,98%, năm 2007: 7,13%, năm 2008: 5,66%, năm 2009: 5,4%, năm 2010: 6,42%.
1
Bước vào kế hoạch 5 năm 2011-2015, tình hình thế giới, khu vực có
nhiều diễn biến nhanh và rất phức tạp; kinh tế thế giới phục hồi chậm hơn dự
báo; khủng hoảng chính trị ở nhiều nơi, nhiều nước, cạnh tranh về nhiều mặt
ngày càng quyết liệt giữa các nước lớn tại khu vực, … đã tác động bất lợi đến
nước ta. Trong nước, ngay từ đầu nhiệm kỳ, cùng với những ảnh hưởng của
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, những hạn chế, khiếm
khuyết vốn có của nền kinh tế chưa được giải quyết, tồn tại, yếu kém trong lãnh
đạo, quản lý và những vấn đề mới phát sinh đã làm cho lạm phát tăng cao, ảnh
hưởng nghiêm trọng đến ổn định kinh tế vĩ mô, tốc độ tăng trưởng và đời sống
nhân dân. Tình hình phức tạp, căng thẳng trên Biển Đông đe dọa nghiêm trọng
tới hòa bình, ổn định và tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu gây thiệt hại nặng nề. Nhu cầu bảo
đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội ngày càng cao. Đồng thời, chúng ta phải
dành nhiều nguồn lực để bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo vệ chủ quyền đất
nước trước những động thái mới của tình hình khu vực và quốc tế.
Trước diễn biến mới của tình hình, Chính phủ đã trình Trung ương
Đảng đã quyết định điều chỉnh mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
5 năm 2011-2015 đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Theo đó, tập trung ưu
tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô; bảo đảm an sinh xã hội; cải
thiện đời sống nhân dân; duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý gắn với đẩy mạnh
thực hiện ba đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế và đổi mới mô hình
tăng trưởng; bảo đảm quốc phòng, an ninh và ổn định chính trị - xã hội; tăng
cường hoạt động đối ngoại và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế; tạo tiền đề
vững chắc cho tăng trưởng cao hơn ở những năm cuối của kế hoạch 5 năm
2011-2015.
Với sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư, các cấp ủy đảng trong việc triển khai Nghị quyết Đại
hội XI, các Nghị quyết của Quốc hội, Nghị quyết số 10/NQ-CP ngày 24 tháng
4 năm 2012 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ
triển khai thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 và
phương hướng, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm 2011-2015; sự đổi mới,
nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội; sự quản lý, điều hành năng
động, quyết liệt trên nhiều lĩnh vực của Chính phủ, chính quyền các cấp; sự
nỗ lực phấn đấu, sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân đã giải quyết kịp thời, có
kết quả nhiều vấn đề phát sinh; nền kinh tế đã vượt qua nhiều khó khăn, thách
thức, quy mô, tiềm lực được nâng lên.
2
Dưới đây là đánh giá tình hình, kết quả chủ yếu, những tồn tại hạn chế
và bài học kinh nghiệm trong việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội 5 năm 2011-2015.
I. TÌNH HÌNH VÀ KẾT QUẢ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI GIAI
ĐOẠN 2011-2015
1. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát
Thực hiện đồng bộ các giải pháp để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ
mô; điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt và phối hợp tốt hơn với
chính sách tài khoá. Đã cơ bản bảo đảm được các cân đối lớn của nền kinh tế.
Tốc độ tăng giá tiêu dùng giảm mạnh, từ 11,75 năm 2010 xuống còn 0,6% vào
năm 20152. Mặt bằng lãi suất giảm, năm 2015 chỉ bằng khoảng 50% so với cuối
năm 2011. Tỷ giá, thị trường ngoại hối ổn định. Khắc phục được cơ bản tình
trạng sử dụng đô-la, vàng trong giao dịch thanh toán. Niềm tin vào đồng tiền
Việt Nam tăng lên. Cán cân thương mại được cải thiện; cán cân thanh toán quốc
tế thặng dư khá cao. Dự trữ ngoại hối tăng, đạt mức cao nhất từ trước đến nay.
Tăng cường quản lý thị trường, giá cả, bảo đảm cân đối cung - cầu các
mặt hàng thiết yếu và đẩy mạnh phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại.
Một số mặt hàng và dịch vụ thiết yếu do Nhà nước quản lý giá đã từng bước
được điều chỉnh cả về cơ chế và mức giá dần phù hợp với cơ chế thị trường,
góp phần tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, thu hút các thành phần kinh tế
đầu tư kinh doanh, nhất là các dịch vụ công cộng trong các ngành y tế, giáo
dục đào tạo,...
Quản lý ngân sách nhà nước được tăng cường; chính sách thu được
điều chỉnh phù hợp góp phần tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh,
đáp ứng yêu cầu hội nhập; đẩy mạnh chống thất thu, chống chuyển giá, xử lý
nợ đọng thuế, thu ngân sách tăng gần 2 lần so với giai đoạn 2006-2010.
Trong điều kiện nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, đã thực hiện điều chỉnh
chính sách thu theo hướng giảm thuế suất, giãn thuế và giảm một số khoản thu
của ngân sách nhà nước góp phần tích cực hỗ trợ các doanh nghiệp phục hồi
sản xuất kinh doanh, tăng năng lực cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc
tế. Cùng với sự phục hồi của nền kinh tế kết hợp với tăng cường công tác quản
lý thu, nhiệm vụ thu ngân sách nhà nước hàng năm đều vượt dự toán Quốc hội
đề ra; tỷ lệ huy động từ thuế, phí bình quân khoảng 20-21% GDP (Nghị quyết
của Quốc hội đề ra không quá 22-23% GDP). Cơ cấu thu chuyển biến tích cực,
2
Chỉ số giá tiêu dùng năm 2011 tăng lên 18,13%.
3
thu nội địa chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng thu ngân sách nhà nước:
giai đoạn 2006-2010 là 59% và giai đoạn 2011-2015 đạt khoảng 68%, trong đó
năm 2015 đạt khoảng 74,2%, cao hơn mục tiêu đề ra là 70%.
Tổng chi ngân sách nhà nước giai đoạn 2011-2015 bằng khoảng 2 lần
so với giai đoạn 2006-2010, trong đó chi đầu tư phát triển bằng khoảng 1,7
lần, chi trả nợ bằng khoảng 1,83 lần, chi thường xuyên bằng khoảng 2,53 lần.
Chi ngân sách được quản lý chặt chẽ hơn theo hướng tiết kiệm, hiệu quả, các
nhiệm vụ chi được cơ cấu lại, ưu tiên cho bảo đảm an sinh xã hội, phát triển
con người và thực hiện các nghĩa vụ trả nợ. Huy động nhiều nguồn lực cho
đầu tư phát triển, tập trung vốn hoàn thành các công trình quan trọng, cấp
bách và đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn. Trong tổng chi ngân sách
nhà nước giai đoạn 2011-2015, chi thường xuyên chiếm khoảng 64-65% (giai
đoạn 2006-2010 chiếm 55,2%) chủ yếu là tăng chi cho con người, bao gồm cả
chi tiền lương và an sinh xã hội; chi đầu tư phát triển giảm mạnh so với các
giai đoạn trước từ 30,6% (giai đoạn 2001-2005) xuống 28,2% (giai đoạn
2006-2010) và còn khoảng 23,6% (giai đoạn 2011-2015).
