1. Dàn bài khái quát:
* Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Giới thiệu 2 nhân vật.
* Thân bài:
- Nét chung của các nhân vật
- Nét riêng của các nhân vật
- Đánh giá về nghệ thuật và ý nghĩa của hình tượng.
* Kết bài: tóm tắt lại nội dung chính ( học sinh nên tự triển khai)
Học sinh cần có phương pháp học văn phù hợp
Đề bài: So sánh tính cách của hai nhân vật Chiến và Việt trong “Những đứa con trong gia đình” – Nguyễn
Thi?
* Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Giới thiệu 2 nhân vật
* Thân bài:
- Giống nhau:
+ Sinh ra trong cùng một gia đình có truyền thống cách mạng, có mối thù sâu sắc với giặc Mĩ
+ Là những người giàu tình yêu thương.
+ Là những con người dũng cảm, kiên cường.
- Khác nhau:
+ Việt tính cách còn trẻ con, vô tư, hồn nhiên. Vì Việt là em trai nên được má nuông chiều, chị nhường
nhịn
+ Chiến giống má ở cả ngoại hình và phẩm chất đảm đang tháo vát, “người lớn”. Chiến là chị gái, phải lo
toan việc nhà đặc biệt là từ khi ba má mất.
- Đánh giá về nghệ thuật xây dựng hai nhân vật:
- Ý nghĩa:
+ Ca ngợi thế hệ trẻ của miền Nam thời chống Mĩ
+ Trong gia đình Chiến và Việt là những khúc sông sau chảy xa nhất. Khắc họa 2 nhân vật Chiến và Việt
tác giả muốn khẳng định mỗi gia đình mà biết kết hợp giữa tình cảm gia đình với tình yêu nước, truyền
thống gia đình với truyền thống dân tộc thì sẽ tạo nên được sức mạnh to lớn của con người Việt Nam
trong kháng chiến chống Mĩ.
* Kết bài:
- Mỗi nhân vật đã để lại ấn tượng riêng trong lòng độc giả
- Tài năng của Nguyễn Thi trong việc khắc họa tính cách nhân vật
Đề bài: Vẻ đẹp của người vợ nhặt trong “Vợ nhặt” _ Kim Lân và người đàn bà trong “Chiếc thuyền ngoài
xa” – Nguyễn Minh Châu?
- Giống nhau:
+ Đều xấu về ngoại hình, không tên, và là nạn nhân của hoàn cảnh
+ Đều có những phẩm chất tốt đẹp
- Khác nhau:
+ Người vợ nhặt: mang vẻ đẹp của một nàng dâu mới: Khát khao sống, khát khao hạnh phúc mái ấm /
hiền hậu / thu vén gia đình, có niềm tin
+ Người đàn bà là phẩm chất của người phụ nữ gánh nặng cuộc sống mưu sinh trong hoàn cảnh nghèo
đói, trong nạn bạo lực gia đình: thương con, thấu hiểu lẽ đời, bao dung độ lượng.
Dạng bài so sánh được ra khá thường xuyên trong những năm gần đây (năm 2007-2008, 20082009). Đây là dạng bài khá mới mẻ cũng như không hề “lộ diện” trong sách giáo khoa nên làm
không ít bạn lúng túng.
Phân tích yêu cầu đề ra
Dù đề ra yêu cầu so sánh 2, 3 tác phẩm cùng thời đại hoặc cùng thể loại hay không thì cũng đừng
bối rối nhé, bởi mục đích cuối cùng của kiểu bài này là yêu cầu bạn chỉ ra được chỗ giống và
khác nhau giữa hai tác phẩm, hai tác giả, từ đó thấy được những mặt kế thừa, những điểm cách
tân của từng tác giả, từng tác phẩm, thấy được vẻ đẹp riêng của từng tác phẩm cũng như sự đa
dạng muôn màu của phong cách nhà văn mà thôi.
Bên cạnh đó, dạng bài này cũng là một cách để kiểm tra kĩ năng lý giải nguyên nhân của sự khác
nhau giữa các hiện tượng văn học. Vì thế bạn đừng quên trong bài làm của mình phải trả lời một
câu hỏi quan trọng: “Tại sao lại có sự khác nhau đó?”. Để trả lời câu hỏi thì kiến thức chẳng “cao
siêu” hay nằm ở đâu xa đâu nhé. Ở ngay trong sách giáo khoa thôi. Thường thì để giải đáp câu
hỏi này, các bạn sẽ cần sử dụng đến những kiến thức từ phong cách nhà văn, thời đại văn học,
bối cảnh ra đời tác phẩm và ý nghĩa mà tác giả muốn gửi gắm. Yêu cầu cho đề văn này thường
không nằm ngoài tầm với đâu nhé!
Dàn ý khái quát của dạng bài so sánh
Vì là một bài nghị luận nên bố cục một bài văn so sánh văn học cũng có 3 phần: mở bài, thân bài
và kết bài. Tuy nhiên chức năng cụ thể của từng phần lại có những điểm khác biệt so với kiểu bài
nghị luận về một tác phẩm, đoạn trích thơ hay nghị luận về một đoạn trích, tác phẩm văn xuôi.
Dàn ý khái quát của kiểu bài này như sau:
MỞ BÀI:
- Dẫn dắt (mở bài trực tiếp không cần bước này)
- Giới thiệu khái quát về các đối tượng so sánh
THÂN BÀI:
1. Làm rõ đối tượng thứ nhất (bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu
là thao tác lập luận phân tích)
2. Làm rõ đối tượng thứ 2 (bước này vận kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao
tác lập luận phân tích)
3. So sánh: nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả hai bình diện nội dung và hình
thức nghệ thuật (bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác
lập luận phân tích và thao tác lập luận so sánh)
4. Lý giải sự khác biệt: thực hiện thao tác này cần dựa vào các bình diện: bối cảnh xã hội, văn
hóa mà từng đối tượng tồn tại; phong cách nhà văn; đặc trưng thi pháp của thời kì văn học…
( bước này vận nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích)
KẾT BÀI:
- Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu
- Có thể nêu những cảm nghĩ của bản thân.
Phân tích ví dụ
Cùng phân tích và làm thử một đề thi để hiểu hơn nhé!
Đề thi tuyển sinh đại học – cao đẳng năm 2009, khối C:
Câu III.a. Theo chương trình Chuẩn (5,0 điểm)
Cảm nhận của anh/chị về những vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người vợ nhặt (Vợ nhặt - Kim
Lân) và nhân vật người đàn bà hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu).
MỞ BÀI
Giới thiệu khái quát về các đối tượng so sánh
Giới thiệu khái quát về hai nhân vật trong hai tác phẩm
- Kim Lân là nhà văn chuyên viết về nông thôn và cuộc sống người dân quê, có sở trường về
truyện ngắn. Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc, viết về tình huống "nhặt vợ" độc đáo, qua đó thể
hiện niềm tin mãnh liệt vào phẩm chất tốt đẹp của những con người bình dị trong nạn đói thê
thảm.
- Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu thời chống Mĩ, cũng là cây bút tiên phong thời đổi
mới. Chiếc thuyền ngoài xa là truyện ngắn xuất sắc ở thời kì sau, viết về lần giáp mặt của một
nghệ sĩ với cuộc sống đầy nghịch lí của một gia đình hàng chài, qua đó thể hiện lòng xót thương,
nỗi lo âu đối với con người và những trăn trở về trách nhiệm của người nghệ sĩ.
THÂN BÀI
1. Làm rõ đối tượng thứ nhất
(bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích)
Nhân vật người vợ nhặt
- Giới thiệu chung: Tuy không được miêu tả thật nhiều nhưng người vợ nhặt vẫn là một trong ba
nhân vật quan trọng của tác phẩm. Nhân vật này được khắc hoạ sống động, theo lối đối lập giữa
bề ngoài và bên trong, ban đầu và về sau.
- Một số vẻ đẹp khuất lấp tiêu biểu:
+ Phía sau tình cảnh trôi dạt, vất vưởng, là một lòng ham sống mãnh liệt.
+ Phía sau vẻ nhếch nhác, dơ dáng, lại là một người biết điều, ý tứ.
+ Bên trong vẻ chao chát, chỏng lỏn, lại là một người phụ nữ hiền hậu, đúng mực, biết lo toan.
