Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Islam giáo và ảnh hưởng của nó đến đời sống chính trị hiện đại ở một số nước đôn...

Tài liệu Islam giáo và ảnh hưởng của nó đến đời sống chính trị hiện đại ở một số nước đông nam á

.PDF
101
1604
121

Mô tả:

®¹i häc quèc gia hµ néi tr-êng ®¹i häc khoa häc x· héi vµ nh©n v¨n ---------------------- hoµng thÞ h-êng islam gi¸o vµ ¶nh h-ëng cña nã ®Õn ®êi sèng chÝnh trÞ hiÖn ®¹i ë mét sè n-í ®«ng nam ¸ LuËn v¨n Th¹c sÜ chuyªn ngµnh: Chñ nghÜa x· héi khoa häc M· sè: 60 22 85 Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: TS. Hoµng V¨n C¶nh Hµ Néi - 2011 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1 PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................................... 10 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ........................... 10 1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài ............................................ 10 1.1.1. Khái niệm “tôn giáo” .................................................................. 10 1.1.2. Khái niệm chính trị ..................................................................... 11 1.1.3. Mối quan hệ giữa tôn giáo và chính trị........................................ 13 1.1.4. Khái niệm “thể chế chính trị”...................................................... 16 1.2. Tổng quan về Islam giáo ................................................................. 20 1.2.1. Lịch sử Islam giáo đến đầu thế kỷ XX ........................................ 20 1.2.2. Islam giáo trong bối cảnh hiện nay ............................................. 23 1.2.3. Đặc trưng của Islam giáo ............................................................ 28 1.3. Islam giáo ở Đông Nam Á ............................................................... 31 1.3.1. Lược sử quá trình du nhập phát triển của Islam giáo ở Đông Nam Á .. 31 1.3.2. Đặc trưng của Islam giáo ở Đông Nam Á ................................... 38 CHƯƠNG 2. ẢNH HƯỞNG CỦA ISLAM GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG CHÍNH TRỊ HIỆN ĐẠI Ở MỘT SỐ NƯỚC ĐÔNG NAM Á ........................................................... 44 2.1. Khái quát đời sống chính trị của các nước Đông Nam Á .............. 44 2.2. Islam giáo trong đời sống chính trị hiện đại ở một số nước Đông Nam Á ..................................................................................................... 54 2.2.1. Indonesia .................................................................................... 55 2.2.2. Malaysia ..................................................................................... 61 2.2.3. Thái Lan ..................................................................................... 71 2.2.4. Philippin ..................................................................................... 73 CHƯƠNG 3. ISLAM GIÁO Ở VIỆT NAM ................................................................... 77 3.1. Quá trình du nhập và phát triển của Islam giáo (đạo Hồi) ở Việt Nam ... 77 3.2. Sự khác nhau giữa hai nhóm tín đồ Islam giáo ở Việt Nam .......... 79 3.3. Islam trong chính sách tôn giáo ở Việt Nam .................................. 85 PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................................................... 93 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................. 96 PHỤ LỤC 100 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Islam giáo là một tôn giáo độc thần phát triển thứ ba sau Thiên Chúa giáo và Do Thái giáo. Nó xuất hiện ở Trung Cận Đông và bắt nguồn từ chính mảnh đất, được nuôi dưỡng bằng chính những tư tưởng, căn cứ trên chính những truyền thống văn hoá như hai tôn giáo ra đời trước đó. Chính vì vậy, chúng ta có thể cảm nhận thấy những sự vay mượn ở đây cả về phương diện văn hoá chung lẫn về phương diện thuần tuý thần học, lễ nghi tôn giáo trên mỗi bước đi của Islam giáo. Chúng thể hiện ở biểu tượng niềm tin, ở các nguyên tắc thờ cúng, ở thần thoại, ở các điều răn đạo đức… như các tôn giáo đó. Tuy nhiên, chúng ta không thể phủ nhận tính độc đáo của Islam giáo với tư cách một tôn giáo thế giới. Khác với Thiên Chúa giáo và Do Thái giáo, lịch sử cho thấy Islam giáo đã hình thành trong điều kiện hợp nhất chính trị và tôn giáo. Bản thân các giáo chủ, giáo sĩ và những nhà tiên tri đồng thời cũng là các thủ lĩnh chính trị, quan lại của bộ máy chính quyền, hoặc ảnh hưởng, chi phối đến quyền hành pháp của bộ máy hành chính theo các cấp độ và cách thức khác nhau. Điều này làm cho Islam giáo không chỉ thể hiện được tính chất rất đặc thù của mình mà còn tác động to lớn đến cuộc sống của con người, ảnh hưởng to lớn đến văn hoá và nếp sống, đời sống chính trị của nhiều quốc gia trên thế giới mà nó hiện diện, trong đó có một số nước Đông Nam Á. Sự đặc thù này lớn và dễ cảm nhận thấy tới mức không phải ngẫu nhiên mà nhiều chuyên gia lại nói tới “thế giới Islam giáo” hay “nền văn minh Islam giáo”. Islam giáo đã đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử, văn