Cân đối NSNN giai đoạn này gặp nhiều khó khăn do tác động không
thuận từ kinh tế thế giới và trong nước, ảnh hưởng đến nguồn thu NSNN,
trong khi nhu cầu chi tăng lớn, dẫn đến bội chi NSNN cao hơn mức Quốc hội
cho phép3 (năm 2011 mức bội chi là 4,4% GDP, năm 2012 là 5,36% GDP,
năm 2013 là 6,6% GDP, năm 2014 là 5,69% GDP, năm 2015 khoảng 6,1%
GDP4). Đến cuối năm 2015, tỷ lệ nợ công so với GDP khoảng 62,2%, nợ
Chính phủ là 50,3%, nợ nước ngoài của quốc gia là 43,1%5.
Về đầu tư phát triển: giai đoạn 2011-2015, do tác động của suy giảm
kinh tế, huy động vốn các thành phần kinh tế khác gặp nhiều khó khăn, cùng
với việc thực hiện các chính sách kiềm chế lạm phát, dẫn đến tổng vốn đầu tư
phát triển tăng chậm lại và thấp hơn so với tốc độ tăng giai đoạn trước. Tổng
vốn đầu tư toàn xã hội 5 năm huy động đạt 5.617,1 nghìn tỷ đồng, gấp hơn
1,8 lần so với giai đoạn 2006-2010. Tỷ lệ huy động vốn đầu tư toàn xã hội so
với GDP bình quân 5 năm đạt 31,7% (mục tiêu đề ra là 33,5-35%); trong đó:
Nghị quyết Quốc hội: Bội chi NSNN đạt dưới 4,5% vào năm 2015 (tính cả trái phiếu Chính phủ).
Bội chi NSNN năm 2015 là 256 nghìn tỷ đồng, bằng mức Quốc hội cho phép, gồm: 226 nghìn tỷ đồng đã
được Quốc hội thông qua tại Nghị quyết số 78/2014/QH13 ngày 10/10/2014 và 30 nghìn tỷ đồng tăng thêm
vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài được Quốc hội thông qua tại Nghị quyết số
99/2015/QH13 ngày 11/11/2015. Tỷ lệ bội chi cao hơn mức đã báo cáo Quốc hội do quy mô GDP năm 2015
thực tế giảm so với số đã báo cáo Quốc hội là 291,1 nghìn tỷ đồng.
5 Theo Nghị quyết số 10/2011/QH13 ngày 08/11/2011 về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 20112015 của Quốc hội, đến năm 2015 nợ công không quá 65% GDP, nợ Chính phủ không quá 50% GDP và nợ
nước ngoài của quốc gia không quá 50% GDP.
3
4
4
vốn đầu tư nguồn ngân sách nhà nước 5 năm 1.206,9 nghìn tỷ đồng, chiếm
21,5%; vốn trái phiếu Chính phủ 326,0 nghìn tỷ đồng, chiếm 5,8%; vốn tín
dụng đầu tư phát triển của Nhà nước 279,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 5%; vốn đầu
tư của doanh nghiệp nhà nước 500,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 8,9%; vốn đầu tư
của dân cư và doanh nghiệp tư nhân 2.166,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 38,6%; vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) 1.026,2 nghìn tỷ đồng (không bao gồm
phần vốn đóng góp trong nước), chiếm 18,3%; các nguồn vốn khác thực hiện
112,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 2,0% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Khu vực đầu tư nước ngoài có những đóng góp tích cực cho sự phát
triển của nền kinh tế. Tính chung trong 5 năm 2011-2015, tổng số vốn FDI
thực hiện (gồm cả phần vốn góp trong nước) đạt 60,5 tỷ USD, tăng khoảng
35,6% so với giai đoạn 2006-2010 và tăng đều qua các năm 6. Vốn FDI đăng
ký trong 5 năm 2011-2015 giảm so với giai đoạn trước. Tính chung cả giai
đoạn, tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm đạt 99 tỷ USD. Sự giảm sút về
vốn FDI đăng ký trong giai đoạn này có nguyên nhân từ việc phục hồi chậm
của nền kinh tế thế giới làm giảm dòng vốn FDI toàn cầu, số lượng những dự
án có quy mô lớn giảm mạnh so với giai đoạn trước.
Mặc dù nguồn cung vốn ODA thế giới giảm sút, song nước ta vẫn nhận
được sự ủng hộ và cam kết mạnh mẽ của cộng đồng các nhà tài trợ. Trong 5
năm 2011-2015, tổng vốn ODA và vốn vay ưu đãi ký kết theo các điều ước
quốc tế đạt 27,78 tỷ USD, trong đó vốn vay ODA và vốn vay ưu đãi đạt 26,53
tỷ USD chiếm khoảng 95,5% và ODA viện trợ không hoàn lại đạt 1,25 tỷ
USD chiếm khoảng 4,5%. Tổng vốn ODA và vốn vay ưu đãi giải ngân giai
đoạn đạt 22,32 tỷ USD.
2. Tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp lý, từ năm 2013 dần
phục hồi, năm sau cao hơn năm trước; chất lượng tăng trưởng được
nâng lên
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 5 năm đạt trên
5,9%/năm7, trong đó năm 2014 đạt 5,98%, năm 2015 đạt 6,68%, đều vượt
mục tiêu đề ra. Quy mô và tiềm lực của nền kinh tế tiếp tục tăng lên; GDP
năm 2015 đạt 193,4 tỷ USD, bình quân đầu người khoảng 2.109 USD8.
Năm 2011: 11 tỷ USD, năm 2012: 11 tỷ USD, năm 2013: 11,5 tỷ USD, năm 2014: 12,5 tỷ USD, năm 2015:
14,5 tỷ USD.
6
7
Tăng trưởng GDP năm 2011 đạt 6,24%, năm 2012: 5,25%, năm 2013: 5,42%, năm 2014: 5,98% và năm
2015 đạt 6,68%.
8 Tính theo giá hiện hành. Tính theo sức mua tương đương khoảng 5.800 USD.
5
Sản xuất công nghiệp từng bước phục hồi; tăng trưởng khu vực công
nghiệp, xây dựng bình quân 6,9%/năm9; chỉ số sản xuất công nghiệp năm
2015 tăng khoảng 9,8% so với năm 2014. Cơ cấu trong nội bộ ngành công
nghiệp đã dần chuyển dịch theo hướng tích cực.
Công nghiệp năng lượng được phát triển theo hướng bền vững, đa dạng
nhiều dự án nguồn điện bao gồm cả điện than, thủy điện, điện gió; khai thác
và chế biến dầu khí, than đã đi vào hoạt động ổn định. Việc tận dụng nhiệt khí
thải trong nhà máy xi măng để phát điện; sử dụng tro xỉ, thạch cao của các
nhà máy nhiệt điện, thép, phân bón để làm nguyên liệu phục vụ các ngành sản
xuất khác đã được quan tâm phát triển.
Công nghiệp khai khoáng đã có sự chuyển dịch, tập trung chế biến sâu,
tiến tới hạn chế xuất khẩu khoáng sản chưa qua chế biến, ưu tiên bảo đảm nhu
cầu nguyên, nhiên liệu phục vụ sản xuất trong nước. Công nghiệp phụ trợ,
công nghiệp công nghệ cao đã bắt đầu hình thành và từng bước phát triển
phục vụ cho nhu cầu sản xuất, lắp ráp của các ngành khác, hướng tới nâng cao
hơn nữa tỷ lệ nội địa hóa các sản phẩm.
Ngành công nghiệp đã cơ bản bảo đảm nhu cầu nhiều mặt hàng thiết yếu
cho sản xuất và đời sống của nhân dân, trong đó có nhiều sản phẩm mới với
mẫu mã đa dạng, phong phú, chất lượng được nâng lên; đồng thời ngành công
nghiệp đã đóng góp khoảng 80% kim ngạch xuất khẩu hằng năm của cả nước.