2. Làm rõ đối tượng thứ 2
(bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích)
Nhân vật người đàn bà chài
- Giới thiệu chung: Là nhân vật chính, có vai trò quan trọng với việc thể hiện tư tưởng của tác
phẩm. Nhân vật này được khắc hoạ sắc nét, theo lối tương phản giữa bề ngoài và bên trong, giữa
thân phận và phẩm chất.
- Một số vẻ đẹp khuất lấp tiêu biểu:
+ Bên trong ngoại hình xấu xí, thô kệch là một tấm lòng nhân hậu, vị tha, độ lượng, giàu đức hi
sinh.
+ Phía sau vẻ cam chịu, nhẫn nhục vẫn là một người có khát vọng hạnh phúc, can đảm, cứng cỏi.
+ Phía sau vẻ quê mùa, thất học lại là một người phụ nữ thấu hiểu, sâu sắc lẽ đời.
3. So sánh: nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả hai bình diện nội dung và
hình thức nghệ thuật (bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao
tác lập luận phân tích, so sánh)
So sánh nét tương đồng, khác biệt
- Tương đồng: Cả hai nhân vật đều là những thân phận bé nhỏ, nạn nhân của hoàn cảnh. Những
vẻ đẹp đáng trân trọng của họ đều bị đời sống cơ cực lam lũ làm khuất lấp. Cả hai đều được khắc
hoạ bằng những chi tiết chân thực...
- Khác biệt: Vẻ đẹp được thể hiện ở nhân vật người vợ nhặt chủ yếu là những phẩm chất của một
nàng dâu mới, hiện lên qua các chi tiết đầy dư vị hóm hỉnh, trong nạn đói thê thảm. Vẻ đẹp được
khắc sâu ở người đàn bà hàng chài là những phẩm chất của một người mẹ nặng gánh mưu sinh,
hiện lên qua các chi tiết đầy kịch tính, trong tình trạng bạo lực gia đình...
4. Lý giải sự khác biệt: Thực hiện thao tác này cần dựa vào các bình diện: bối cảnh xã hội, văn
hóa mà từng đối tượng tồn tại; phong cách nhà văn; đặc trưng thi pháp của thời kì văn học…
( bước này vận nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích)
+ Vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt được đặt trong quá trình phát triển, biến đổi từ thấp đến
cao(cảm hứng lãng mạn), trong khi đó người đàn bà chài lưới lại tĩnh tại, bất biến như một hiện
thực nhức nhối đang tồn tại(cảm hứng thế sự-đời tư trong khuynh hướng nhận thức lại)
+ Sự khác biệt giữa quan niệm con người giai cấp (Vợ nhặt) với quan niệm con người đa dạng,
phức tạp( Chiếc thuyền ngoài xa) đã tạo ra sự khác biệt này
(có thể có thêm nhiều ý khác, tùy thuộc mức độ phân hóa của đề thi)
KẾT BÀI
- Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu.
- Có thể nêu những cảm nghĩ của bản thân.
Trong yêu cầu của từng đề bài cụ thể thuộc kiểu bài này, bạn cần linh hoạt, sáng tạo. Vấn đề cốt
tủy của mọi bài nghị luận là làm thế nào để vừa “trúng” vừa “hay”. Nguyên tắc trình bày một bài
nghị luận so sánh văn học cũng không đi ra ngoài mục đích đó vậy. Bởi vậy với dạng đề này, bạn
có thể tham khảo các cấu trúc bài khác nhau và thỏa sức sáng tạo cho riêng mình.
LUYỆN CHO HỌC SINH KỸ NĂNG LÀM BÀI SO SÁNH
1. Giới thiệu:
So sánh là phương pháp nhâ ân thức trong đó đặt sự vâ ât này bên cạnh mô ât hay nhiều sự vâ ât khác
để đối chiếu, xem xét nhằm hiểu sự vâ ât mô ât cách toàn diê ân, kỹ lưỡng, rõ nét và sâu sắc hơn.
Trong thực tế đời sống, so sánh trở thành mô ât thao tác phổ biến, thông dụng nhằm đáp ứng nhu
cầu nhâ ân thức, đánh giá của con người trong nhiều lĩnh vực và hoàn cảnh.
Với phân môn làm văn trong nhà trường phổ thông, so sánh là mô ât trong những thao tác chính
của văn nghị luâ ân bên cạnh các thao tác phân tích, bình luâ ân, bác bỏ… Yêu cầu của thao tác này
là chỉ ra nét giống nhau và khác nhau của các đối tượng so sánh. Vì thế, nó gắn với hai loại: so
sánh tương đồng và so sánh tương phản. Sử dụng thao tác này đòi hỏi người viết phải có kiến
thức rô âng, có sự tinh nhạy và linh hoạt để gọi các sự vâ ât đặt cạnh nhau. Chẳng hạn khi phân tích
Vợ nhặt thì liên tưởng đến Mô ât đám cưới của Nam Cao để thấy dù diễn ra giữa ngày đói song
đám cưới của Tràng vẫn lạc quan, mở ra cảnh gia đình gắn bó đoàn tụ trong khi đám cưới của
Dần bắt đầu sự chia lìa tan tác của gia đình mình.
Nếu xem so sánh là mô ât cách thức, mô ât phương pháp trình bày khi làm bài văn nghị luâ ân hay
nói cách khác là mô ât kiểu bài nghị luâ ân thì chưa có mô ât bài lí thuyết cụ thể nào mang tính định
hướng, gợi dẫn. Vì thể, với mỗi giáo viên, viê âc giúp học sinh nắm được đặc trưng, mục đích, yêu
cầu và cách thức làm bài cho dạng đề so sánh là vô cùng cần thiết, nhất là với học sinh 12 sắp thi
đại học.
2. Các dạng cụ thể của kiểu bài
Từ thực tế các đề thi đại học trong những năm vừa qua, chúng tôi nhâ nâ thấy có những dạng và
cấp bâ âc so sánh sau:
- So sánh hai chi tiết trong hai tác phẩm: Đề khối D 2010- So sánh chi tiết ấm nước đầy và còn
ấm mà Từ dành chăm sóc Hô â và chi tiết bát cháo hành của Thị Nở dành cho Chí Phèo.
So sánh hai đoạn thơ (diễn tả nỗi nhớ) trong hai bài: Tây Tiến của Quang Dũng và Tiếng hát con
tàu của Chế Lan Viên- Đề khối C 2008.
- So sánh hai đoạn văn (khắc họa vẻ đẹp hai dòng sông) trong hai bài kí: Người lái đò sông Đà
của Nguyễn Tuân và Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường- Đề khối C 2010.
- So sánh hai nhân vâ ât (vẻ đẹp khuất lấp) của: người vợ nhặt trong Vợ nhặt của Kim Lân và
người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
3. Quy trình và cách thức thực hiê ên kiểu bài so sánh
a. Quy trình
Quy trình thực hiê ân kiểu bài so sánh có thể phân lâ âp theo các bước sau. Đề bao giờ cũng đưa ra
các đối tượng để so sánh: hai đoạn thơ, hai đoạn văn, hai nhân vâ ât, hai chi tiết…
Trước hết, cần phân lâ âp đối tượng thành nhiều bình diê ân để đối sánh. Bước này nhằm phát huy
trí tuê â sắc sảo và mĩ cảm của học sinh. Trên đại thể, hai bình diê ân bao trùm là nô âi dung tư tưởng
và hình thức nghê â thuâ ât. Tùy từng đối tượng được yêu cầu so sánh mà có cách chia tách ra các
khía cạnh nhỏ khác nhau từ ngôn từ, hình ảnh, chi tiết, kết cấu, âm hưởng, giọng điê âu đến đề tài,
chủ đề, tư tưởng và cảm hứng nghê â thuâ ât.
Sau đó cần nhâ ân xét, đối chiếu để chỉ ra điểm giống và khác nhau. Bước này đòi hỏi học sinh
cần có sự quan sát tinh tường, phát hiê ân chính xác và diễn đạt thâ ât nổi bâ ât, rõ nét, tránh nói
chung chung, mơ hồ. Ví dụ, so sánh hai câu thơ : Cỏ non xanh tâ nâ chân trời của Nguyễn Du và
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời của Hàn Mặc Tử ta thấy cả hai đều biểu đạt sức xuân tràn ngâ âp cả
không gian đất trời song cái Nguyễn Du chú ý là sắc cỏ, xuân phát ra từ sắc màu còn Hàn Mặc
Tử là sóng cỏ, xuân dâ ây lên từ những rung đô âng của sóng. Sự vâ ân đô âng trong thơ Nguyễn Du
lan theo bề rô âng còn với Hàn thi sĩ thì vươn đến chiều cao, bầu không gian tràn ngâ âp rung đô âng
như cỏ.