hoá, xã hội không chỉ của người Ảrập mà còn của mọi dân tộc trong khu vực Trung Cận Đông, Iran, Ấn Độ, nhiều dân tộc Trung Á… Do sự xâm chiếm của người Ảrập và do ảnh hưởng trực tiếp của Islam giáo đã hình thành nên số phận của các dân tộc trong thế giới Islam giáo và các truyền thống văn hoá, các đảng phái chính trị, các chuẩn tắc sinh hoạt và đạo đức, các hình tượng 1 thần thoại - thi ca… mà hiện nay trực tiếp hay gián tiếp, với các mức độ khác nhau vẫn quy định đáng kể đời sống của họ. Tuy nhiên, trong suốt hàng thế kỷ thống trị tuyệt đối của Islam giáo, các truyền thống tiền Islam giáo hoặc là đi vào quá khứ không để lại dấu vết gì hoặc là bị cải biến và chỉ còn quy thành sự đặc thù của văn hoá dân tộc. Dĩ nhiên sự đặc thù này là rất quý giá đối với mỗi dân tộc của thế giới Islam giáo. Hiện nay, quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ trên tất cả mọi phương diện của cuộc sống loài người hiện đại, trong đó phải kể đến quá trình tiếp biến văn hoá với vô số mâu thuẫn và những vấn đề nảy sinh. Islam giáo, văn hoá Islam giáo và các dân tộc Islam giáo có một vị trí quan trọng trong thế giới hiện đại. Quá trình xác lập một trật tự thế giới mới cho thấy, Islam giáo không những làm phong phú các nền văn hoá mà còn nảy sinh những mâu thuẫn giữa các dân tộc có tôn giáo, văn hoá khác nhau. Chúng ta đang sống trong thời đại văn hoá hoà bình, vì vậy để xác lập được một nền hoà bình vững chắc thì sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, giữa các tôn giáo, giữa các nền văn hoá khác nhau là điều kiện rất cần thiết. Chính sự hiểu biết lẫn nhau này đòi hỏi chúng ta phải có tinh thần khoan dung, phải tìm hiểu văn hoá sinh tồn của nhau, trong đó tôn giáo đóng một vai trò rất quan trọng. Tiếc thay, do những nguyên nhân nhất định mà Islam giáo chưa được tìm hiểu nhiều ở nước ta. Vì vậy, việc làm quen với Islam giáo - một trong những tôn giáo thế giới, một tôn giáo chi phối cuộc sống của hơn 1 tỷ tín đồ và đang có những tác động mạnh mẽ đến thế giới hiện đại, là một việc làm rất cần thiết và có ý nghĩa. Mặt khác, cùng quá trình hội nhập kinh tế ngày càng sâu, rộng thì tất yếu kéo theo sự hội nhập của các yếu tố khác trong đời sống xã hội. Do vậy, đòi hỏi chúng ta phải am hiểu rõ văn hóa các nước trong khu vực, trong đó tôn giáo mà cụ thể là Islam giáo đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần. Và việc tìm hiểu Islam giáo ở Đông Nam Á, đặc biệt 2 là ảnh hưởng của nó đối với đời sống chính trị trong giai đoạn hiện nay có một ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất quan trọng. Bởi Đông Nam Á là một trung tâm Islam lớn trên thế giới với trên 200 triệu tín đồ, chiếm 1/6 tổng số tín đồ trên toàn cầu. Mặt khác, cộng đồng Islam giáo ở Đông Nam Á có những khác biệt do những điều kiện chủ quan và khách quan tạo ra. Đó có thể là do mức độ Islam hoá ở các cộng đồng dân cư và dẫn đến vị thế của các cộng đồng Islam ở mỗi nước là khác nhau. Ở Malaysia và Brunei, Islam giáo là quốc giáo, song ở Indonesia là một cộng đồng tôn giáo lớn nhất thế giới, với hơn 90% dân số là tín đồ Islam thì lại là một nước thế tục. Hiến pháp Indonesia không dành cho Islam một vị trí đặc biệt như ở Malaysia. Các cộng đồng Islam ở các nước Đông Nam Á khác như cộng đồng người Moro ở miền Nam Philippin, cộng đồng những tín đồ ở miền Nam Thái Lan, Campuchia, Lào, Việt Nam, Myanmar đều là những cộng đồng thiểu số cả về số lượng tín đồ lẫn sắc tộc. Tuy nhiên, nhìn tổng thể, các cộng đồng Islam ở Đông Nam Á hợp thành một cộng đồng tôn giáo thống nhất. Cũng như nhiều nước Đông Nam Á, Islam giáo du nhập vào Việt Nam khá sớm so với Kito giáo và một số tôn giáo khác. Islam giáo du nhập vào khoảng thế kỷ XIV - XV, tập trung chủ yếu ở cộng đồng người Chăm - một trong những cộng đồng người Việt có nền văn hoá đặc sắc lâu đời. Trong quá trình tồn tại và phát triển, tuy số lượng tín đồ không nhiều nhưng cộng đồng Islam giáo đã để lại dấu ấn đậm nét, góp phần làm nên bản sắc văn hoá đa dạng, phong phú của dân tộc Việt Nam. Trong quá khứ Islam giáo và chính trị ở Việt Nam chưa phải là tâm điểm chú ý. Hiện nay ở Việt Nam, cùng với xu thế hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, thì việc giao lưu văn hoá diễn ra với mức độ và quy mô được đẩy nhanh, mạnh mẽ hơn bao giờ hết, trong đó có sinh hoạt tôn giáo. Bên cạnh những mặt tích cực, không thể không có những tác động tiêu cực, nhất là trên bình diện sinh hoạt tôn giáo. Trong đó có việc lợi dụng sinh hoạt của một số tôn giáo cho những mục đích chống phá nhà 3 nước ta đã và đang có nhiều diễn biến phức tạp. Mặt khác, vấn đề Islam giáo và chính trị ở các nước Đông Nam Á láng giềng đang có những quan ngại không chỉ với nội bộ Đông Nam Á mà còn thu hút sự chú ý của cả cộng đồng quốc tế. Vì vậy, để thực hiện có hiệu quả chính sách tôn giáo, đoàn kết dân tộc, góp phần bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh thì vấn đề quan hệ giữa tôn giáo, trong đó có Islam giáo với đời sống chính trị ở nước ta hiện nay cần được