Ngành xây dựng đã từng bước hoàn thiện hệ thống thể chế, chất lượng
công tác quy hoạch xây dựng dần được nâng cao, đã tích cực thực hiện tái cơ
cấu ngành xây dựng gắn với đẩy mạnh cổ phần hóa, tái cơ cấu doanh nghiệp
nhà nước. Thị trường bất động sản dần được phục hồi, chất lượng giao dịch
tăng. Mặt bằng giá cả nhà ở ổn định, tồn kho bất động sản giảm. Cơ cấu hàng
hóa bất động sản chuyển dịch theo hướng hợp lý, phù hợp với nhu cầu của
thị trường.
Khu vực nông nghiệp cơ bản phát triển ổn định, tăng trưởng khu vực
nông, lâm nghiệp và thủy sản bình quân 3,0%/năm; độ che phủ rừng năm
2015 đạt 40,7%.
Sự phát triển ổn định của ngành trồng trọt và việc phát huy được lợi thế cả
về khai thác và nuôi trồng thủy sản trở thành động lực tăng trưởng của khu vực
nông lâm nghiệp và thủy sản. Công tác thủy lợi tiếp tục nhận được sự quan tâm
Giá trị gia tăng ngành công nghiệp, xây dựng năm 2011 tăng 6,68%, năm 2012: 5,75%, năm 2013: 5,43%,
năm 2014: 7,14%, năm 2015: 9,29%.
9
6
đầu tư. Tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới tại các
địa phương được triển khai thực hiện mạnh mẽ. Hệ thống cơ sở hạ tầng thiết yếu
ở nông thôn được tăng cường, tạo đà cho phát triển kinh tế - xã hội và tăng
hưởng thụ trực tiếp cho người dân. Tỷ lệ dân nông thôn được sử dụng nước hợp
vệ sinh năm 2015 đạt 86%. Các hình thức tổ chức sản xuất bước đầu được đổi
mới theo hướng hợp tác, liên kết, sản xuất hàng hóa quy mô lớn theo chuỗi.
Chịu tác động chung từ cuộc khủng hoảng kinh tế, lạm phát tăng cao,
nên giai đoạn 2011-2013, tăng trưởng của dịch vụ phân phối và hoạt động
dịch vụ thương mại trong nước thấp hơn so với giai đoạn trước. Tuy nhiên,
nhờ các chính sách phù hợp, cùng với sự phục hồi chung của nền kinh tế
trong năm 2014 và 2015, các ngành dịch vụ đã dần vượt qua khó khăn, từng
bước lấy lại đà tăng trưởng. Tăng trưởng khu vực dịch vụ đạt khá, bình quân
tăng 6,3%/năm. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
tăng bình quân 14,1%/năm (loại trừ yếu tố giá tăng khoảng 5,6%), riêng năm
2015 nếu loại trừ yếu tố giá tăng 8,4%.
Các ngành dịch vụ đã không ngừng đa dạng hóa các loại hình dịch vụ,
mở rộng thị trường, đáp ứng tốt nhu cầu phát triển kinh tế và đời sống, tạo ra
nhiều việc làm cho xã hội.
Nhu cầu vận chuyển hàng hóa cơ bản đáp ứng yêu cầu. Khối lượng
hàng hóa vận chuyển trong 5 năm đạt 5.060,8 triệu tấn, tăng bình quân
7,2%/năm. Thị trường hàng không đang phát triển nhanh, an ninh, an toàn
hàng không được đảm bảo. Mạng lưới kết cấu hạ tầng giao thông không
ngừng được đầu tư xây mới, nâng cấp cải tạo.
Ngành du lịch tiếp tục có bước phát triển khá. Mặc dù, lượng khách du
lịch quốc tế đến Việt Nam có giảm mạnh từ cuối năm 2014 và 6 tháng đầu
năm 2015 so với những năm trước10. Tổng doanh thu từ khách du lịch tăng
bình quân 21%/năm; khách quốc tế đạt 7,9 triệu lượt vào năm 2015. Nhìn
chung trong cả giai đoạn 2011-2015 các chỉ tiêu cơ bản vẫn vượt mục tiêu đề
ra tại Chiến lược và Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2030.
Ngành bưu chính viễn thông và công nghệ thông tin phát triển nhanh
với tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2011-2015 đạt trên 10%/năm. Đến hết
năm 2015, tỷ lệ thuê bao Internet băng rộng cố định đạt 15,4 thuê bao/100
Số lượt khách quốc tế đến Việt Nam năm 2011: 6 triệu lượt người; năm 2012: 6,8 triệu lượt người; năm
2013: 7,6 triệu lượt người; năm 2014: 7,87 triệu lượt người; năm 2015: 7,9 triệu lượt người.
10
7
dân, tỷ lệ thuê bao điện thoại đạt 144,9 máy/100 dân. Tỷ lệ dân số sử dụng
Internet đạt khoảng 45%.
Về xuất, nhập khẩu: Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa 5 năm 20112015 đạt 656 tỷ USD, tăng bình quân 17,5%/năm, tương đương tốc độ tăng
của giai đoạn trước11 và vượt mục tiêu kế hoạch 12%/năm, trở thành một
trong những nhân tố quan trọng giúp tăng trưởng kinh tế Việt Nam không bị
giảm sâu trong những năm vừa qua. Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa 5
năm 2011-2015 đạt 666 tỷ USD, tăng bình quân trên 14,3%/năm, thấp hơn so
với giai đoạn trước là 18,2%.
Cơ cấu xuất khẩu có những chuyển biến tích cực theo hướng giảm hàm
lượng xuất khẩu thô, tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến, sản phẩm công nghiệp.
Khu vực vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục duy trì tốc độ tăng
trưởng cao và đóng góp chủ yếu cho tăng trưởng xuất khẩu 12. Cơ cấu hàng hóa
nhập khẩu cũng chuyển dịch theo hướng tăng nhập khẩu các mặt hàng thiết bị
máy móc; nguyên, nhiên, vật liệu phục vụ đầu tư phát triển sản xuất hàng xuất
khẩu, giảm nhập khẩu các mặt hàng không thiết yếu, trong nước sản xuất được.
Thị trường xuất khẩu ngày càng được mở rộng, hàng hóa xuất khẩu đã
vươn tới hầu hết các thị trường trên thế giới. Nhiều sản phẩm đã dần có chỗ
đứng và khả năng cạnh tranh trên nhiều thị trường có yêu cầu cao về chất
lượng như EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ,… Cơ cấu thị trường xuất khẩu có bước
dịch chuyển dần, đến năm 2015, kim ngạch xuất khẩu vào thị trường châu Á
50%, thị trường châu Âu 20% và châu Mỹ tăng lên trên 25%. Thị trường châu
Phi, Tây Nam Á và châu Đại Dương cũng bắt đầu có dấu hiệu chuyển biến.
Về cơ cấu thị trường nhập khẩu, tỷ trọng nhập khẩu từ thị trường châu Á
trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam luôn ở mức cao, khoảng 80%.
Mức nhập siêu được kiềm chế ngay từ năm 2011 và tiếp tục được cải
thiện trong những năm tiếp theo. Năm 2011, tỷ lệ nhập siêu trên tổng kim
ngạch xuất khẩu chiếm 10,16% (9,8 tỷ USD), đặc biệt 3 năm tiếp theo đã
chuyển sang thặng dư, với mức thặng dư tới 2,4 tỷ USD vào năm 2014, tương
đương 1,6% tổng kim ngạch xuất khẩu. Năm 2015 nhập siêu khoảng 2% kim
ngạch xuất khẩu. Nhập siêu giảm là một trong những yếu tố quan trọng giúp
giảm áp lực tăng tỷ giá và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế.
11
Giai đoạn 2001-2005: 17,5%, 2006-2010: 17,4%.
12
Tỷ trọng xuất khẩu của FDI (không kể dầu thô) trong tổng kim ngạch xuất khẩu tăng từ 49,4% năm 2011
lên 68,2% năm 2015.