Cuối cùng là đánh giá, nhâ ân xét và lí giải nguyên nhân của sự giống và khác nhau đó. Bước này
đòi hỏi những tiêu chuẩn chắc chắn và bản lĩnh vững vàng cùng những hiểu biết sâu sắc ngoài
văn bản để tránh những suy diễn tùy tiê ân, chủ quan, thiếu sức thuyết phục. Chẳng hạn, trở lại
với Vợ nhặt của Kim Lân và Mô ât đám cưới của Nam Cao ở trên sự khác biê ât xuất phát từ hai
phương pháp sáng tác và hai phong cách nghê â thuâ ât khác nhau. Nam Cao với văn học hiê ân thực
phê phán thường miêu tả hiê ân trạng đời sống đang đi xuống, bế tắc và èo uô ât và phong cách đặc
trưng của Nam Cao là sự lạnh lùng mà đau xót. Với Kim Lân, văn học hiê ân thực xã hô âi chủ
nghĩa thường mô tả trạng thái đời sống đi lên, hướng về ngày mai tươi sáng. Hơn nữa, văn phong
của cây bút mô ât lòng đi về với đất, với thuần hâ âu nguyên thủy của cuô âc sống nông thôn này gắn
bó với giọng đôn hâ âu, hóm hỉnh và đầy lạc quan.
b. Cách thức
Cách trình bày kiểu bài so sánh thông thường có hai cách là nối tiếp và song song.
Thứ nhất, nối tiếp là lần lượt phân tích từng đối tượng sau đó chỉ ra cái giống và khác nhau. Cách
này dễ làm nhưng khó hay, nhiều khi trùng lặp ý và sắc thái so sánh bị chìm. Tuy nhiên, vì yêu
cầu cho đại trà nên đáp án đại học những năm qua thường gợi ý theo cách này.
Thứ hai là song song tức là song hành so sánh trên mọi bình diê ân của hai đối tượng. Cách này
hay nhưng khó, đòi hỏi khả năng tư duy chặt chẽ, lô gic, sự tinh nhạy trong phát hiê ân vấn đề.
Ví dụ, khi so sánh hai bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi và trích đoạn Đất nước của Nguyễn
Khoa Điềm, người làm cao tay có thể song song so sánh trên các bình diê ân: Xuất xứ- cảm hứnghình tượng- chất liê âu và giọng điê âu trữ tình.
Về xuất xứ, Đất nước của Nguyễn Đình Thi là mô ât chỉnh thể sáng tạo tổng hợp từ hai bài thơ
trước đó và nó có dáng dấp như mô ât trường ca thu nhỏ. Trong khi đó, Đất nước của Nguyễn
Khoa Điềm là mô ât mảnh nhỏ vỡ ra từ chỉnh thể trường ca lớn
Về cảm hứng, Nguyễn Đình Thi gửi gắm những suy tư, tâm niê âm về sức sống diê âu kì của dân
tô âc Viê ât Nam anh hùng còn Nguyễn Khoa Điềm nghiêng về cắt nghĩa lí giải các câu hỏi: Đất
nước có tự bao giờ? Đất nước là gì? Mối quan hê â giữa con người và đất nước?...
Về hình tượng, Nguyễn Đình Thi khắc họa bằng hai hê â thống hình ảnh chính của giang sơn tổ
quốc là đất và trời thì Nguyễn Khoa Điềm hướng đến đất và nước như hai yếu tố khởi thủy hợp
lại. Với Nguyễn Đình Thi, nhân dân là những con người trong mô ât cuô âc hành trình trừơng chinh
máu lửa vươn vai như những thiên thần còn với Nguyễn Khoa Điềm là đám đông vô danh bốn
nghìn thế hê â, hòa nhâ âp vào nhau để hóa thành đất nước trong hình tượng mang màu sắc huyền
thoại.
Về chất liê âu, Nguyễn Đình Thi sử dụng chất liê âu thi ca từ chi tiết đời sống bằng vốn sống và ấn
tượng chủ quan trực tiếp còn Nguyễn Khoa Điềm nhào nặn tài tình vốn văn hóa dân gian trong
ca dao, truyền thuyết, cổ tích…
Về giọng điê âu, Nguyễn Đình Thi như đang phát ngôn giữa quảng đại quần chúng nên bài thơ có
giọng tráng ca hào sảng dõng dạc. Với Nguyễn Khoa Điềm, đó là giọng trữ tình của mô ât chàng
trai trong lời tâm tình với người yêu, thân mâ ât mà nghiêm trang, cảm xúc đan cài suy tư, triết lí
làm nên giọng triết luâ ân tâm tình.
Đây là một kiểu bài mới, chưa được cụ thể hóa thành một bài học riêng trong chương trình Ngữ văn bậc
trung học phổ thông, do đó đã ảnh hưởng ít nhiều đến chất lượng làm bài của học sinh cũng như quá
trình định hướng ôn tập cho học sinh từ phía giáo viên. Góp phần tháo gỡ những khó khăn trên, bài viết
này xin đưa ra một số gợi ý để cùng các em ôn tập, phục vụ cho mùa thi 2009-2010.
1. Khái niệm so sánh văn học cần phải được hiểu theo ba lớp nghĩa khác nhau. Thứ nhất, so sánh văn học
là “một biện pháp tu từ để tạo hình ảnh cho câu văn”(1) . Thứ hai, nó được xem như một thao tác lập
luận cạnh các thao tác lập luận như: phân tích, bác bỏ, bình luận đã được đưa vào sách giáo khoa Ngữ
văn 11. Thứ ba, nó được xem như “một phương pháp, một cách thức trình bày khi viết bài nghị luận”(2),
tức là như một kiểu bài nghị luận cạnh các kiểu bài nghị luận về một đoạn trích, tác phẩm thơ; nghị luận
về một đoạn trích, tác phẩm văn xuôi… ở sách giáo khoa Ngữ văn 12. Tuy nhiên, so sánh văn học như
một kiểu bài nghị luận văn học lại chưa được cụ thể bằng một bài học độc lập. Vì vậy, từ việc xác lập nội
hàm khái niệm kiểu bài, mục đích, yêu cầu, đến cách thức làm bài cho kiểu bài này thực sự rất cần thiết.
2. Kiểu bài so sánh văn học yêu cầu thực hiện cách thức so sánh trên nhiều bình diện: đề tài, nhân vật,
tình huống, cốt truyện, cái tôi trữ tình, chi tiết nghệ thuật, nghệ thuật trần thuật… Quá trình so sánh có
thể chỉ diễn ra ở các tác phẩm của cùng một tác giả, nhưng cũng có thể diễn ra ở những tác phẩm của
các tác giả cùng hoặc không cùng một thời đại, giữa các tác phẩm của những trào lưu, trường phái khác
nhau của một nền văn học. Mục đích cuối cùng của kiểu bài này là yêu cầu học sinh chỉ ra được chỗ
giống và khác nhau giữa hai tác phẩm, hai tác giả, từ đó thấy được những mặt kế thừa, những điểm cách
tân của từng tác giả, từng tác phẩm; thấy được vẻ đẹp riêng của từng tác phẩm; sự đa dạng muôn màu
của phong cách nhà văn. Không dừng lại ở đó, kiểu bài này còn góp phần hình thành kĩ năng lí giải
nguyên nhân của sự khác nhau giữa các hiện tượng văn học – một năng lực rất cần thiết góp phần tránh
đi khuynh hướng “bình tán”, khuôn sáo trong các bài văn của học sinh hiện nay. Lẽ hiển nhiên, đối với
đối tượng học sinh trung học phổ thông, các yêu cầu về năng lực lí giải cần phải hợp lí, vừa sức. Nghĩa là
các tiêu chí so sánh cần có mức độ khó vừa phải, khả năng lí giải sự giống và khác nhau cũng cần phải
tính toán hợp lí với năng lực của các em. Chuẩn kiến thức, chuẩn kĩ năng trong từng bài, từng cấp học sẽ
là căn cứ để kiểm định những vấn đề này.