quan tâm. Do đó, việc nghiên cứu đề tài “Islam giáo và ảnh hưởng của nó đến đời sống chính trị hiện đại ở một số nước Đông Nam Á” là việc làm cần thiết, rất có ý nghĩa không chỉ đối với việc góp phần làm sáng tỏ những vấn đề của Islam giáo trong quá trình hội nhập và phát triển của cộng đồng các quốc gia Đông Nam Á, mà còn đóng góp vào việc tìm hiểu đời sống tinh thần và những vấn đề thực tiễn của đất nước và con người Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu Islam giáo là một trong những tôn giáo lớn của thế giới đã và đang thu hút sự quan tâm chú ý của nhiều nhà nghiên cứu, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như: triết học, sử học, tôn giáo học,… Dưới nhiều góc độ tiếp cần khác nhau, các nhà nghiên cứu đã cho chúng ta thấy được một bức tranh toàn cảnh về sự phát triển của Islam giáo cũng như những nét đặc thù của Islam giáo so với các tôn giáo khác. Trên thế giới đã có rất nhiều học giả nghiên cứu về Islam giáo - một tôn giáo độc thần như: Islam giáo của tác giả Dominique Sourdel đã khái quát được quá trình hình thành và phát triển của Islam giáo với những giới luật, giáo lý rất chặt chẽ, các phong trào giáo phái. Đặc biệt, tác giả đã phân tích được khá rõ Islam giáo hiện đại và vị thế của nó trong xã hội hiện nay. Các phong trào và giáo phái vẫn đang hoạt động mạnh nhằm tái Islam giáo hoá về mặt pháp chế, giảng dạy và hiến pháp. 4 Lịch sử Đông Nam Á của Clive J. Christie - chuyên gia nghiên cứu về Đông Nam Á đã trình bày khái quát tình hình các nước trong khu vực sau khi lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc, trong đó, tập trung vào các khía cạnh dân tộc, tộc người và tôn giáo. Đây là những vấn đề hết sức phức tạp và rất nhạy cảm đang có nhiều ý kiến rất khác nhau. Tác giả tập trung làm rõ bản sắc dân tộc trong phong trào phi thực dân hoá và chủ nghĩa ly khai trong các nước Đông Nam Á, đặc biệt là vấn đề sắc tộc, đạo Islam và chủ nghĩa phục hồi lãnh thổ của người Mã Lai. L’Islam devant le monde moderne của tác giả Alphonse Gouily là cuốn sách chuyên khảo về đạo Islam trong nền chính trị thế giới hiện đại. Tác giả tập trung làm rõ khái niệm đạo Islam, sau đó chỉ ra vai trò chính trị của đạo Islam ở một số quốc gia trên thế giới. Bên cạnh đó, cũng nhấn mạnh những cố gắng để thống nhất về chính trị của các nhà nước Islam giáo; các phong trào chính trị trong các nhà nước Islam giáo tự trị; chính sách đối với Islam giáo của một số nước lớn không theo đạo Islam như: Anh, Pháp, Hà Lan, Italia, Tây ban Nha, Đức, Nhật, Mỹ, Liên Xô; Hồi giáo và các giáo đoàn Cơ đốc v.v… Ở Việt Nam, những năm gần đây bắt đầu có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết về vấn đề này như: Viện nghiên cứu Đông Nam Á đã hoàn thành đề tài cấp bộ “Vai trò của Islam giáo trong đời sống chính trị hiện đại ở các nước Đông Nam Á” (2008) do TS. Ngô Văn Doanh làm chủ nhiệm đề tài. Đây là một trong những công trình mới và có quy mô về nền chính trị Islam giáo trong toàn khu vực trên phương diện lịch sử là chủ yếu. Công trình khoa học này đã nêu rõ được cội nguồn hay đặc tính chính trị của Islam giáo cũng như vai trò của Islam giáo đói với lịch sử chính trị nói chung và đời sống chính trị hiện nay ở Đông Nam Á nói riêng. Bên cạnh đó, công trình cũng làm rõ được những ảnh hưởng tích cực và những biểu hiện, hoạt động đối lập, thậm chí ly khai với các xu hướng chính trị, chính sách của chính quyền. 5 “Mối quan hệ giữa chính trị với tôn giáo - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Ngô Hữu Thảo và “Mối quan hệ tôn giáo và chính trị - Những vấn đề lý luận và mô thức” (Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo) của Nguyễn Hồng Dương đã cơ bản làm rõ được mối quan hệ giữa tôn giáo và chính trị. Biểu hiện của mối quan hệ biện chứng giữa chính trị và tôn giáo là sự phản ánh khách quan về thực trạng và bản chất quyền lực của mỗi hiện tượng. Cả tôn giáo và chính trị, xét từ góc độ quyền lực, cả hai đều có tham vọng thâu tóm nhau, nhưng thực tế nhiều khi chúng buộc phải chia xẻ cho nhau. Xét về góc độ lịch sử, có thể xuất hiện tình trạng “thuần túy tôn giáo”, nhưng về lôgic thì không thể. Và trong quan hệ giữa nhà nước với tôn giáo, khi vị trí của nhà nước cao hơn giáo hội tôn giáo, thì “tôn giáo phải ủng hộ chính quyền thế tục, nhưng là để cho chính quyền thế tục không ngừng phục tùng tôn giáo”. “Tôn giáo và lịch sử văn minh nhân loại: Islam giáo” của tác giả Nguyễn Đức; “Bước đầu tìm hiểu sự hình thành và truyền bá của Islam giáo” của tác giả Nguyễn Đình Lê (Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo)… Trong các công trình này, các tác giả đã trình bày khá rõ nét về sự hình thành của Islam giáo trên bán đảo Ảrập, sự truyền bá của nó trên thế giới nói chung và đặc biệt là ở khu vực Đông Nam Á nói riêng. Các tác giả tập trung khai thác các yếu tố về văn hóa trong Islam giáo, tuy vậy, ảnh hưởng của Islam giáo đến đời sống chính trị ở các quốc gia Đông Nam Á vẫn cần được làm sáng tỏ. “Một số vấn đề của Islam giáo trong đời sống hiện đại” của