8
Về phát triển doanh nghiệp: Tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập
trong nền kinh tế đến hết năm 2015 đạt 940,9 nghìn doanh nghiệp, trong đó,
số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới trong giai đoạn 2011-2015 đạt 393,8
nghìn doanh nghiệp. Tổng số vốn đăng ký của doanh nghiệp dân doanh thành
lập mới giai đoạn 2011-2015 đạt 2.413,3 nghìn tỷ đồng.
Các vườn ươm doanh nghiệp, các quỹ đầu tư mạo hiểm đã được hình
thành và từng bước phát triển, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc hỗ trợ hình
thành và phát triển các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
Kinh tế tập thể với nòng cốt là hợp tác xã, mặc dù còn nhiều khó khăn,
nhưng bước đầu thể hiện ngày càng rõ hơn vai trò quan trọng trong tổng thể
nền kinh tế. Trong giai đoạn 2011-2015, số lượng hợp tác xã, liên hiệp hợp tác
xã có chiều hướng tăng nhanh về số lượng và quy mô 13. Hoạt động của hợp
tác xã từng bước được cải thiện, ngày càng khẳng định tính hiệu quả và bền
vững, đặc biệt trong việc liên kết kinh tế hộ nông dân theo hướng sản xuất
hàng hóa, chế biến và tiêu thụ nông sản, nhất là xuất khẩu.
Đi đôi với việc phục hồi và phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế, chất
lượng tăng trưởng nhiều mặt được nâng lên, đóng góp của khoa học, công
nghệ tăng; năng suất lao động tăng bình quân 4,2%/năm, cao hơn giai đoạn
trước14; vốn đầu tư được sử dụng hiệu quả hơn 15. Đóng góp của năng suất các
nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng giai đoạn 2011-2015 khoảng 29%.
3. Ba đột phá chiến lược được tập trung thực hiện và đạt kết quả
tích cực
a) Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được
hoàn thiện; môi trường đầu tư, kinh doanh và năng lực cạnh tranh được cải thiện
Hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện, đáp ứng tốt hơn yêu
cầu phát triển và hội nhập quốc tế, đã ban hành và triển khai thực hiện Hiến
pháp năm 2013. Ngoài ra, Quốc hội đã ban hành, sửa đổi nhiều luật có liên
quan, như Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Đất đai,
Luật Xây dựng, các Luật thuế,... với nhiều đổi mới mạnh mẽ; công tác cải
cách hành chính, nhất là các thủ tục hành chính đã đạt được một số kết quả
nhất định trên các lĩnh vực quan trọng nhất là trong các lĩnh vực đăng ký kinh
Trong năm 2015 đã thành lập mới khoảng 939 hợp tác xã, nâng tổng số hợp tác xã lên khoảng 19.671 hợp
tác xã, thu hút khoảng 8.083.750 thành viên vào cuối năm 2015; thành lập mới 7 liên hiệp hợp tác xã, nâng
tổng số liên hiệp hợp tác xã lên khoảng 51 liên hiệp hợp tác xã vào cuối năm 2015.
14 Bình quân giai đoạn 2006-2015 tăng 3,9%, trong đó giai đoạn 2006-2010 là 3,4%;
15 Tiêu hao điện năng trên một đơn vị GDP giảm từ 0,8 kwh năm 2010 xuống còn 0,71-0,72 kwh năm 2015.
Chỉ số ICOR giai đoạn 2011-2015 khoảng 6,91 (giai đoạn 2006-2010 là 6,96).
13
9
doanh, thủ tục nộp thuế, hải quan… Hệ thống pháp luật nước ta cơ bản bảo
đảm phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam nhất là cam kết WTO.
Các yếu tố thị trường và các loại thị trường được hình thành và vận
hành khá đồng bộ, gắn kết hiệu quả hơn với thị trường ngoài nước. Giá hàng
hóa, dịch vụ đã cơ bản theo nguyên tắc thị trường. Thực hiện giá thị trường
theo lộ trình đối với xăng dầu, than, điện, nước, dịch vụ giáo dục, y tế,... gắn
với hỗ trợ các đối tượng chính sách, hộ nghèo, vùng khó khăn.
Môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện, cạnh tranh minh bạch,
bình đẳng hơn giữa các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp, góp
phần huy động, phân bổ và sử dụng ngày càng hiệu quả các nguồn lực trong,
ngoài nước cho phát triển kinh tế - xã hội. Thủ tục hành chính, nhất là lĩnh
vực thuế, hải quan được rút ngắn đáng kể. Ứng dụng công nghệ thông tin
trong quản lý nhà nước được tăng cường. Năng lực cạnh tranh có bước được
nâng lên. Đặc biệt, là việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày
18 tháng 3 năm 2014 và Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 12 tháng 3 năm 2015,
đẩy mạnh việc cải cách, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, tạo thuận lợi,
giảm thời gian, chi phí cho doanh nghiệp, cải thiện môi trường đầu tư, kinh
doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh16, nhất là các lĩnh vực liên quan trực
tiếp đến người dân và doanh nghiệp; xây dựng môi trường kinh doanh ngày
càng minh bạch hơn17; như: giảm thời gian giải quyết hồ sơ đăng ký doanh
nghiệp, pháp lý hóa các quy trình trao đổi thông tin đăng ký doanh nghiệp,
thông tin về báo cáo tài chính của doanh nghiệp giữa cơ quan đăng ký kinh
doanh và cơ quan thuế, thống nhất quy trình chia sẻ thông tin về tình trạng
hoạt động của doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác
quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp sau đăng ký thành lập. Rà soát, loại bỏ
bớt ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện 18; công khai Danh mục
ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện và hướng dẫn chi tiết về quy định
hành chính đối với từng ngành, nghề cụ thể trên Cổng Thông tin quốc gia về
đăng ký doanh nghiệp; cải cách quy trình, hồ sơ và thủ tục nộp thuế nhằm rút
ngắn thời gian kê khai, nộp thuế cho các doanh nghiệp đạt mức trung bình các
Chỉ số về Năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt nam theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF):
Chỉ số năng lực cạnh tranh tăng 12 bậc từ vị trí 68/140 trong giai đoạn 2014-2015 lên vị trí 56/140 giai đoạn
2015-2016. Trong đó, chỉ số cạnh tranh của cơ sở hạ tầng giao thông Việt Nam tăng tới 9 bậc, từ vị trí thứ 76
trong giai đoạn 2014-2015 lên vị trí 67.
17 Chỉ số về môi trường kinh doanh do Ngân hàng Thế giới đánh giá tại Báo cáo môi trường kinh doanh 2016
(Doingbusiness Report 2016): Xếp hạng môi trường kinh doanh của Việt Nam tăng 03 bậc (từ 93 lên 90). Trong
đó, một số chỉ số tăng khá là: Tiếp cận điện năng tăng 22 bậc (từ 130 lên 108), Tiếp cận tín dụng tăng 08 bậc (từ
36 lên 28), Khởi sự kinh doanh tăng 06 bậc (từ 125 lên 119), Nộp thuế tăng 04 bậc (từ 172 lên 168).
16
18
Giảm từ 386 xuống còn 267 ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Giảm từ 51 lĩnh vực, ngành, nghề,
hàng hóa, dịch vụ cấm đầu tư, kinh doanh xuống còn 6 ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh (giảm gần 90%).
10
nước ASEAN 6 vào năm 2015; nghiên cứu ban hành quy trình nghiệp vụ
quản lý hải quan đối với hàng hóa gia công cho thương nhân nước ngoài, quy
định về việc giám sát hải quan tại cảng biển... Đồng thời, mở rộng triển khai
nộp thuế qua hệ thống ngân hàng, đẩy mạnh tự động hóa quy trình tiếp nhận
giải quyết hồ sơ, thủ tục hành chính thuế, khuyến khích các doanh nghiệp
thực hiện việc kê khai thuế qua mạng Internet... góp phần giảm thiểu chi phí
tuân thủ cho người nộp thuế.