3. Vì là một bài nghị luận nên bố cục một bài văn so sánh văn học cũng có 3 phần: mở bài, thân bài và kết
bài. Tuy nhiên chức năng cụ thể của từng phần lại có những điểm khác biệt so với kiểu bài nghị luận về
một tác phẩm, đoạn trích thơ hay nghị luận về một đoạn trích, tác phẩm văn xuôi. Dàn ý khái quát của
kiểu bài này như sau:
MỞ BÀI:
- Dẫn dắt (mở bài trực tiếp không cần bước này)
- Giới thiệu khái quát về các đối tượng so sánh
THÂN BÀI:
1. Làm rõ đối tượng thứ nhất (bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là
thao tác lập luận phân tích)
2. Làm rõ đối tượng thứ 2 (bước này vận kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác
lập luận phân tích)
3. So sánh: nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả hai bình diện nội dung và hình
thức nghệ thuật (bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận
phân tích và thao tác lập luận so sánh)
4. Lý giải sự khác biệt: thực hiện thao tác này cần dựa vào các bình diện: bối cảnh xã hội, văn hóa
mà từng đối tượng tồn tại; phong cách nhà văn; đặc trưng thi pháp của thời kì văn học…( bước này vận
nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích)
KẾT BÀI:
- Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu
- Có thể nêu những cảm nghĩ của bản thân.
Bây giờ thử kiểm định dàn bài trên bằng cách so sánh với đáp án câu III.a - Đề thi tuyển sinh đại học –
cao đẳng năm 2009, khối C như sau:
Câu III.a. Theo chương trình Chuẩn (5,0 điểm)
Cảm nhận của anh/chị về những vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người vợ nhặt (Vợ nhặt - Kim Lân) và
nhân vật người đàn bà hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu).
MỞ BÀI
Giới thiệu khái quát về các đối tượng so sánh
Giới thiệu khái quát về hai nhân vật trong hai tác phẩm
- Kim Lân là nhà văn chuyên viết về nông thôn và cuộc sống người dân quê, có sở trường về truyện ngắn.
Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc, viết về tình huống "nhặt vợ" độc đáo, qua đó thể hiện niềm tin mãnh
liệt vào phẩm chất tốt đẹp của những con người bình dị trong nạn đói thê thảm.
- Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu thời chống Mĩ, cũng là cây bút tiên phong thời đổi mới. Chiếc
thuyền ngoài xa là truyện ngắn xuất sắc ở thời kì sau, viết về lần giáp mặt của một nghệ sĩ với cuộc sống
đầy nghịch lí của một gia đình hàng chài, qua đó thể hiện lòng xót thương, nỗi lo âu đối với con người và
những trăn trở về trách nhiệm của người nghệ sĩ.
THÂN BÀI
1. Làm rõ đối tượng thứ nhất
(bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích)
Nhân vật người vợ nhặt
- Giới thiệu chung: Tuy không được miêu tả thật nhiều nhưng người vợ nhặt vẫn là một trong ba nhân
vật quan trọng của tác phẩm. Nhân vật này được khắc hoạ sống động, theo lối đối lập giữa bề ngoài và
bên trong, ban đầu và về sau.
- Một số vẻ đẹp khuất lấp tiêu biểu:
+ Phía sau tình cảnh trôi dạt, vất vưởng, là một lòng ham sống mãnh liệt.
+ Phía sau vẻ nhếch nhác, dơ dáng, lại là một người biết điều, ý tứ.
+ Bên trong vẻ chao chát, chỏng lỏn, lại là một người phụ nữ hiền hậu, đúng mực, biết lo toan.
2. Làm rõ đối tượng thứ 2
(bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích)
Nhân vật người đàn bà chài
- Giới thiệu chung: Là nhân vật chính, có vai trò quan trọng với việc thể hiện tư tưởng của tác phẩm.
Nhân vật này được khắc hoạ sắc nét, theo lối tương phản giữa bề ngoài và bên trong, giữa thân phận và
phẩm chất.
- Một số vẻ đẹp khuất lấp tiêu biểu:
+ Bên trong ngoại hình xấu xí, thô kệch là một tấm lòng nhân hậu, vị tha, độ lượng, giàu đức hi sinh.
+ Phía sau vẻ cam chịu, nhẫn nhục vẫn là một người có khát vọng hạnh phúc, can đảm, cứng cỏi.
+ Phía sau vẻ quê mùa, thất học lại là một người phụ nữ thấu hiểu, sâu sắc lẽ đời.
3. So sánh: nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả hai bình diện nội dung và hình thức
nghệ thuật (bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân
tích, so sánh)
So sánh nét tương đồng, khác biệt
- Tương đồng: Cả hai nhân vật đều là những thân phận bé nhỏ, nạn nhân của hoàn cảnh. Những vẻ đẹp
đáng trân trọng của họ đều bị đời sống cơ cực lam lũ làm khuất lấp. Cả hai đều được khắc hoạ bằng
những chi tiết chân thực...
- Khác biệt: Vẻ đẹp được thể hiện ở nhân vật người vợ nhặt chủ yếu là những phẩm chất của một nàng
dâu mới, hiện lên qua các chi tiết đầy dư vị hóm hỉnh, trong nạn đói thê thảm. Vẻ đẹp được khắc sâu ở
người đàn bà hàng chài là những phẩm chất của một người mẹ nặng gánh mưu sinh, hiện lên qua các chi
tiết đầy kịch tính, trong tình trạng bạo lực gia đình...
4. Lý giải sự khác biệt: Thực hiện thao tác này cần dựa vào các bình diện: bối cảnh xã hội, văn hóa mà
từng đối tượng tồn tại; phong cách nhà văn; đặc trưng thi pháp của thời kì văn học…( bước này vận
nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích)
+ Vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt được đặt trong quá trình phát triển, biến đổi từ thấp đến cao(cảm
hứng lãng mạn), trong khi đó người đàn bà chài lưới lại tĩnh tại, bất biến như một hiện thực nhức nhối
đang tồn tại(cảm hứng thế sự-đời tư trong khuynh hướng nhận thức lại)
+ Sự khác biệt giữa quan niệm con người giai cấp (Vợ nhặt) với quan niệm con người đa dạng, phức
tạp( Chiếc thuyền ngoài xa) đã tạo ra sự khác biệt này
(có thể có thêm nhiều ý khác, tùy thuộc mức độ phân hóa của đề thi)
KẾT BÀI
- Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu.
- Có thể nêu những cảm nghĩ của bản thân.
(Học sinh dựa vào gợi ý bên để viết kết bài. Có nhiều cách kết bài khác nhau, hướng dẫn bên chỉ có tính
chất tham khảo)
Bảng so sánh trên đây đã chỉ ra rằng, dàn bài khái quát mà chúng tôi đề xuất về cơ bản đã thể hiện được
một cách tuần tự hệ thống ý trong đáp án của đề thi tuyển sinh đại học khối C năm 2009. Tiếc rằng,
trong đáp án của đề thi tuyển sinh đại học khối C năm 2009 lại chưa yêu cầu so sánh về nghệ thuật xây
dựng nhân vật và yêu cầu lí giải về nguyên nhân của sự khác biệt giữa hai nhân vật là do đâu (Từ mục 4
của phần thân bài là bổ sung của chúng tôi). Rất có thể, hội đồng ra đề thi đã ý thức rằng, nếu thêm
phần này vào đáp án sẽ là “quá sức” đối với học sinh vì rằng để trả lời cho câu hỏi này, học sinh phải bám
sát vào đặc điểm hoàn cảnh lịch sử xã hội, văn hóa; phải bám vào đặc trưng thi pháp, phong cách nhà
văn…Theo chúng tôi, kiểu bài so sánh văn học cần phải có thêm hai mục này và đối với đề thi khối C yêu
cầu ở đáp án có mức độ khó cao hơn các khối khác. Có như vậy mới đánh giá đúng năng lực của học sinh
thi vào khối C (đề của khối C thường khó hơn so với các khối khác có thi môn ngữ văn). Hơn thế, trong
quá trình thực hiện yêu cầu phân hóa trong việc ra đề thi thì yêu cầu này hơn bao giờ hết cần phải được
chú trọng.