tác giả Nguyễn Văn Dũng (Tạp chí nghiên cứu Tôn giáo, số 3/2005); “Đôi nét về bức tranh tôn giáo khu vực Đông Nam Á” (tạp chí nghiên cứu Tôn giáo, số 2/1999),… các tác giả đã vạch ra một số nét sơ lược về tín đồ Islam giáo, cung cấp số liệu về sự phát triển của Islam giáo trong thế kỷ XXI và một số các tổ chức chính trị - tôn giáo trên thế giới nói chung và ở khu vực Đông Nam Á nói riêng. Các công trình: “Bối cảnh ra đời và xu hướng phát triển của các đảng chính trị Islam giáo ở Đông Nam Á” của tác giả Nguyễn Thanh Hải (Tạp chí 6 nghiên cứu Đông Nam Á, số 6/2006); “Về những yêu tố văn hóa bản địa trong Islam giáo ở Đông Nam Á hải đảo” của tác giả Hồ Thị Thanh Nga (Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 1/2008);… các tác giả tập trung nghiên cứu về Islam giáo tại khu vực Đông Nam Á trong những thập kỷ gần đây. Bài viết của tác giả Nguyễn Thanh Hải đã phân tích khía cạnh chính trị trong các đảng phái chính trị Islam giáo ở bối cảnh cụ thể của từng nước, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay. Còn bài viết của tác giả Hồ Thị Thanh Nga lại tập trung khai thác yếu tố văn hóa bản địa trong Islam giáo. Tác giả khẳng định, khi xâm nhập vào đời sống văn hóa của người Melayu, Islam giáo đã không loại bỏ văn hóa Ấn Độ ma ngược lại đã để cho những dấu ấn văn hóa bản địa in đậm và song song tồn tại hoặc đan xen vào các yếu tố văn hóa lễ nghi của mình. Tiếp đó là các công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của Islam giáo trong đời sống chính trị ở một số quốc gia như: “Về cộng đồng Islam giáo ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Lê Nhẩm (Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo số 6/2003); “Islam giáo trong đời sống chính trị, văn hóa - xã hội của Malaysia”; “Islam giáo trong chính sách đối ngoại của Malaysia” của tác giả Phạm Thị vinh; “So sánh vai trò của Islam giáo trong lịch sử chính trị Inđônêsia và Malaysia” của tác giả Đặng Thị Thu Hương (Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 5/2006); “Bối cảnh ra đời và xu hướng phát triển của các đảng chính trị Islam giáo ở Đông Nam Á, trường hợp Inđônêsia và Malaysia” của tác giả Nguyễn Thanh Hải; “Toàn cảnh chính trị Đông Nam Á năm 2007” của tác giả Trần Khánh; “Về phong trào ly khai ở miền Nam Thái Lan những năm gần đây” của Nguyễn Hữu Nghị;… Các tác giả đã phân tích ảnh hưởng của Islam giáo đối với đời sống chính trị của một số nước trong khu vực Đông Nam Á như Thái Lan, Inđônêsia, Malaysia, Việt Nam. Từ đó đi đến khẳng định Islam giáo ở các nước Đông Nam Á phát triển một cách độc lập với Islam giáo tại Trung Đông và nhin chung là ôn hòa và khoan dung hơn. Trên tạp chí nghiên cứu Tôn giáo số 5/2010 có bài viết “Một vài suy nghĩ về tác động của toàn cầu hóa đối với Islam giáo” của tác giả Lương Thị Thu 7 Hường đã phân tích rất cụ thể những tác động tích cực và tiêu cực của toàn cầu hóa đối với Islam giáo. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, Islam giáo có thể trở thành một động lực mạnh mẽ giúp duy trì sự đoàn kết giữa các sắc tộc tại Trung Đông, tạo nên một thứ sức mạnh chính trị mà những cộng đồng văn hóa khác trên thế giới không thể không tính đến. Tuy nhiên, đứng ở phương diện khác, toàn cầu hóa không chỉ đem lại cho Islam giáo những cơ hội mà cả những thách thức, những trở ngại đối với lý tưởng ngôi nhà chung Islam giáo và có thể tạo nên những kích động “thánh chiến” bạo lực từ phía những kẻ cực đoan. Xét về tổng quan, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về Islam giáo dưới các góc độ khác nhau, nhưng việc nghiên cứu có hệ thống về Islam giáo ở Đông Nam Á nói chung và ảnh hưởng của nó đến đời sống chính trị ở một số nước trong khu vực từ góc độ chính trị - xã hội trên lập trường Mácxít vẫn đặt ra nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu và làm sáng tỏ thêm. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích: Trên cơ sở phân tích quá trình du nhập, phát triển và một số đặc trưng của Islam giáo ở Đông Nam Á, luận văn làm sáng tỏ ảnh hưởng của Islam giáo trong đời sống chính trị ở một số nước Đông Nam Á hiện đại. - Nhiệm vụ + Khái quát quá trình du nhập, phát triển và những đặc trưng cơ bản của Islam giáo ở Đông Nam Á + Phân tích ảnh hưởng của Islam giáo đến đời sống chính trị ở một số nước trong khu vực Đông Nam Á. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng: đạo Islam (Islam giáo) và đời sống chính trị ở một số nước Đông Nam Á. - Phạm vi nghiên cứu: sự ảnh hưởng của Islam giáo đến đời sống chính trị hiện đại ở một số nước Đông Nam Á. 8 - Phạm vi không gian: giới hạn trong việc tìm hiểu Islam giáo ở một số nước trong khu vực Đông Nam Á có số lượng tín đồ đông đảo, nơi Islam giáo có những ảnh hưởng to lớn đối với đời sống chính trị như Malaysia, Inđônêsia, Thái Lan, Philippin và hướng nghiên cứu mở rộng là ở Việt Nam. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp luận Để giải quyết nhiệm vụ của luận văn, chúng tôi dựa ttrên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là chủ nghĩa duy vật lịch sử và phương pháp duy vật biện chứng. Chúng tôi sử dụng một số phương pháp cụ thể như: phương pháp logic lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, khảo cứu văn bản, một số công trình, bài viết có liên quan… 6. Đóng góp của luận văn Từ việc phân tích ảnh hưởng của Islam giáo trong nền chính trị ở một số nước trong khu vực Đông Nam Á, luận văn đã tìm hiểu một cách tương đối có hệ thống về ảnh hưởng của Islam giáo đến đời sống chính trị hiện đại một số nước Đông Nam Á. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập các vấn đề có liên quan đến sự ảnh hưởng của Islam giáo trong đời sống chính trị khu vực Đông Nam Á, cũng như cho những ai muốn tìm hiểu về Islam giáo. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương và 8 tiết. - Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài - Chương 2: Ảnh hưởng của Islam giáo đến đời sống chính trị hiện đại ở một số nước Đông Nam Á - Chương 3: Islam giáo ở Việt Nam 9 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài 1.1.1. Khái niệm “tôn giáo” Thuật ngữ “tôn giáo” vốn không thuần Việt, được du nhập từ nước ngoài vào từ cuối thế kỷ XIX. “Tôn giáo” (bắt nguồn từ thuật ngữ “religion” (Tiếng Anh) và“religion” lại xuất phát từ thuật ngữ “legere” (Tiếng Latinh) có nghĩa là thu lượm thêm sức mạnh siêu nhiên. Thuật ngữ này vốn có nguồn gốc từ phương Tây và bản thân nó cũng có một quá trình biến đổi nội dung và khi khái niệm này trở thành phổ quát trên toàn thế giới thì lại vấp phải những khái niệm truyền thống không tương ứng của những cư dân thuộc các nền văn minh khác, vì vậy trên thực tế đã xuất hiện rất nhiều quan niệm, định nghĩa khác nhau về tôn giáo của nhiều dân tộc và nhiều tác giả trên thế giới. Các nhà thần học thì cho rằng “Tôn giáo là mối liên hệ giữa thần thánh và con người”. Hoặc một khái niệm mang dấu hiệu đặc trưng của tôn giáo: “Tôn giáo là niềm tin vào cái siêu nhiên”. Tuy nhiên, một số nhà tâm lý học lại cho rằng “Tôn giáo là sự sáng tạo của mỗi cá nhân trong nỗi cô đơn của mình, tôn giáo là sự cô đơn, nếu anh chưa từng cô đơn thì anh chưa bao giờ có tôn giáo”. Hobbes1 lại cho rằng tôn giáo không là gì khác như một thứ “chính trị thần linh” do các nhà tư tưởng kiêm chính khách “ma mãnh” sáng lập ra với dụng ý mê hoặc, ru ngủ công chúng; và sau khi thành lập, các nhà tư tưởng bằng những thủ đoạn nghề nghiệp đã nhanh chóng biến tôn giáo thành một phương tiện hay thủ đoạn chính trị phù hợp với mục đích của họ. Thomas Hobbes (05/04/1588-04/12/1679) là một nhà triết học người Anh nổi tiếng với các tác phẩm về triết học chính trị. Cuốn sách Leviathan viết năm 1651 của ông đã thiết lập nền tàng cho nền triết học chính trị phương Tây theo quan điểm lý thuyết về khế ước xã hội. Hobbes là người ủng hộ chính thể chuyên chế nhưng ông cũng phát triển các nguyên tắc cơ bản của tư tưởng tự do châu Âu: quyền được bầu cử của các cá nhân; quyền bình đẳng tự nhiên của tất cả mọi người; tính nhân tạo của địa vị chính trị (điều dẫn đến sự khác nhau sau này giữa xã hội và nhà nước); quan điểm tất cả quyền lực chính trị hợp pháp phải mang tính "đại diện" và dựa trên sự đồng thuận của nhân dân; và sự diễn giải luật khá phóng thoáng cho phép mọi người được làm bất kỳ điều gì mà pháp luật không cấm 1 10 Khái niệm mang khía cạnh bản chất xã hội của tôn giáo của C.Mác: “Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, nó là tinh thần của trật tự không có tinh thần”. (27; tr. 14) Khái niệm mang khía cạnh nguồn gốc của tôn giáo của Ph.Ăngghen: “Tôn giáo là sự phản ánh hoang đường vào trong đầu óc con người những lực lượng bên ngoài, cái mà thống trị họ trong đời sống hàng ngày …” (28; tr. 437) Như vậy, tôn giáo là niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên, vô hình, mang tính thiêng liêng, được chấp nhận một cách trực giác và tác động qua lại một cách hư ảo, nhằm lý giải những vấn đề trên trần thế cũng như ở thế giới bên kia. Niềm tin đó được biểu hiện rất đa dạng, tuỳ thuộc vào những thời kỳ lịch sử, hoàn cảnh địa lý - văn hóa khác nhau, phụ thuộc vào nội dung từng tôn giáo, được vận hành bằng những nghi lễ, những hành vi tôn giáo khác nhau của từng cộng đồng xã hội tôn giáo khác nhau. Nhìn đại thể, quan điểm của chủ nghĩa Mác về tôn giáo vẫn được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng. Tôn giáo là hình thái ý thức xã hội phản ánh một cách hư ảo những lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của con người vào đầu óc của nó. Đó là sự phản ánh thế giới vật chất và ý thức của con người một cách đặc biệt, đó là sản phẩm của lịch sử, một hiện tượng thuộc thượng tầng kiến trúc. Tôn giáo là một hình thái ý thức tư tưởng, đồng thời là một thực tại xã hội. Và trong phạm vi của luận văn, chúng tôi sẽ khai thác khái niệm tôn giáo ở khía cạnh thần học với những tín lý, tín điều về vũ trụ quan và nhân sinh quan. 1.1.2. Khái niệm chính trị Chính trị, theo ngữ học gồm 2 chữ: chính và trị. Chính có nghĩa là ngay thẳng. Trị là cai trị. Chính trị là cai trị một cách ngay thẳng. Nhưng chính, ngay thẳng ở đây theo nghĩa bóng còn có nghĩa là cái gì đạo đức, tốt đẹp, nhân đạo, liên quan đến Chân, Thiện, Mỹ. Chân là sự thật, lòng yêu sự thật, tính tôn trọng sự thật. Thiện là tốt, là lòng thương người, giúp đỡ người, là lương tâm, lương tri. Mỹ là cái đẹp, cái được con người từ xưa tới nay kính trọng. 