Vai trò kinh tế ngoài nhà nước (không kể đầu tư nước ngoài) ngày càng
được nâng cao hơn. Năm 2015 khu vực kinh tế này đóng góp 38,5% tổng đầu
tư toàn xã hội và khoảng 48,3% GDP.
b) Phát triển nguồn nhân lực và khoa học công nghệ đạt được những
kết quả tích cực
Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách phát triển nguồn nhân lực và
khoa học công nghệ tiếp tục được hoàn thiện.
Mạng lưới giáo dục đào tạo được mở rộng, quy mô và chất lượng được
nâng lên, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội. Nội dung, phương pháp giáo
dục đào tạo, thi cử và kiểm định chất lượng được đổi mới. Cơ cấu đào tạo hợp
lý hơn. Tập trung đầu tư cơ sở vật chất và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin trong giáo dục, đào tạo.
Trong giai đoạn 2011-2015 đã ban hành, hoàn thiện hoặc sửa đổi nhiều
chính sách đồng bộ tạo công bằng xã hội trong tiếp cận giáo dục, đào tạo. Có
chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ kinh phí học tập và cơ chế thu, sử dụng
học phí đối với các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, đã tạo
điều kiện cho các đối tượng học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn có cơ
hội được học tập, nhất là đối với người dân tộc thiểu số, người dân ở nông
thôn, các đối tượng chính sách và người có hoàn cảnh khó khăn; góp phần
duy trì, củng cố kết quả phổ cập giáo dục các tỉnh miền núi, các tỉnh có điều
kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. Mức thu học phí được tính toán phù
hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của từng khu vực và khả năng chi
trả của người dân theo địa bàn. Đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý được quan
tâm bồi dưỡng, nâng cao trình độ.
Giáo dục mầm non được các tỉnh, thành phố quan tâm bố trí quỹ đất,
đầu tư xây dựng mới để đáp ứng yêu cầu tăng quy mô, chất lượng; ưu tiên cho
thực hiện phổ cập giáo dục mầm non 5 tuổi và xây dựng trường đạt chuẩn
quốc gia.
11
Giáo dục phổ thông phát triển theo hướng hoàn thiện quy hoạch, phù
hợp với điều kiện vùng miền, quy mô học sinh của địa phương và hướng tới
đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển giáo dục toàn diện cho học sinh. Mạng lưới
trường, lớp phổ thông cơ bản đáp ứng nhu cầu học tập, các bất hợp lý dần
được khắc phục.
Giáo dục thường xuyên được củng cố và phát triển theo hướng thực
hiện nhiều nhiệm vụ, trong giai đoạn này không thực hiện xây mới mà tiến
hành tổ chức, sắp xếp lại; công tác xây dựng xã hội học tập được triển khai
đồng bộ từ Trung ương tới địa phương.
Giáo dục trung cấp chuyên nghiệp dù đã cố gắng trong công tác đầu tư,
truyền thông, định hướng nghề, nhưng tiếp tục gặp khó khăn trong tuyển sinh,
quy mô học sinh trung cấp chuyên nghiệp giảm mạnh.
Giáo dục đại học thực hiện chuyển đổi trọng tâm phát triển đào tạo
nguồn nhân lực từ tăng về số lượng sang nâng cao chất lượng và hiệu quả.
Mạng lưới cơ sở giáo dục đại học tiếp tục được hoàn thiện.
Đào tạo nghề được phát triển theo hướng xã hội hóa, dạy nghề từng
bước gắn với nhu cầu thị trường lao động, doanh nghiệp và hội nhập quốc tế,
hình thành cơ cấu nhân lực ngày càng phù hợp với nhu cầu sản xuất kinh
doanh và nhu cầu của người học. Cơ cấu ngành nghề đào tạo từng bước điều
chỉnh theo cơ cấu ngành nghề sản xuất, kinh doanh. Các hình thức liên kết
giữa cơ sở dạy nghề với doanh nghiệp được phát triển ở nhiều địa phương.
Đội ngũ giáo viên dạy nghề đã phát triển nhanh cả về số lượng, chất lượng,
trình độ đào tạo, kỹ năng nghề và sư phạm dạy nghề. Dạy nghề cho lao động
nông thôn được quan tâm. Trong giai đoạn 2010-2015, đã có trên 4,1 triệu lao
động nông thôn được đào tạo nghề, trong đó đã đào tạo nghề cho 2,7 triệu lao
động nông thôn theo Đề án 1956.
Nhìn chung, các chỉ tiêu về giáo dục đào tạo đạt được các kết quả bước
đầu. Tỷ lệ huy động trẻ trong độ tuổi mẫu giáo ra lớp đạt ở mức cao so với chỉ
tiêu kế hoạch đề ra, nhất là chỉ tiêu huy động trẻ 5 tuổi (tỷ lệ trẻ mẫu giáo đạt
89,9%, riêng trẻ mẫu giáo 5 tuổi đến trường đạt tỷ lệ 99,9%). Công tác phổ
cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi được giữ vững và nâng cao. Tỷ lệ người
biết chữ ở độ tuổi 15-60 đạt 98,25%. Công tác giáo dục vùng miền núi, dân
tộc có nhiều tiến bộ; tỷ lệ học sinh dân tộc nội trú chiếm khoảng 8% số học
sinh dân tộc thiểu số cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông. Bình quân
tuyển mới cao đẳng và đại học chính quy tăng 0,35%/năm, trung cấp chuyên
12
nghiệp giảm 10,9%/năm, tuyển mới cao đẳng và trung cấp nghề tăng
3,2%/năm. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 51,6% vào năm 2015.
Tiềm lực khoa học công nghệ được tăng cường. Đầu tư từ ngân sách
nhà nước cho khoa học, công nghệ tăng bình quân 16,5%/năm, đạt khoảng
2% tổng chi ngân sách nhà nước. Đầu tư xã hội cho khoa học, công nghệ tăng
nhanh, đạt 1,3% GDP vào năm 2015. Trong công bố Báo cáo Chỉ số đổi mới
sáng tạo toàn cầu năm 2015, Việt Nam đứng thứ 52 (so với vị trí 71 năm 2014
và 76 năm 2013) trên tổng số 141 nền kinh tế; trong khu vực Đông Nam Á,
Việt Nam đã ở trong Top 3, đứng sau Xinh-ga-po (7), Ma-lay-xi-a (32)19.
Khoa học xã hội và nhân văn đã tập trung nghiên cứu nhiều nội dung
mới, những quan điểm, giải pháp mới và những kiến nghị thiết thực tiếp tục
đóng góp quan trọng cho việc hoạch định các chủ trương, đường lối, chính
sách về phát triển đất nước. Khoa học kỹ thuật và công nghệ tiếp tục có bước
phát triển tích cực, ứng dụng khoa học và đổi mới công nghệ có bước tiến bộ,
nhất là trong một số lĩnh vực như nông nghiệp, xây dựng, y tế, thông tin
truyền thông,... góp phần tăng năng suất và nâng cao chất lượng sản phẩm,
hàng hóa, dịch vụ, tăng sức cạnh tranh của các sản phẩm, từng bước thay thế
các sản phẩm nhập khẩu. Các quỹ về khoa học và công nghệ được thành lập,
bước đầu đi vào hoạt động và phát huy hiệu quả.