Trong quá trình làm bài, học sinh không nhất thiết phải tuân thủ nghiêm ngặt qui trình trên. Có thể phối
hợp nhiều bước cùng một lúc. Chẳng hạn, có thể đồng thời vừa phân tích làm rõ, vừa thực hiện nhiệm
vụ so sánh trên hai bình diện nội dung và nghệ thuật, vừa lí giải nguyên nhân vì sao khác nhau. Hoặc chỉ
trong bước so sánh, học sinh có thể kết hợp vừa so sánh vừa lí giải. Tuy nhiên, nếu thực hiện theo cách
này thì bài viết không khéo sẽ rơi vào rối rắm, luẩn quẩn. Tốt nhất là thực hiện tuần tự như trong dàn ý
khái quát.
4. Như chúng tôi đã trình bày, kiểu bài so sánh văn học có yêu cầu so sánh khá phong phú, đa dạng khó
có thể tìm ra một dàn bài khái quát thỏa mãn tất cả các dạng đề bài. Trong yêu cầu của từng đề bài cụ
thể thuộc kiểu bài này, học sinh cần linh hoạt, sáng tạo. Vấn đề cốt tủy của mọi bài nghị luận là làm thế
nào để vừa “trúng” vừa “hay”. Nguyên tắc trình bày một bài nghị luận so sánh văn học cũng không đi ra
ngoài mục đích đó vậy.
Luyện cho học sinh kỹ năng làm kiểu đề văn so sánh
1. Giới thiệu:
So sánh là phương pháp nhâ ân thức trong đó đă ât sự vâ ât này bên cạnh mô ât hay
nhiều sự vâ ât khác để đối chiếu, xem xét nhằm hiểu sự vâ ât mô ât cách toàn diê ân, kỹ
lưỡng, rõ nét và sâu sắc hơn. Trong thực tế đời sống, so sánh trở thành mô tâ thao
tác phổ biến, thông dụng nhằm đáp ứng nhu cầu nhâ ân thức, đánh giá của con
người trong nhiều lĩnh vực và hoàn cảnh.
Với phân môn làm văn trong nhà trường phổ thông, so sánh là mô ât trong những
thao tác chính của văn nghị luâ ân bên cạnh các thao tác phân tích, bình luâ ân, bác
bỏ… Yêu cầu của thao tác này là chỉ ra nét giống nhau và khác nhau của các đối
tượng so sánh. Vì thế, nó gắn với hai loại: so sánh tương đồng và so sánh tương
phản. Sử dụng thao tác này đòi hỏi người viết phải có kiến thức rô âng, có sự tinh
nhạy và linh hoạt để gọi các sự vâ tâ đă tâ cạnh nhau. Chẳng hạn khi phân tích Vợ
nhă ât thì liên tưởng đến Mô ât đám cưới của Nam Cao để thấy dù diễn ra giữa ngày
đói song đám cưới của Tràng vẫn lạc quan, mở ra cảnh gia đình gắn bó đoàn tụ
trong khi đám cưới của Dần bắt đầu sự chia lìa tan tác của gia đình mình.
Nếu xem so sánh là mô ât cách thức, mô ât phương pháp trình bày khi làm bài văn
nghị luâ ân hay nói cách khác là mô ât kiểu bài nghị luâ ân thì chưa có mô ât bài lí
thuyết cụ thể nào mang tính định hướng, gợi dẫn. Vì thể, với mỗi giáo viên, viê âc
giúp học sinh nắm được đă âc trưng, mục đích, yêu cầu và cách thức làm bài cho
dạng đề so sánh là vô cùng cần thiết, nhất là với học sinh 12 sắp thi đại học.
2. Các dạng cụ thể của kiểu bài
Từ thực tế các đề thi đại học trong những năm vừa qua, chúng tôi nhâ ân thấy có
những dạng và cấp bâ âc so sánh sau:
- So sánh hai chi tiết trong hai tác phẩm: Đề khối D 2010- So sánh chi tiết ấm nước
đầy và còn ấm mà Từ dành chăm sóc Hô â và chi tiết bát cháo hành của Thị Nở dành
cho Chí Phèo.
- So sánh hai đoạn thơ (diễn tả nỗi nhớ) trong hai bài: Tây Tiến của Quang Dũng
và Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên- Đề khối C 2008.
- So sánh hai đoạn văn (khắc họa vẻ đẹp hai dòng sông) trong hai bài kí: Người lái
đò sông Đà của Nguyễn Tuân và Ai đã đă ât tên cho dòng sông của Hoàng Phủ
Ngọc Tường- Đề khối C 2010.
- So sánh hai nhân vâ ât (vẻ đẹp khuất lấp) của: người vợ nhă ât trong Vợ nhă ât của
Kim Lân và người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh
Châu
3. Quy trình và cách thức thực hiê ân kiểu bài so sánh
a. Quy trình
Quy trình thực hiê ân kiểu bài so sánh có thể phân lâ âp theo các bước sau. Đề bao
giờ cũng đưa ra các đối tượng để so sánh: hai đoạn thơ, hai đoạn văn, hai nhân vâ ât,
hai chi tiết…
Trước hết, cần phân lâ âp đối tượng thành nhiều bình diê ân để đối sánh. Bước này
nhằm phát huy trí tuê â sắc sảo và mĩ cảm của học sinh. Trên đại thể, hai bình diê ân
bao trùm là nô âi dung tư tưởng và hình thức nghê â thuâ ât. Tùy từng đối tượng được
yêu cầu so sánh mà có cách chia tách ra các khía cạnh nhỏ khác nhau từ ngôn từ,
hình ảnh, chi tiết, kết cấu, âm hưởng, giọng điê âu đến đề tài, chủ đề, tư tưởng và
cảm hứng nghê â thuâ ât.
Sau đó cần nhâ ân xét, đối chiếu để chỉ ra điểm giống và khác nhau. Bước này đòi
hỏi học sinh cần có sự quan sát tinh tường, phát hiê ân chính xác và diễn đạt thâ ât
nổi bâ ât, rõ nét, tránh nói chung chung, mơ hồ. Ví dụ, so sánh hai câu thơ : Cỏ non
xanh tâ ân chân trời của Nguyễn Du và Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời của Hàn Mă âc
Tử ta thấy cả hai đều biểu đạt sức xuân tràn ngâ âp cả không gian đất trời song cái
Nguyễn Du chú ý là sắc cỏ, xuân phát ra từ sắc màu còn Hàn Mă âc Tử là sóng cỏ,
xuân dâ yâ lên từ những rung đô âng của sóng. Sự vâ ân đô âng trong thơ Nguyễn Du
lan theo bề rô âng còn với Hàn thi sĩ thì vươn đến chiều cao, bầu không gian tràn
ngâ âp rung đô âng như cỏ.
Cuối cùng là đánh giá, nhâ ân xét và lí giải nguyên nhân của sự giống và khác nhau
đó. Bước này đòi hỏi những tiêu chuẩn chắc chắn và bản lĩnh vững vàng cùng
những hiểu biết sâu sắc ngoài văn bản để tránh những suy diễn tùy tiê ân, chủ quan,
thiếu sức thuyết phục. Chẳng hạn, trở lại với Vợ nhă ât của Kim Lân và Mô ât đám
cưới của Nam Cao ở trên sự khác biê ât xuất phát từ hai phương pháp sáng tác và
hai phong cách nghê â thuâ ât khác nhau. Nam Cao với văn học hiê ân thực phê phán
thường miêu tả hiê ân trạng đời sống đang đi xuống, bế tắc và èo uô ât và phong cách
đă âc trưng của Nam Cao là sự lạnh lùng mà đau xót. Với Kim Lân, văn học hiê ân
thực xã hô âi chủ nghĩa thường mô tả trạng thái đời sống đi lên, hướng về ngày mai
tươi sáng. Hơn nữa, văn phong của cây bút mô ât lòng đi về với đất, với thuần hâ âu
nguyên thủy của cuô âc sống nông thôn này gắn bó với giọng đôn hâ âu, hóm hỉnh và
đầy lạc quan.
b. Cách thức
Cách trình bày kiểu bài so sánh thông thường có hai cách là nối tiếp và song song.
Nối tiếp là lần lượt phân tích từng đối tượng sau đó chỉ ra cái giống và khác nhau .
Cách này dễ làm nhưng khó hay, nhiều khi trùng lă âp ý và sắc thái so sánh bị chìm.
Tuy nhiên, vì yêu cầu cho đại trà nên đáp án đại học những năm qua thường gợi ý
theo cách này.
Thứ hai là song song tức là song hành so sánh trên mọi bình diê ân của hai đối
tượng. Cách này hay nhưng khó, đòi hỏi khả năng tư duy chă ât chẽ, lô gic, sự tinh
nhạy trong phát hiê ân vấn đề.