11 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi Vì vậy, nguyên nghĩa ban đầu chính trị có nghĩa là cách cai trị với mục đích là trọng sự thật, thực hiện điều thiện và quảng bá điều mỹ, nói một cách khác đi là làm sao để đời sống của người bị trị mỗi ngày một tốt đẹp hơn, về vật chất cũng như tinh thần. Về vật chất thì người dân tối thiểu khi đói có cơm ăn, khi rét có áo mặc, khi bệnh có thuốc uống; về tinh thần, thì những giá trị tinh thần mỗi ngày một được nâng cao, những quyền căn bản của con người được tôn trọng, để đời sống con người mỗi ngày một có văn hóa, văn minh. Ở phương Tây, chữ chính trị (Politique) được định nghĩa là một khoa học hay một nghệ thuật trị quốc hoặc một thái độ, một quyết định đúng đắn nhất. Cũng như nhà triết học Proudhon định nghĩa chính trị là khoa học của tự do, có nghĩa là nghệ thuật cai trị dân dân chủ nhất, coi trọng tự do của người dân nhất. Theo từ điển Từ điển Bách khoa Toàn thư Việt Nam thì chính trị là toàn bộ những hoạt động có liên quan đến các mối quan hệ giữa các giai cấp, giữa các dân tộc, các tầng lớp xã hội, mà cốt lõi của nó là vấn đề giành chính quyền, duy trì và sử dụng quyền lực nhà nước, sự tham gia vào công việc của nhà nước, sự xác định hình thức tổ chức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà nước. Bất kì vấn đề chính trị nào cũng đều có liên quan đến quyền lợi của các giai cấp và nhà nước. Chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng, bao gồm hệ tư tưởng chính trị, nhà nước, các đảng phái xuất hiện khi xã hội phân chia thành các giai cấp dựa trên cơ sở hạ tầng kinh tế. Chính trị "là sự biểu hiện tập trung nhất của kinh tế" (Lênin), đồng thời chính trị có vị trí độc lập và có tác dụng to lớn đối với kinh tế. Việc hình thành một quan điểm chính trị đúng về lĩnh vực kinh tế là điều kiện để giải quyết có hiệu quả những nhiệm vụ kinh tế. "Không có một lập trường chính trị đúng thì một giai cấp nhất định nào đó, không thể giữ vững được sự thống trị của mình, và do đó, cũng không thể hoàn thành được nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực sản xuất" (Lênin). Chính trị còn là sự biểu hiện tập trung của nền văn minh, của hoạt động sáng tạo, của sự giải phóng. Trong điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội, nói tới chính trị thì trước hết là bảo đảm vai trò lãnh đạo của đảng 12 cộng sản, hiệu lực quản lí của nhà nước, quyền làm chủ của nhân dân lao động trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.. (54) Như vậy, đời sống chính trị trong luận văn được quan niệm là tình trạng, những hoạt động diễn ra trong xã hội mà trước hết trên lĩnh vực chính trị không tách rời các lĩnh vực khác như kinh tế, văn hoá... Trong các nước Đông Nam Á hiện đại, đời sống chính trị rất đa dạng. Làm nên sự đa dạng đó là truyền thống văn hoá, sinh hoạt tôn giáo, hoạt động kinh tế và đặc biệt không thể không đề cập đến sự khác biệt, đa dạng về thể chế chính trị. 1.1.3. Mối quan hệ giữa tôn giáo và chính trị Tôn giáo và chính trị đều thuộc về kiến trúc thượng tầng của nhà nước. Giữa chúng có mối quan hệ với nhau. Tuỳ vào thời kỳ lịch sử, tuỳ vào thể chế nhà nước mà mối quan hệ giữa chúng có sự khác nhau. “Nhà nước, xã hội sản sinh ra tôn giáo. Mỗi tôn giáo đều gắn với thể chế nhà nước, phản ánh hình mẫu nhà nước”; “Ảnh hưởng qua lại giữa học thuyết chính trị - tư tưởng của nhà nước với thần học tôn giáo được thể hiện qua thể chế nhà nước” (16; tr.7) Biểu hiện của mối quan hệ biện chứng giữa chính trị và tôn giáo là sự phản ánh khách quan về thực trạng và bản chất quyền lực của mỗi hiện tượng. Trên thế giới và ở Việt Nam, từ lịch sử đến đương đại, mối quan hệ giữa tôn giáo với chính trị luôn được các lực lượng chính trị quan tâm, nhất là lực lượng cầm quyền. Ở Việt Nam hiện nay, việc nhận thức về mối quan hệ giữa chính trị với tôn giáo được đặt ra nhằm hoàn thiện chính sách, pháp luật đối với tôn giáo, tạo tiền đề cho sự phát triển bền vững xã hội. Từ phương diện lý luận, các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, mối quan hệ giữa tôn giáo và chính trị là mối quan hệ của hai hiện tượng thuộc về thượng tầng kiến trúc, được quy định trước hết và căn bản là do cơ sở hạ tầng, sau nữa là do quy luật riêng của mỗi hiện tượng. Mặt khác, từ khi chính trị hình thành cho đến nay, đã trở thành một nguồn gốc xã hội trực tiếp của tôn giáo. 13 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi Mối quan hệ giữa chính trị và tôn giáo vừa thể hiện sự tương đồng, hữu cơ, lại vừa có sự đối lập, có khi quyết liệt, điều đó tùy thuộc đáng kể vào tính chất chính trị và vị thế của mỗi giai cấp đối với tôn giáo. Khi nhà nước sử dụng tôn giáo thì tôn giáo phải được nhào nặn lại cho phù hợp với mục