Khoa học cơ bản đã có bước phát triển 20. Số lượng công trình nghiên
cứu có công bố và trích dẫn quốc tế tiếp tục tăng. Hoạt động nghiên cứu cơ
bản đã được đầu tư đúng mức và triển khai hiệu quả theo hướng chú trọng
chất lượng nghiên cứu hướng tới chuẩn mực quốc tế; tạo môi trường học thuật
khách quan, minh bạch, thuận lợi hơn cho các nhà khoa học. Tốc độ tăng số
lượng các công bố quốc tế từ các đề tài nghiên cứu sử dụng ngân sách nhà
nước của Việt Nam tăng trung bình 15-20%/năm.
Phát triển thị trường khoa học, công nghệ, tăng cường hoạt động kết
nối cung - cầu, giá trị giao dịch công nghệ tăng bình quân 13,5%/năm. Tổ
chức thành công hội nghị các sàn giao dịch công nghệ, các buổi triển lãm giới
thiệu sản phẩm sáng tạo của các nhóm nghiên cứu thuộc các trường Đại học.
Nhiều nội dung được triển khai để hỗ trợ, hình thành doanh nghiệp khoa học
công nghệ và doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ. Hình thành một số mô
Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) kết hợp với Đại học Cornell (Hoa Kỳ) và Học viện Kinh doanh
INSEAD (Pháp) ngày 17/9/2015 công bố Báo cáo về Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2015 tại thủ đô
London, Anh.
20
Có hai trung tâm xuất sắc là Trung tâm Toán học quốc tế và Trung tâm Vật lý quốc tế được UNESCO công
nhận và bảo trợ.
19
13
hình gắn kết hiệu quả giữa viện, trường với doanh nghiệp trong hoạt động
khoa học, công nghệ.
Một số chỉ tiêu cụ thể về khoa học công nghệ trong giai đoạn 20112015 đã đạt được những kết quả bước đầu đáng khích lệ. Giá trị sản phẩm
công nghệ cao và ứng dụng công nghệ cao trong giá trị sản xuất công nghiệp
có xu hướng tăng dần trong những năm qua (năm 2011: 12,74%, năm 2012:
17,22%, năm 2013: 18,37%).
Số lượng các sáng chế và giải pháp hữu ích đăng ký bảo hộ tăng hơn
giai đoạn trước21. Số cán bộ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, số
doanh nghiệp khoa học công nghệ, số cơ sở ươm tạo công nghệ cao và doanh
nghiệp công nghệ cao đã đạt kết quả khả quan bước đầu 22. Số liệu công bố
khoa học trên các tạp chí quốc tế có uy tín của Việt Nam ngày càng tăng, giai
đoạn 2011-2014 tăng trung bình hơn 22,9%/năm23. Số bài báo công bố trong
giai đoạn 2010-2014 của Việt Nam xếp ở vị trí thứ 59 trên thế giới.
c) Huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội đạt kết quả quan trọng
Đã rà soát, bổ sung quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng với tầm nhìn
dài hạn. Đa dạng hóa phương thức và nguồn vốn đầu tư. Hệ thống kết cấu hạ
tầng được tập trung đầu tư xây dựng; nhiều công trình quan trọng, thiết yếu
được đưa vào sử dụng, tạo diện mạo mới cho đất nước và góp phần tích cực
phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập kinh tế quốc tế và bảo đảm quốc phòng,
an ninh.
Hạ tầng giao thông được quan tâm đầu tư cả đường bộ, đường sắt,
đường hàng không, đường thủy, bảo đảm tốt hơn sự kết nối trên phạm vi cả
nước và giao thương quốc tế. Bước đầu thiết lập mạng lưới đường bộ cao tốc
với các tuyến: Hà Nội - Lào Cai; Thành phố Hồ Chí Minh - Long Thành Dầu Giây; Bến Lức - Long Thành; Đà Nẵng - Quảng Ngãi; Hà Nội - Thái
Nguyên; Hà Nội - Hải Phòng; Cầu Giẽ - Ninh Bình. Hoàn thành các công
trình giao thông quan trọng: Nhà ga T2 Cảng hàng không quốc tế Nội Bài,
Giai đoạn 2006-2010, số lượng các văn bằng sáng chế và giải pháp hữu ích đăng ký quốc tế có chỉ định
Việt Nam là 1.927 (lần lượt là 1.183 và 744), trong đó số lượng văn bằng được cấp là 397; số liệu tương ứng
trong giai đoạn 2011-2014 là 4.404 (lần lượt là 2.796 và 1.608), trong đó số lượng văn bằng được cấp là 822.
Bốn năm 2011-2014 tăng gấp 2,2 lần so với giai đoạn 2006-2010, trong đó số lượng văn bằng được cấp tăng
gấp hơn 2 lần.
22 Tỷ lệ cán bộ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ (tính theo đầu người) trên dân số của năm 2013
là 12,5 người/1 vạn dân, đạt mục tiêu đề ra. Tính đến năm 2013 đã có khoảng 2.000 doanh nghiệp có đủ điều
kiện được công nhận doanh nghiệp khoa học công nghệ; mục tiêu đề ra đến năm 2015 sẽ có 3.000 doanh
nghiệp. Tính đến năm 2014, số cơ sở ươm được quy hoạch để tạo cơ sở CNC và doanh nghiệp công nghệ cao
trên cả nước là 30 cơ sở; mục tiêu đến năm 2015 là hình thành được 30 cơ sở.
23 Năm 2011 có 1.581 công bố khoa học, năm 2012 là 1.961, năm 2013 là 2.441, năm 2014 là 2.667.
21
14
cầu Nhật Tân, đường cao tốc cầu Nhật Tân - Nội Bài, cảng Cái Mép - Thị Vải,
cảng hàng không Phú Quốc mới, sân bay Thọ Xuân, cải tạo Cảng hàng không
quốc tế Đà Nẵng, Cảng hàng không quốc tế Vinh,... Hoàn thành các dự án cải
tạo mở rộng Quốc lộ 1, Đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên vượt tiến
độ dự kiến là 1 năm. Đang xây dựng các tuyến tàu điện ngầm, đường sắt trên
cao tại Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, cảng cửa ngõ quốc tế
Lạch Huyện, cầu Cao Lãnh, cầu Vàm Cống, đường bộ cao tốc Hà Nội - Lạng
Sơn, Trung Lương - Mỹ Thuận, Mỹ Thuận - Cần Thơ,... Theo đánh giá 2 năm
một lần của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), năm 2014, xếp hạng năng lực
và chất lượng hạ tầng giao thông Việt Nam đứng vị trí 74, tăng 16 bậc so với
năm 2012 và tăng 29 bậc so với năm 2010.
Hạ tầng đô thị được cải thiện, nhất là ở các thành phố lớn, tỷ lệ đô thị
hóa đạt 34,3%. Hạ tầng nông thôn được quan tâm đầu tư. Giao thông nông
thôn có bước phát triển vượt bậc, đặc biệt là tại các tỉnh nghèo. Hạ tầng các
khu công nghiệp, khu kinh tế có bước phát triển mạnh, tạo mặt bằng để thu
hút đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài.
Hạ tầng năng lượng cơ bản đáp ứng yêu cầu phát triển và bảo đảm an
ninh năng lượng quốc gia. Trong 5 năm 2011-2015, đã tăng thêm 18,1 nghìn
MW công suất nguồn; khoảng 7,6 nghìn km truyền tải 500 kV, 220 kV và
37,4 nghìn MVA công suất các trạm biến áp. Nhiều công trình lớn đã hoàn
thành và đang được xây dựng như: Thủy điện Sơn La, Lai Châu; Nhiệt điện
Duyên Hải, Vĩnh Tân; đưa điện lưới ra các đảo Phú Quốc, Lý Sơn, Cô Tô,
Vân Đồn,…
Hạ tầng thủy lợi được đầu tư, nâng cấp và khai thác hiệu quả hơn. Đến
năm 2015 đã bảo đảm tưới trực tiếp cho 3,5 triệu ha đất canh tác, tạo nguồn
tưới cho hơn 1 triệu ha, tiêu cho 1,7 triệu ha.