Ví dụ, khi so sánh hai bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi và trích đoạn Đất
nước của Nguyễn Khoa Điềm, người làm cao tay có thể song song so sánh trên các
bình diê ân: Xuất xứ- cảm hứng- hình tượng- chất liê âu và giọng điê âu trữ tình.
Về xuất xứ, Đất nước của Nguyễn Đình Thi là mô ât chỉnh thể sáng tạo tổng hợp từ
hai bài thơ trước đó và nó có dáng dấp như mô ât trường ca thu nhỏ. Trong khi đó,
Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm là mô ât mảnh nhỏ vỡ ra từ chỉnh thể trường ca
lớn
Về cảm hứng, Nguyễn Đình Thi gửi gắm những suy tư, tâm niê âm về sức sống
diê âu kì của dân tô âc Viê ât Nam anh hùng còn Nguyễn Khoa Điềm nghiêng về cắt
nghĩa lí giải các câu hỏi: Đất nước có tự bao giờ? Đất nước là gì? Mối quan hê â
giữa con người và đất nước?...
Về hình tượng, Nguyễn Đình Thi khắc họa bằng hai hê â thống hình ảnh chính của
giang sơn tổ quốc là đất và trời thì Nguyễn Khoa Điềm hướng đến đất và nước
như hai yếu tố khởi thủy hợp lại. Với Nguyễn Đình Thi, nhân dân là những con
người trong mô ât cuô âc hành trình trừơng chinh máu lửa vươn vai như những thiên
thần còn với Nguyễn Khoa Điềm là đám đông vô danh bốn nghìn thế hê â, hòa nhâ âp
vào nhau để hóa thành đất nước trong hình tượng mang màu sắc huyền thoại.
Về chất liê âu, Nguyễn Đình Thi sử dụng chất liê âu thi ca từ chi tiết đời sống bằng
vốn sống và ấn tượng chủ quan trực tiếp còn Nguyễn Khoa Điềm nhào nă ân tài tình
vốn văn hóa dân gian trong ca dao, truyền thuyết, cổ tích…
Về giọng điê âu, Nguyễn Đình Thi như đang phát ngôn giữa quảng đại quần chúng
nên bài thơ có giọng tráng ca hào sảng dõng dạc. Với Nguyễn Khoa Điềm, đó là
giọng trữ tình của mô ât chàng trai trong lời tâm tình với người yêu, thân mâ ât mà
nghiêm trang, cảm xúc đan cài suy tư, triết lí làm nên giọng triết luâ ân tâm tình.
Các loại đề so sánh văn học thường gặp
Bằng sự trải nghiệm của bản thân và dựa vào tổng kết các đề thi của những năm gần đây, cô Lê Thị
Quỳnh Sen đã thống kê và khái quát lại thành những cấp b ââc đề so sánh văn học cơ bản.
Đó là: So sánh hai chi tiết trong hai tác phẩm văn học; so sánh hai đoạn thơ; so sánh hai đoạn văn; so
sánh hai nhân vâât;
So sánh cách kết thúc hai tác phẩm; so sánh phong cách tác giả; so sánh, đánh giá hai lời nhận định về
một tác phẩm.
Cách làm bài dạng đề so sánh văn học
Đứng trước một đề văn thường có rất nhiều cách triển khai, giải quyết vấn đề, song đối với kiểu đề so
sánh văn học dù là ở dạng so sánh hai chi tiết, hai đoạn thơ, hai đoạnh văn, hay hai nhân vật .... phương
pháp làm bài văn dạng này thông thường có hai cách:
Nối tiếp: Lần lượt phân tích hai văn bản rồi chỉ ra điểm giống và khác nhau
Song song: Tìm ra các luận điểm giống và khác nhau rồi lần lượt phân tích từng luận điểm kết hợp với
việc lấy song song dẫn chứng của cả hai văn bản minh họa.
Cách 1: Phân tích theo kiểu nối tiếp
Đây là cách làm bài phổ biến của học sinh khi tiếp cận với dạng đề này, cũng là cách mà Bộ giáo dục và
đào tạo định hướng trong đáp án đề thi đại học - cao đẳng.
Bước một lần lượt phân tích từng đối tượng so sánh cả về phương diện nội dung và nghệ thuật, sau đó
chỉ ra điểm giống và khác nhau.
Cách này học sinh dễ dàng triển khai các luận điểm trong bài viết. Bài viết rõ ràng, không rối kiến thức
nhưng cũng có cái khó là đến phần nhận xét điểm giống và khác nhau học sinh không thành thạo kĩ năng,
nắm chắc kiến thức sẽ viết lặp lại những gì đã phân tích ở trên hoặc suy diễn một cách tùy tiện.
Mô hình khái quát của kiểu bài này như sau:
-Mở bài: Dẫn dắt (mở bài trực tiếp không cần bước này); giới thiệu khái quát về các đối tượng so sánh
-Thân bài: Làm rõ đối tượng so sánh thứ 1 (bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng
chủ yếu là thao tác lập luận phân tích);
Làm rõ đối tượng so sánh thứ 2 (bước này vận kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác
lập luận phân tích)
So sánh: Nhận xét nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả các bình diện như chủ đề, nội
dung hình thức nghệ thuật...(bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao
tác lập luận phân tích và thao tác lập luận so sánh)
Lý giải sự khác biệt: Thực hiện thao tác này cần dựa vào các bình diện: bối cảnh xã hội, văn hóa mà từng
đối tượng tồn tại; phong cách nhà văn; đặc trưng thi pháp của thời kì văn học…(bước này vận nhiều thao
tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích)
-Kết bài: Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu; có thể nêu những cảm nghĩ của bản
thân.
Cách 2: Phân tích song song
Cách này hay nhưng khó, đòi hỏi khả năng tư duy ch ăât chẽ, lôgic, sự tinh nhạy trong phát hi êân vấn đề
học sinh mới tìm được luận diểm của bài viết và lựa chọn những dẫn chứng tiêu biểu phù hợp của cả hai
văn bản để chứng minh cho luận điểm đó.
Ví dụ, khi so sánh hai bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi và trích đoạn Đất nước của Nguyễn Khoa
Điềm. Ứng dụng cách viết này học sinh không phân tích lần lượt từng tác phẩm như cách một mà phân
tích so sánh song song trên các bình di êân: Xuất xứ - cảm hứng - hình tượng - chất li êâu và giọng đi êâu trữ
tình.
Mô hình khái quát của kiểu bài này như sau:
-Mở bài: Dẫn dắt (mở bài trực tiếp không cần bước này); giới thiệu khái quát về các đối tượng so sánh
-Thân bài: Điểm giống nhau (đưa ra luận điểm, dẫn chứng); điểm khác nhau (đưa ra luận điểm, dẫn
chứng).
-Kết bài: Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu; có thể nêu những cảm nghĩ của bản
thân.
Cô Lê Thị Quỳnh Sen lưu ý: Trong thực tế không phải đề nào chúng ta cũng có thể áp dụng theo đúng
khuôn mẫu cách làm như đã trình bày ở trên. Phải tùy thuộc vào cách hỏi trong mỗi đề cụ thể mà áp
dụng theo cách nào và áp dụng sao cho linh hoạt, phù hợp.
Cũng có khi vận dụng đầy đủ các ý của phần thân bài, cũng có khi phải cắt bỏ một phần cho hợp với yêu
cầu trọng tâm của đề, hay dụng ý của người viết.
==
Các dạng văn so sánh:
1. So sánh 2 đoạn thơ:
+ Giới thiệu 2 tác giả, 2 tác phẩm, cảm nhận nội dung và nghệ thuật của từng khổ.
+ So sánh sự tương đồng và khác biết giữa 2 tác giả và tác phẩm này.
=> Kết luận chung.
2. So sánh nhân vật:
Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm, nhân vật và cảm nhận về nhân vật đó để rút ra sự tương đồng và
khác biệt bao gồm cả nội dung và nghệ thuật.
3. So sánh 2 chi tiết
Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm, ý nghĩa nội dung của chi tiết. => rút ra sự tương đồng và khác biệt.
4. Cảm nhận về 2 đoạn văn:
Nêu tác giả, tác phẩm, nội dung của đoạn văn, nghệ thuật của từng đoạn văn để tìm ra sự tương đồng và
khác biệt giữa 2 đoạn văn.