đích của nhà nước và bản thân tôn giáo muốn tồn tại được phải phát triển theo sự phát triển của nhà nước. Ngược lại, khi tôn giáo trở thành quốc giáo thì chính trị sẽ trở thành một bộ phận của thần học và không thể ngang bằng với thần học được. Và trong mối quan hệ này, thường có tình trạng giai cấp thống trị phản động sử dụng tôn giáo như là phương tiện để cai trị và xâm lược. Ở thời kỳ cổ đại, mối quan hệ giữa tôn giáo và chính trị trên thế giới phản ánh về quá trình chuyển xã hội loài người từ thời kỳ cộng sản nguyên thủy sang thời kỳ có chế độ tư hữu, có giai cấp và có nhà nước. Thời kỳ này, hầu hết các tôn giáo đã ra đời và thể hiện như là sự phản kháng của các giai cấp, đẳng cấp bị áp bức nên các tôn giáo thời kỳ đó bị giai cấp thống trị coi là tà đạo. Nhưng sang đến thời kỳ phong kiến thì tôn giáo lại có một vai trò đặc biệt to lớn trong lĩnh vực chính trị, nó là chỗ dựa của chế độ chính trị, khẳng định chế độ sở hữu phong kiến. Tôn giáo đã lấn lướt, chi phối chính trị nên tự nó đã đánh mất nhiều giá trị. Song ở Phương Đông thời kỳ này nhìn chung chính trị có tính độc lập tương đối, không bị tôn giáo thao túng, hơn thế chính trị còn dựa vào tôn giáo để kéo dài sự trường tồn, củng cố sức mạnh chính trị cầm quyền. Thời kỳ của chủ nghĩa tư bản, địa vị tuyệt đối của quyền lực chính trị được khẳng định trước quyền lực của giáo hội. Ngay từ ban đầu xã hội tư sản đã có yêu cầu tách nhà nước ra khỏi giáo hội, xây dựng thể chế pháp lý phi tôn giáo, không để giáo hội can thiệp hoặc thực hiện bất kỳ chức năng nào của nhà nước. Tuy nhiên, nhà nước tư sản vẫn thừa nhận và đảm bảo vai trò của giáo hội, xem quan hệ của công dân với tôn giáo là công việc riêng của họ. Ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, chủ trương tự do tín ngưỡng và hướng tới việc xóa bỏ dần quan hệ chi phối của tôn giáo đối với chính trị. 14 Trong đó quy định, nhà nước không nên làm các công việc của tôn giáo và tôn giáo không nên gắn với chính trị. Tóm lại, chúng ta có thể nhìn nhận và phân tách một cách cụ thể những biểu hiện của mối quan hệ tôn giáo và chính trị, cụ thể có ba loại biểu hiện: Chính giáo hợp nhất có hai đặc trưng cơ bản đó là thần học tôn giáo là chuẩn tắc tối cao của hình thái ý thức nhà nước, kẻ thống trị bị thần thánh hóa trở thành hóa thân hoặc đại diện của thần thánh; nhân viên chức sắc tôn giáo trực tiếp tham gia quản lý hoặc khống chế bộ máy nhà nước. Chính giáo phân ly ngược lại với chính giáo hợp nhất, ở đó giáo hội tách khỏi nhà nước và hoạt động thuần túy tôn giáo không can thiệp vào hoạt động của nhà nước. Đồng thời, nhà nước quản lý giáo hội bằng pháp luật. Chính thể hòa hợp tồn tại dưới nhiều dạng mô thức: i) thần học tôn giáo có vai trò chủ đạo trong hệ tư tưởng trị nước và là nguồn gốc của pháp luật, mô thức này đang hiện diện ở hàng loạt các nước lấy tôn giáo trong đó có Islam giáo là quốc giáo; ii) nhà nước đã khai thác, ứng dụng những tư tưởng thần học phù hợp để xây dựng đất nước, các tín đồ, giáo hội cùng đồng thuận với nhà nước. (14; tr.7-13) Như vậy, nhìn từ lịch sử đương đại, dưới các nền chính trị khác nhau, mối quan hệ giữa chính trị và tôn giáo diễn ra theo các chiều: Chiều tôn giáo tác động đến chính trị: tôn giáo đối đầu hoặc chống đối công khai với chính trị, thần quyền tôn giáo bắt thế quyền chính trị phải phục tùng theo. Tôn giáo tham gia vào đời sống chính trị, kể cả vào bộ máy nhà nước và đảng phái chính trị. Mặt khác, tôn giáo không can thiệp vào công việc chính trị, chỉ chuyên tâm đến những vấn đề thuần túy của tôn giáo để thỏa mãn nhu cầu tôn giáo của tín đồ. Chiều chính trị tác động tới tôn giáo có những biểu hiện: nhà nước luôn đấu tranh để thoát khỏi ảnh hưởng và sự kiểm soát của tôn giáo trên các yếu tố cấu thành tôn giáo để khẳng định tính thế tục. Nhà nước giúp đỡ và hỗ trợ 15 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi tôn giáo về nhiều phương diện và chính trị sử dụng tôn giáo như là công cụ để đảm bảo lợi ích chính trị trực tiếp và căn bản của mình. Đồng thời, Nhà nước không can thiệp vào nội bộ tôn giáo, không kiểm soát quan hệ của công dân và không đánh giá công dân theo dấu hiệu tôn giáo. Ở đây có sự công bằng trong quan hệ giữa tôn giáo và chính trị, biểu hiện ở chính trị khẳng định quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo như một nguyên tắc pháp lý, còn tôn giáo xem đấy là một công cụ đại diện lợi ích của mình, với tư cách là một tổ chức trong lĩnh vực chính trị-pháp luật của đời sống xã hội. 1.1.4. Khái niệm “thể chế chính trị” Trước khi đưa đến khái niệm “thể chế chính trị”, chúng tôi sẽ tìm hiểu khái niệm “thể chế”. Một số nhà khoa học khi bàn luận đến khái niệm “Thể chế” coi thể chế là “luật chơi”, nghĩa là những quy định, những luật lệ mà những người tham gia phải tuân thủ theo. Theo Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, thể chế được hiểu là “những quy định, luật lệ của một chế độ xã hội, buộc mọi người phải tuân theo” Platje (2008) trích dẫn Douglas C. North (1990) cho rằng, thể chế là “luật