Hạ tầng thương mại với hệ thống siêu thị, chợ phát triển khá nhanh. Hạ
tầng thông tin và truyền thông phát triển mạnh 24, sử dụng công nghệ mới, tiên
tiến, phục vụ hiệu quả cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm
quốc phòng, an ninh. Hạ tầng giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, y
tế, văn hóa, thể thao, du lịch,… được quan tâm đầu tư và đã đạt được nhiều
kết quả, nhất là trong việc xây dựng cơ sở vật chất cho ngành giáo dục, đào
tạo, xây dựng bệnh viện các tuyến từ Trung ương đến địa phương, y tế cơ sở.
24
Đã phóng thành công và đưa vào sử dụng Vệ tinh Vinasat-2.
15
4. Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đạt
kết quả bước đầu
Đã triển khai thực hiện đề án tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế gắn với đổi
mới mô hình tăng trưởng theo hướng kết hợp giữa chiều rộng và chiều sâu,
chú trọng chiều sâu, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh. Cơ cấu kinh tế
chuyển dịch tích cực, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP tăng từ
79,9% năm 2011 lên 82,6% vào năm 2015; tỷ trọng nông nghiệp giảm từ
20,1% xuống còn 17,4%. Tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động
xã hội giảm, còn 44,3%. Tập trung thực hiện tái cơ cấu về đầu tư công, hệ
thống các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp nhà nước và tái cơ cấu ngành nông
nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới. Triển khai đề án tái cơ cấu ngành
công thương, xây dựng.
a) Tái cơ cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư công
Trong 5 năm qua, nhất là từ sau khi có Chỉ thị số 1792/CT-TTg ngày 15
tháng 10 năm 2011, nhiệm vụ tái cơ cấu đầu tư công được triển khai một cách
mạnh mẽ cả trong việc xây dựng thể chế và tăng cường quản lý ở tất cả các
khâu của đầu tư công.
Quốc hội ban hành Luật Đầu tư công, có hiệu lực thi hành từ ngày 01
tháng 01 năm 2015. Đây là văn bản pháp luật quan trọng chế định có hệ thống
toàn bộ quá trình đầu tư, từ khâu lập, thẩm định, phê duyệt chủ trương đầu tư,
quyết định đầu tư chương trình, dự án; quy định về kế hoạch đầu tư trung hạn,
khắc phục tình trạng cắt khúc đầu tư hằng năm hiện nay. Để triển khai thực
hiện Luật Đầu tư công, Chính phủ đã ban hành 05 Nghị định hướng dẫn thi
hành Luật Đầu tư công25. Ngoài ra, Quốc hội đã ban hành một số luật quan
trọng khác, góp phần tăng cường quản lý, nâng cao hiệu quả đầu tư từ nguồn
vốn nhà nước như: Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất
kinh doanh tại doanh nghiệp, Luật Đầu tư (sửa đổi), Luật Đấu thầu (sửa đổi),
Luật Xây dựng (sửa đổi),...
Với việc hoàn thiện thể chế và triển khai thực hiện các giải pháp tái cơ
cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư công đã đạt được nhiều kết quả tích cực:
- Vốn đầu tư công, nhất là đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước và trái
phiếu Chính phủ được bố trí tập trung và sử dụng có hiệu quả hơn. Vốn đầu
tư được bố trí tập trung, ưu tiên cho các dự án quan trọng quốc gia, các
(1) Nghị định về hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư công; (2) Nghị định về kế hoạch đầu tư
công trung hạn và hằng năm; (3) Nghị định về đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP); (4) Nghị định về
giám sát và đánh giá đầu tư; (5) Nghị định về dự án quan trọng quốc gia.
25
16
chương trình mục tiêu quốc gia, các mục tiêu xóa đói giảm nghèo; cho các
vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc, biên giới, hải đảo; hạn chế tối đa dự
án khởi công mới. Số dự án hoàn thành giai đoạn này tăng nhanh; số dự án
khởi công mới giảm mạnh so với giai đoạn trước. Mức vốn bố trí bình quân
cho 1 dự án trong kế hoạch hằng năm tăng lên.
- Tình trạng nợ đọng xây dựng cơ bản từng bước được khống chế, số
nợ đọng xây dựng cơ bản giảm so với giai đoạn trước. Việc ứng trước vốn kế
hoạch được quản lý chặt chẽ, chỉ ứng trước trong trường hợp thật sự cần thiết
và phải xác định được khả năng hoàn trả theo kế hoạch trung hạn và hằng
năm được duyệt.
- Tăng cường quản lý, chủ động rà soát, tập trung vốn đầu tư cho các
công trình, dự án quan trọng, cấp thiết và vốn đối ứng các dự án ODA, khắc
phục một bước tình trạng đầu tư dàn trải, lãng phí, kém hiệu quả.
- Hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý đầu tư, tăng cường quyền tự chủ,
chủ động đi đôi với việc nâng cao trách nhiệm của các cấp, các ngành, các địa
phương, chủ đầu tư trong việc phê duyệt dự án đầu tư, lựa chọn danh mục và
phân bổ vốn cho từng dự án cụ thể theo đúng các mục tiêu, định hướng phát
triển và các nguyên tắc phân bổ vốn.
- Việc phân bổ vốn đầu tư bảo đảm tính công khai, minh bạch đã góp
phần quan trọng vào việc khắc phục tình trạng nhũng nhiễu, tăng cường công
tác phòng, chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước.
- Việc khuyến khích đầu tư theo các hình thức đối tác công tư (PPP) đối
với những dự án lớn quan trọng có hiệu quả cao và tác động lan tỏa lớn đối
với phát triển kinh tế - xã hội trong vùng, liên vùng được coi là giải pháp quan
trọng để thu hút bổ sung thêm nguồn lực của khu vực doanh nghiệp đầu tư
cho kết cấu hạ tầng và dịch vụ công. Trong năm 2015 vừa qua, thực hiện Nghị
định số 15/2015/NĐ-CP với sự phân cấp triệt để trong thực hiện các dự án
PPP, nhiều đề xuất dự án của các Bộ, ngành và địa phương đã và đang được
tiến hành rà soát, sàng lọc để có thể lựa chọn được những dự án có tính khả
thi cao đưa vào thực hiện.
- Hiệu quả đầu tư có bước được cải thiện, chỉ số ICOR giai đoạn 20112015 đạt 6,91, giảm so với giai đoạn 2006-2010 là 6,96; tổng đầu tư toàn xã
hội so với GDP giảm mạnh (còn khoảng 32,6% GDP vào năm 2015) nhưng
vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng hợp lý.
17
- Hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút vốn đầu tư ngoài nhà nước. Tỷ
trọng đầu tư công giảm dần, đầu tư ngoài nhà nước tăng lên. Đầu tư trực tiếp
nước ngoài thực hiện đạt 60,5 tỷ USD, tăng khoảng 7%/năm. Giải ngân vốn
ODA và vay ưu đãi đạt 22,32 tỷ USD, đóng góp quan trọng vào phát triển kết
cấu hạ tầng. Đầu tư tư nhân trong nước tiếp tục tăng, chiếm khoảng 38,5%
tổng đầu tư toàn xã hội.
b) Cơ cấu lại hệ thống tài chính, ngân hàng trọng tâm là các tổ chức tín
dụng
Đã tích cực, chủ động cơ cấu lại các tổ chức tín dụng; giám sát chặt chẽ
và sắp xếp lại các ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém, có nguy cơ đổ vỡ
thông qua các giải pháp như tổ chức lại, sáp nhập, mua lại với giá 0 đồng,...;
tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra, bảo đảm an toàn hệ thống.
Các tổ chức tín dụng từng bước áp dụng chuẩn mực quản trị theo thông
lệ quốc tế, hiệu quả hoạt động được nâng lên, chất lượng tín dụng được cải
thiện; dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế giai đoạn 2011-2015 tăng
13,5%/năm, riêng năm 2015 tăng 18%. Triển khai thực hiện các giải pháp xử
lý nợ xấu; phát huy vai trò của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín
dụng (VAMC). Tỷ lệ nợ xấu giảm dần, đến cuối năm 2015 còn khoảng 2,55%.
Các công ty tài chính, chứng khoán, bảo hiểm từng bước được cơ cấu
lại; công tác kiểm tra, giám sát được tăng cường; thông tin ngày càng công
khai, minh bạch; hiệu quả hoạt động được cải thiện. Quy mô thị trường ngày
càng tăng, mức vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt khoảng 33% GDP, thị trường
trái phiếu đạt 23% GDP vào cuối năm 2015. Tổng doanh thu thị trường bảo
hiểm giai đoạn 2011-2015 tăng bình quân 17%/năm, tính đến cuối năm 2015
bằng khoảng 2% GDP.
c) Cơ cấu lại doanh nghiệp, trọng tâm là các tập đoàn kinh tế và tổng
công ty nhà nước
Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước đạt được những kết quả tích cực.
Doanh nghiệp nhà nước cơ bản thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao. Tập
trung hơn vào những tập đoàn kinh tế và tổng công ty lớn trong các lĩnh vực
sản xuất, phân phối, cung ứng hàng hóa và dịch vụ công. Công tác quản lý đối
với doanh nghiệp nhà nước được tăng cường. Hệ thống pháp luật về doanh
nghiệp nhà nước được hoàn thiện. Xác định rõ quyền, trách nhiệm của chủ sở
hữu nhà nước tại doanh nghiệp và công khai, minh bạch hoạt động của doanh
nghiệp nhà nước, cổ phần hóa và thoái vốn đầu tư ngoài ngành theo cơ chế thị
18
trường được đẩy mạnh. Năng lực quản trị, tiềm lực tài chính và hiệu quả sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước được nâng lên; vốn nhà nước
được bảo toàn và phát triển; giá trị tài sản tăng; tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu
trong giới hạn quy định. Các doanh nghiệp sau cổ phần hóa đều đạt hiệu quả
sản xuất kinh doanh tốt hơn.
Thực hiện chủ trương về tái cơ cấu doanh nghiệp, các cơ chế chính
sách về sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước trong giai đoạn 20112015 tiếp tục được hoàn thiện theo hướng nâng cao chất lượng cổ phần hóa,
ngăn chặn thất thoát vốn, tài sản nhà nước, qua đó tạo môi trường pháp lý đầy
đủ và thuận lợi để triển khai thực hiện. Giai đoạn 2011-2015, đã sắp xếp, cổ
phần hóa 558 doanh nghiệp nhà nước, trong đó, cổ phần hóa 478 doanh
nghiệp.
Việc sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước từng bước làm thay
đổi tư duy, phương thức quản lý, quản trị tại doanh nghiệp; nâng cao tính
công khai, minh bạch, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp; tăng
cường sự giám sát của nhà nước và xã hội đối với hoạt động của doanh
nghiệp, đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
d) Cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới
Cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới bước đầu đạt
kết quả tích cực. Tập trung tổ chức lại sản xuất, đa dạng hóa cây trồng, vật
nuôi theo nhu cầu thị trường và xây dựng các vùng sản xuất hàng hóa quy mô
lớn, liên kết sản xuất, chế biến, bảo quản, tiêu thụ sản phẩm gắn với bảo đảm
vệ sinh an toàn thực phẩm; nhân rộng mô hình sản xuất hiệu quả cao. Tăng
cường ứng dụng khoa học, công nghệ.
Sản lượng lương thực tăng ổn định, sản lượng lúa năm 2015 đạt 45,2
triệu tấn. Phát triển mạnh khai thác, nuôi trồng, chế biến thủy sản với chất
lượng và hiệu quả cao hơn. Công tác bảo vệ và phát triển rừng được chú
trọng. Xuất khẩu của khu vực nông nghiệp năm 2015 đạt 30,45 tỷ USD, tăng
56% so với năm 2010; một số mặt hàng nông sản xuất khẩu đạt thứ hạng cao
trên thế giới như gạo, cà phê, cao su, hồ tiêu, hạt điều, cá tra, tôm, sản phẩm
gỗ chế biến,...
Chương trình xây dựng nông thôn mới được cả nước đồng tình, ủng hộ.
Đã rà soát, điều chỉnh các chính sách, tiêu chí phù hợp hơn với đặc thù từng
vùng, thu hút được nhiều nguồn lực và sự tham gia đông đảo của người dân.
19
Đến hết năm 2015 có 1.526 xã đạt chuẩn nông thôn mới, chiếm 17,1% tổng
số xã và 15 huyện đạt chuẩn nông thôn mới.
đ) Cơ cấu lại công nghiệp, dịch vụ và điều chỉnh quy hoạch phát
triển vùng
Cơ cấu công nghiệp đã được chuyển dịch theo hướng tích cực; tỷ trọng
công nghiệp khai khoáng giảm. Tập trung cơ cấu lại ngành, lĩnh vực và sản
phẩm theo hướng nâng cao giá trị quốc gia, giá trị gia tăng, chất lượng và sức
cạnh tranh của sản phẩm. Tích cực mở rộng thị trường ở các nước, các khu
vực, không phụ thuộc quá lớn vào một thị trường. Từng bước tham gia vào
mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.
Đóng góp của ngành dịch vụ vào tăng trưởng ngày càng tăng; tỷ trọng
dịch vụ trong GDP tăng từ 42% năm 2011 lên 44,1% vào năm 2015. Đã tập
trung phát triển các ngành dịch vụ có tiềm năng, lợi thế, có hàm lượng khoa
học, công nghệ cao như công nghệ thông tin, truyền thông, logistics 26, hàng
không, tài chính, ngân hàng, du lịch, thương mại điện tử,... Mạng lưới thương
mại và dịch vụ phát triển mạnh trên phạm vi cả nước, đáp ứng tốt hơn yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội. Ngành du lịch tiếp tục được cơ cấu lại theo hướng
nâng cao chất lượng dịch vụ, tập trung đầu tư cơ sở vật chất và phát triển đa
dạng các sản phẩm, nhất là tại các vùng du lịch trọng điểm.
Các quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển ngành,
vùng, sản phẩm được rà soát, điều chỉnh phù hợp hơn với kinh tế thị trường.
Điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của 6 vùng lãnh thổ,
4 vùng kinh tế trọng điểm. Hỗ trợ phát triển vùng khó khăn, nhất là Tây Bắc,
Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và phía Tây các tỉnh miền Trung. Phát triển hạ tầng
và thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp, khu kinh tế ven biển, khu kinh tế
cửa khẩu.
Tập trung triển khai thực hiện Chiến lược Biển. Đầu tư phát triển các
ngành kinh tế biển, nhất là khai thác dầu khí, vận tải biển, cảng biển, đóng và
sửa chữa tàu biển, du lịch biển, nuôi trồng thủy sản; phát triển dịch vụ hậu cần
nghề cá và đẩy mạnh khai thác xa bờ. Gắn phát triển kinh tế biển với bảo vệ
chủ quyền biển, đảo.
Luật Thương mại năm 2005 (Điều 233) ghi: “Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương
nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ
tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc
các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù lao”.
26
20
- Xem thêm -