Một số bài ví dụ hay
Đề: Hãy phân tích những nét khác biệt và tương đồng của Sông Hương trong tác phẩm Ai đã đặt tên cho
dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường và Sông Đà trong tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn
Tuân.
Tương đồng:
- Cả 2 nhà văn đều khắc họa hình tượng của một dòng sông ở một miền đất, một xử sở để từ đó khắc
họa những giá trị văn hóa, lịch sử, tâm hồn quê hương đất nước, con người.
- Cả 2 con sông đều mang ý nghĩa tượng trưng, đều là hình tượng cho một miền quê xứ sở.
- Cả 2 đều khắc họa nhưng một sinh thể về địa lí, văn hóa, lịch sử với những nét tương phản dữ dằn:
hoang dại và thơ mộng trữ tình. Và cả 2 con sông đều mang vẻ đẹp kì vĩ đậm chất thơ.
Khác biệt:
- Ở sông Đà:
+ Nguyễn Tuân chú ý đến vẻ dẹp khác thường dữ dằn của Sông Đà vì thế tác giả tập trung miêu tả thạch
trận thác nước sóng dữ trong cuộc giao chiến với con người. Hình tượng con sông: nhà văn đã làm nổi
bật được hình tượng ông lái đò, vừa mang phẩm chất chiếc sĩ vừa là người nghệ sĩ trong cuộc giao chiến
với thiên nhiên.
+ Cuộc chiến trên Sông Đà được miêu tả đầy kịch tính, gấp gáp, dữ dội với nhịp điệu nhanh, mạnh.
+ Vẻ đẹp Sông Đà gắn liền với lịch sử, tâm hồn, văn hóa của miền đất Tây Bắc hoang dại, dữ dội, nguyên
sơ.
- Ở sông Hương:
+ Hoàng Phủ Ngọc Tường chú ý đến quá trình biến đổi trong vẻ đẹp sông Hương từ 2 chiều không gian.
Thượng nguồn về hạ lưu, thời gian từ dựng nước đến giữ nước hiện tại. Tác giả tập trung khắc họa tâm
hồn Huế: tài tử, đa tình, phòng túng mà trầm lắng qua vẻ đẹp sông Hương ở chốn cố đô.
+ Cái bất ngờ của sông Hương không nằm ở sóng gềnh, thác nước như sông Đà mà nằm ở sự pha trộn
giữa đời thường binh dị và cái huyền ảo lắng sâu khó nắm bắt như tâm hồn của một mỹ nhân nơi kinh
thành huế.
=> Từ 2 hình tượng mà ta nhận ra nét tương đồng và khác biệt trong phong cách nghệ thuật của 2 tác
giả: cùng chất tài hoa, tài tử phóng túng nhưng ở Nguyễn Tuân nổi bật nét uyên bát, ưa chuộng cái khác
thường dữ dội. Còn ở Hoàng Phủ Ngọc Tường là yếu tố trữ tình, êm dịu, lắng sâu mà ta có thể cảm nhận
được.
Đề 2: Phân tích và so sánh tinh thần nhân đạo trong tác phẩm Vợ Nhặt của Kim Lân và Vợ Chồng A Phủ
của Tô Hoài.
Khi viết bất cứ tác phẩm nào nhà văn cũng gửi vào đó suy nghĩ của mình. Với Vợ Nhặt và Vợ Chồng A
Phủ thì tinh thần nhân đạo là nổi bật và xuyên suốt trong tác phẩm. Họ đều viết về hoàn cảnh của người
nhân dân trước cách mạng tháng 8, nhưng mỗi tác phẩm lại hướng về một chủ đề riêng. Đó đó, cũng
bộc lộ những nét riêng về tinh thần nhân đạo.
Nếu như trong tác phẩm Vợ Nhặt người lao động đã rơi vào tình trạng chết chóc thì trong tác phẩm Vợ
Chồng A Phủ nhà văn Tô Hoài đưa người đọc về với cảnh sống nặng nề, bị ràn buộc, đọa đày cả thể xác
lẫn tinh thần với những thế lực thần quyền và cường quyề của bọn chúa đất miền núi. Cụ thể Mị và A
Phủ chỉ vì những phong tục cổ hủ, lạc hậu mà cha Mị phải vay nợ nhà Thống lí Pá Tra từ đó Mị đã hoàn
toàn mất quyền làm người. Thế lực cường quyền và thần quyền miền núi đã biến Mị từ một cô gái miền
núi trẻ trung giỏi giang trở thành một phụ nữ lúc nào mặt cũng cúi và buồn rười rượi. Viết về điều này
nhà văn Tô Hoài một mặt cảm thông chia sẽ với số phận khổ đau của người miền núi, lên án thế lực
phong kiến miền núi hết sức tàn bạo. Chúng không chỉ đày đọa con người ta về mặt thể xác mà còn giết
chết dần, chết mòn đời sống tinh thần của nhân dân lao động nghèo. Chúng không chỉ cướp mà còn dẫm
đạp lên quyền sống vốn có của con người.
Cũng viết về nạn nhân của hoàn cảnh xã hội nước ta nhưng Kim Lân lại mở rộng lòng mình ra đối với
những con người lay lắt trong cái đói cái nghèo mà nguyên nhân là do bọn Pháp cấu kết với phát xít Nhật
đàn áp, vơ vét. Vì đói mà người đàn bà đánh mất sĩ diện, vứt bỏ lòng tự trọng chạy theo người đàn ông
xa lạ thế mà với chị ta chỉ thấy đáng thương chứ không đáng trách. Rõ ràng, nhà văn Kim Lân đã cảm
thông, chia sẽ với những hoàn cảnh đáng thương này. Cùng từ những hoàn cảnh đó mà con người trở
nên gần gũi nhau hơn, cưu mang, đùm bọc nhau trong lúc đói. Nhà văn đã cảm thông chia sẽ, tố cáo tội
ác của bọn thực dân phát xít đẩy nhân dân vào tình cảnh bần cùng.
Thế nhưng tinh thần nhân đạo của hai tác phẩm không dừng lại ở đó mà hai nhà văn giúp người đọc
phát hiện những phẩm chất tốt đẹp của họ ở bước đường cùng và mở ra cho con đường để cho họ đi
tới.
Trong đề thi Đại học, có những năm đề thi được ra với câu 5 điểm đơn giản với việc phân tích trọng tâm
một tác phẩm, tuy nhiên cũng có nhiều năm, hai tác phẩm được đặt cạnh nhau để đưa ra một số tiêu chí
so sánh. Với những đề thi như thế này, sĩ tử nên có sự chuẩn bị thật tốt trong quá trình ôn luyện. Đề thi
dưới dạng so sánh hai tác phẩm thường sẽ liên hệ tới sự tương đồng hoặc đối lập. Do đó trong quá trình
học, khi được làm quen với một tác phẩm, bạn nên đánh dấu lại những đoạn có thể so sánh được với
các tác phẩm khác. Đó có thể là những đoạn trích dẫn quan trọng, đoạn mở đầu hoặc kết thúc, một hình
ảnh “then chốt” của cả bài. Ví dụ như hình ảnh “cái lò gạch cũ bỏ không” ở đoạn cuối của “Chí Phèo”
(Nam Cao) có thể được so sánh với hình ảnh “đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” trong “Vợ nhặt”
(Kim Lân),…
Đặt vào mối quan hệ của tác giả
Những tác giả văn xuôi lớn với phần tiểu sử được viết thành bài riêng thường là những tác giả có hai đến
ba tác phẩm được đưa vào chương trình chuẩn trên lớp. Do các tác phẩm cùng một tác giả đều chịu một
phong cách nên chúng có thể được đặt cạnh nhau để so sánh và rút ra sự chuyển biến trong nhận thức
của tác giả, hay nét chung nhất về nội dung và nghệ thuật mà tác giả sử dụng trong các bài,… Đây cũng là
một điểm mà các bạn nên lưu ý khi ôn thi, do vậy, học và ghi nhớ phong cách tác giả là một điều thiết
yếu để áp dụng so sánh các tác phẩm, không chỉ cùng tác giả mà còn tác giả này với tác giả khác.
Đặt vào cùng thời kì sáng tác
Hai tác phẩm văn học cùng thời kì sáng tác với nhau sẽ dễ dàng đặt cạnh nhau để so sánh. Theo chương
trình học của sách giáo khoa, các tác phẩm văn xuôi hoặc thơ được sắp xếp theo từng thời kì, từng giai
đoạn lịch sử. Qua mỗi giai đoạn khác nhau, văn học Việt Nam lại mang một đặc điểm riêng biệt. Vì thế,
các tác phẩm dù có đa dạng do phong cách của tác giả, ít nhiều cũng sẽ mang điểm chung, và những
điểm chung này sẽ có nhiều khả năng được sử dụng để xây dựng thành các đề bài. Trong quá trình học,
bạn có thể sắp xếp chuyên đề theo tác giả, hoặc theo thời kì lịch sử để tiện cho việc so sánh văn học.
Tuân theo nguyên tắc trình bày
Nhiều sĩ tử khá lúng túng trong việc tìm ra cách trình bày dạng văn so sánh, vì việc phân tích không chỉ
một mà đến hai tác phẩm, nếu như không được đưa vào bài một cách khoa học sẽ rất dễ gây ra sự rối
hoặc loãng bài viết. Dàn ý khái quát phần thân bài của dạng bài so sánh thường là:
• Phân tích, làm rõ đặc điểm đề bài yêu cầu của lần lượt hai tác phẩm.
• So sánh, đưa ra nét tương đồng hay khác biệt giữa hai tác phẩm về hình thức và nội dung.
• Lý giải sự tương đồng hay khác biệt đó.
Trong quá trình viết bài, sĩ tử có thể có sự sáng tạo cho riêng mình để nâng cao chất lượng bài viết. Tuy
nhiên, đối với những bạn còn yếu về môn Văn, thì việc tuân theo nguyên tắc trình bày sẽ đảm bảo cho
bạn sự mạch lạc trong cấu trúc bài, từ đó bài viết sẽ được đánh giá cao hơn so với những bài có nhiều ý
nhưng lại có cấu trúc không rõ ràng.
Tóm lại, dạng đề so sánh giữa hai tác phẩm thực sự khó hơn các dạng đề phân tích bình thường, và tùy
theo yêu cầu đề bài, các sĩ tử nên cố gắng viết làm sao không chỉ để hay, mà quan trọng hơn phải đúng
và đầy đủ. Đó cũng là yêu cầu của một đề Văn Đại học để đạt được điểm số một cách chắc chắn.
Mong rằng bài viết này sẽ giúp ích nhiều cho các bạn trong quá trình ôn thi Đại học môn Văn. Chúc các
bạn thành công!
Thứ nhất, so sánh văn học là "một biện pháp tu từ để tạo hình ảnh cho câu văn". Thứ hai, nó được
xem như một thao tác lập luận như : phân tích, bác bỏ, bình luận đã được đưa vào chương trình giáo
khoa ngữ văn lớp 11. Thứ ba, nó được xem như "một phương pháp, một cách thức trình bày khi viết bài
nghị luận, tức là như một kiểu bài nghị luận cạnh các kiểu bài nghị luận về một đoạn trích, tác phẩm
thơ ; nghị luận về một đoạn trích, tác phẩm văn xuôi… ở sách giáo khoa Ngữ văn lớp 12. Tuy nhiên, so
sánh văn học như một kiểu bài nghị luận văn học chưa được cụ thể bằng một bài học độc lập. Vì vậy, việc
xác lập nội hàm khái niệm như kiểu bài, mục đích, yêu cầu, đến cách thức làm bài cho kiểu bài này thực
sự rất cần thiết.
Kiểu bài so sánh văn học yêu cầu thực hiện cách thức so sánh trên nhiều bình diện : đề tài, nhân vật,
tình huống, cốt truyện, cái tôi trữ tình, chi tiết nghệ thuật, nghệ thuật trần thuật, phong cách nghệ
thuật… Quá trình so sánh có thể chỉ diễn ra ở những tác phẩm của các tác giả cùng hoặc không cùng một
thời đại, giữa các tác phẩm của những trào lưu, trường phái khác nhau của một nền văn học. Mục đích
cuối cùng của kiểu bài này là yêu cầu học sinh chỉ ra được chỗ giống và khác nhau giữa hai tác phẩm, hai
tác giả, từ đó thấy được những mặt kế thừa, những điểm cách tân của từng tác giả, từng tác phẩm ; thấy
được vẻ đẹp riêng của từng tác phẩm ; sự đa dạng muôn màu của phong cách nhà văn. Không dừng lại ở
đó, kiểu bài này còn góp phần hình thành kĩ năng lí giải nguyên nhân của sự khác nhau giữa các hiện
tượng văn học – một năng lực rất cần thiết góp phần tránh khuynh hướng "bình tán", khuôn sáo trong
các bài văn của học sinh hiện nay. Lẽ hiển nhiên, đối với đối tượng học sinh trung học phổ thông, các yêu
cầu về năng lực lí giải cần phải hợp lí, vừa sức. Nghĩa là các tiêu chí so sánh cần có mức độ khó vừa phải,
khả năng lí giải sự giống nhau, khác nhau cũng cần phải tính toán hợp lí bằng những đơn vị kiến thức cụ
thể phù hợp với năng lực và nhận thức của các em. Chuẩn kiến thức kĩ năng trong từng bài, từng cấp học
sẽ là căn cứ kiểm định vấn đề này.
III.2. Dàn ý chung kiểu bài nghị luận so sánh:
Trong thời gian qua, kiểu bài này tôi đã lồng ghép trong các tiết ôn tập và chữa bài kiểm tra, áp dụng
cho học sinh khối 12 ở trường THPT Hàm Rồng. Về cơ bản, học sinh đã vận dụng một cách hiệu quả trong
việc giải quyết các đề bài yêu cầu so sánh trong bài làm văn nghị luận văn học, đồng thời tiến hành rèn
luyện cho đối tượng là học sinh tham gia đội tuyển học sinh giỏi, học sinh thi Đại học. Việc ứng dụng
phương pháp này cũng được đưa ra thảo luận ở tổ chuyên môn để cùng thống nhất trong việc giảng dạy.
Sau đây là một số định hướng cơ bản cho kiểu bài nghị luận so sánh văn học.
DÀN Ý KHÁI QUÁT
Vì là một bài nghị luận nên bố cục một bài văn so sánh văn học cũng có ba phần như một bài nghị
luận thông thường. Tuy nhiên chức năng cụ thể của từng phần lại có những điểm khác biệt so với kiểu
bài nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn bản thơ, đoạn trích văn bản văn xuôi, hay kiểu bài
cảm nhận về một vấn đề văn học khác. Dàn ý khái quát của kiểu bài này như sau :
MỞ BÀI
- Dẫn dắt (mở bài trực tiếp không cần bước này)
- Giới thiệu khái quát về đối tượng so sánh.
THÂN BÀI
1. Làm rõ đối tượng thứ nhất (bước này cần vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ
yếu là thao tác lập luận phân tích).
2. Làm rõ đối tượng thứ hai ( bước này thực hiện các thao tác như phần trên)
3. So sánh : Nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả hai bình diện nội dung và hình
thức nghệ thuật (bước này cần vận dụng nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận
phân tích và thao tác lập luận so sánh).
4. Lí giải sự khác biệt : Thực hiện thao tác này cần dựa vào ba tiêu chí cơ bản sau:
- Bối cảnh xã hội, lịch sử, văn hóa – môi trường tồn tại của đối tượng nghị luận.
- Tư tưởng, phong cách của nhà văn.
- Đặc trưng thi pháp của thời kì văn học
Bước này cần vận dụng nhiều thao tác lập luận phân tích nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân
tích.
KẾT BÀI
- Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu
- Nêu những cảm nghĩ của bản thân
III. Theo chương trình chuẩn (5.0 điểm)
Cảm nhận của anh/chị về những vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người vợ nhặt (Vợ nhặt – Kim Lân) và
nhân vật người đàn bà hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu).
Mục đích và yêu cầu của kiểu bài này là người viết trên cơ sở cảm nhận được cái hay về nội dung và
vẻ đẹp về nghệ thuật của hai đoạn văn, so sánh để thấy được sự khác nhau của hai đoạn văn đó trên cả
bình diện nội dung và nghệ thuật để từ đó thấy được sự giống và khác nhau trong phong cách nghệ
thuật cũng như sự đóng góp của hai nhà văn đó cho nền văn học nước nhà. Cụ thể
MỞ BÀI
- Xem thêm -