chơi trong một xã hội nhất định”. Như vậy, thể chế theo cách hiểu này chỉ bao gồm những quy định luật lệ, mà không bao hàm bản thân các tổ chức và thiết chế xã hội được thành lập để đảm bảo luật chơi đó. Thể chế có thể bao gồm thể chế chính thức (như nguyên tắc, pháp luật, hiến pháp) và những luật lệ không chính thức (như văn hóa, giá trị, nguyên tắc đạo đức…) Một số nhà nghiên cứu khác coi thể chế không chỉ bao gồm những quy định, luật lệ, mà còn bao gồm cả những tổ chức nữa. Ngân hàng Thế giới (2002) định nghĩa thể chế là “những quy định và tổ chức, bao gồm cả chính thức lẫn không chính thức, điều phối hoạt động của con người.” Với khái niệm này, thể chế không chỉ bao hàm “luật chơi” mà còn cả “người chơi”. Cùng với khái niệm này là mô tả thể chế, bao gồm: tài sản xã hội (niềm tin, giá trị được thừa nhận, tôn giáo, mạng lưới quan hệ, quy chuẩn); luật lệ (bao 16 gồm các quy định, truyền thống, nguyên tắc, pháp luật, và hiến pháp) và các tổ chức (các cơ quan của chính phủ, các công ty, các tổ chức xã hội dân sự, cảnh sát, tòa án…) Ở Việt Nam, cách tiếp cận khái niệm “thể chế” là cách thứ nhất. Trong Chương trình Tổng thể Cải cách Hành chính Nhà nước giai đoạn 2001-2010, cải cách thể chế và cải cách tổ chức bộ máy hành chính được hiểu là hai nội dung độc lập. Từ khái niệm thể chế và chính trị, chúng tôi đưa ra khái niệm thể chế chính trị là tổng hợp các phương pháp và cách thức thực hiện quyền lực nhà nước do tình hình chính trị trong nước chi phối. Thể chế chính trị được quy định trước hết bởi bản chất giai cấp và hình thức nhà nước, tính chất của pháp luật và quyền lực của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tương quan lực lượng của các giai cấp, mức độ và hình thức đấu tranh giai cấp cũng như truyền thống lịch sử của đất nước và hoàn cảnh quốc tế v.v… là những yếu tố ảnh hưởng đến thể chế chính trị. Điểm cốt yếu nhất quyết định đến thể chế chính trị là bản chất, hình thức, tính chất của quyền lực nhà nước, chính trị hiện hành (ví dụ: chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư sản và xã hội chủ nghĩa). Trong nhà nước xã hội chủ nghĩa, thể chế chính trị là dân chủ, được thể hiện qua những đặc trưng: quyền lực thuộc về nhân dân lao động; thể chế chính trị bảo vệ quyền lợi và tự do cơ bản của công dân. Thể chế chính trị ở nhà nước xã hội chủ nghĩa dựa trên nền tảng pháp chế xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ, tăng cường vai trò của các tổ chức xã hội và sự tham gia tích cực của công dân vào các công việc của nhà nước và xã hội. Hiện nay, chúng ta có thể thấy các thể chế chính trị đang tồn tại đó là: thể chế quân chủ; thể chế cộng hòa: Thể chế quân chủ hay còn gọi là Chế độ quân quyền, là một thể chế hình thức chính quyền mà trong đó người đứng đầu nhà nước là nhà vua hoặc nữ hoàng. Thể chế về chế độ quân chủ xưa kia trong thời phong kiến là chế độ 17 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi quân chủ chuyên chế. Theo đó, mọi quyền lực, mọi chi phối các hoạt động trong xã hội gần như tuyệt đối tập trung trong tay nhà vua hay nữ hoàng lãnh đạo. Thể chế về chế độ quân chủ thời nay là chế độ quân chủ lập hiến. Theo đó, mọi quyền lực, mọi chi phối các hoạt động trong xã hội không còn tập trung trong tay vua hay nữ hoàng. Vua hay nữ hoàng chỉ là người lãnh đạo tinh thần mà thôi. Còn mọi quyền lực, mọi chi phối các hoạt động trong xã hội do nghị viện và thủ tướng là người được dân tín nhiệm và bỏ phiếu thông qua bầu cử. Thể chế cộng hòa hay còn được gọi là chế độ cộng hòa, là một thể chế hình thức chính quyền được lãnh đạo bởi những người không dựa sức mạnh chính trị của họ vào bất kỳ một quy luật nào vượt khỏi tầm kiểm soát của nhân dân trong bang hay nước đó. Trong hầu hết nền cộng hòa hiện đại người đứng đầu nhà nước được gọi là tổng thống (president). Các danh xưng khác được sử dụng là consul, doge, archon và nhiều danh xưng khác. Trong các nền cộng hòa và cũng là dân chủ người đứng đầu nhà nước được chỉ định theo kết quả của một cuộc bầu cử. Cuộc bầu cử này có thể là gián tiếp, chẳng hạn như nếu một hội đồng theo một dạng nào đó được bầu lên bởi người dân, và hội đồng này sau đó sẽ bầu ra người đứng đầu nhà nước. Trong các nền cộng hòa này nhiệm kì thông thường của tổng thống kéo dài trong khoảng bốn đến sáu năm. Trong một số nước, hiến pháp giới hạn số nhiệm kì một người có thể được bầu lên vị trí tổng thống. Hiện nay, thể chế chính trị của các nước Đông Nam Á (trừ Thái Lan) từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay gắn liền với quá trình đấu tranh giành và giữ vững nền độc lập dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước. Sự lựa chọn con đường phát triển tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa là một trong những yếu tố quyết định tính chất và đặc điểm của hình thức chính thể. Trong số 8 nước đi theo con đường phát triển tư bản chủ nghĩa, có 4 nước theo hình thức chính thể quân chủ lập hiến (Brunây, Campuchia, Malaixia, Thái Lan); 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan