Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hôn nhân trong sử thi tây nguyên (qua khảo sát một số tác phẩm sử thi ê đê, ba n...

Tài liệu Hôn nhân trong sử thi tây nguyên (qua khảo sát một số tác phẩm sử thi ê đê, ba na, mơ nông)

.PDF
112
1505
72

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------------------- VŨ HOÀNG HIẾU HÔN NHÂN TRONG SỬ THI TÂY NGUYÊN (Qua khảo sát một số tác phẩm sử thi Ê Đê, Ba Na, Mơ Nông) LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số : 60 22 34 Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Nguyễn Xuân Kính HÀ NỘI - 2008 MỤC LỤC Mở đầu 1. Lí do chọn đề tài 2. Lịch sử vấn đề 3. Mục đích nghiên cứu 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5. Phương pháp nghiên cứu 6. Bố cục đề tài Chương 1: Tổng quan về thể loại sử thi và vấn đề hôn nhân 1.1. Sử thi và sử thi Tây Nguyên 1.1.1. Sử thi 1.1.2. Sử thi Tây Nguyên 1.2. Hôn nhân và hôn nhân trong sử thi Tây Nguyên 1.2.1. Hôn nhân 1.2.2. Hôn nhân ở các dân tộc Tây Nguyên và hôn nhân trong sử thi Tây Nguyên Chương 2: Những đặc điểm của hôn nhân mẫu hệ và những báo hiệu của hôn nhân phụ hệ được phản ánh trong sử thi Tây Nguyên 2.1. Những đặc điểm của hôn nhân mẫu hệ 2.1.1. Sự chủ động của người phụ nữ trong hôn nhân 2.1.2. Hình thái hôn nhân cư trú bên vợ 2.1.3. Uy quyền của người phụ nữ trong đời sống hôn nhân gia đình 2.1.4. Chuê nuê - một tập tục độc đáo trong văn hoá mẫu hệ Ê Đê 2.2. Những báo hiệu của hôn nhân phụ hệ 2.2.1. Sự chủ động của người đàn ông trong hôn nhân 2.2.2. Những dấu hiệu của hôn nhân đa thê 2.2.3. Hình thái hôn nhân cư trú không hoàn toàn theo bên vợ 2.3. Hôn nhân trong sử thi Tây Nguyên - nấc thang quá độ từ 6 6 7 10 11 12 13 14 14 14 20 24 24 30 34 34 35 39 41 44 46 46 49 53 55 hôn nhân mẫu hệ đến hôn nhân phụ hệ Chương 3: Những cuộc hôn nhân mang tính anh hùng ca và mối quan hệ chiến tranh - hôn nhân được phản ánh trong sử 60 thi Tây Nguyên 60 3.1. Những cuộc hôn nhân mang tính anh hùng ca 3.1.1. Anh hùng cướp người đẹp về làm vợ 61 3.1.2. Anh hùng cứu người đẹp và lấy làm vợ 65 3.1.3. Anh hùng chiến đấu với kẻ thù để giữ vợ 68 3.1.4. Anh hùng giành lại người vợ bị cướp 69 3.2. Mối quan hệ chiến tranh - hôn nhân được phản ánh trong 74 sử thi Tây Nguyên 3.2.1. Hôn nhân - cội nguồn của chiến tranh 74 3.2.2. Chiến tranh - phương tiện, con đường dẫn đến hôn nhân 77 Chương 4: Vấn đề hôn nhân đối ngẫu và bức tranh xã hội 82 Tây Nguyên trong ánh hồi quang của thời đại sử thi 82 4.1. Hôn nhân trong sử thi Tây Nguyên: hôn nhân đối ngẫu 4.1.1. Sự có mặt và dấu ấn của tình yêu trong hôn nhân 82 4.1.2. Sự sở hữu và tính ghen tuông 85 4.1.3. Hiện tượng hôn nhân cướp đoạt 89 4.1.4. Sự tính toán lợi - hại và hiện tượng mua bán trong hôn 90 nhân 4.2. Bức tranh xã hội Tây Nguyên trong ánh hồi quang của 95 thời đại sử thi 101 Kết luận 104 Tài liệu tham khảo MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Giở trang sách đầu tiên để bước vào thế giới của Ramayana và Mahabharata, người đọc sẽ bắt gặp một câu nói nổi tiếng của người Ấn - mà cùng với thời gian - đã được "đóng đinh" như một chân lí: "Cái gì không có ở trong đó thì cũng không có ở bất kì nơi nào trên đất Ấn Độ." Ẩn chứa trong câu nói ấy chính là niềm tự hào của người Ấn về những kiệt tác của họ. Bởi lẽ, không phải bất cứ dân tộc nào trên thế giới cũng có sử thi và còn lưu giữ được những tác phẩm sử thi. Bởi lẽ, sử thi là tài sản văn hóa, tinh thần vô giá của nhân loại, là bức tượng đài lịch sử loài người, là ánh hồi quang của thời đại vĩnh viễn "một đi không trở lại"… Vì thế, người Việt Nam có quyền tự hào và phải biết tự hào khi sở hữu một kho tàng sử thi đồ sộ. Đóng góp phần lớn vào gia tài ấy là những áng sử thi Tây Nguyên, mà cho đến nay con số sưu tầm chưa đầy đủ đã lên tới hàng trăm tác phẩm. Sử thi Tây Nguyên chính là tấm gương phản chiếu cuộc sống của con người Tây Nguyên trong một thời kì lịch sử, một giai đoạn văn hóa nhất định với tất cả những bộn bề của đời sống; với tất cả những biến cố, chuyển mình của lịch sử; với tất cả những tình cảm, ước mơ, khát vọng của cộng đồng. Sẽ không quá lời khi cho rằng, sử thi Tây Nguyên có một vị trí quan trọng không chỉ đối với đồng bào Tây Nguyên mà còn đối với cả nền văn hóa dân tộc Việt Nam; không chỉ có giá trị đối với quá khứ mà còn có ý nghĩa sâu sắc trong việc giải quyết mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa của thời đại ngày nay. Bên cạnh chiến tranh, hôn nhân cũng là một đề tài lớn, một đề tài quan trọng của sử thi Tây Nguyên. Khảo sát về hôn nhân trong sử thi Tây 6 Nguyên chính là chìa khóa để chúng ta bước vào thế giới của sử thi, bước vào cuộc sống của đồng bào Tây Nguyên, để tìm về với cội nguồn văn hóa Tây Nguyên. Có thể nói, đây là một vấn đề thú vị, nhưng cho đến nay vẫn chưa được quan tâm một cách thỏa đáng. Chúng tôi lựa chọn đề tài Hôn nhân trong sử thi Tây Nguyên vì tính cấp thiết và sự hấp dẫn nội tại của nó. 2. Lịch sử vấn đề Sử thi Tây Nguyên là một kho báu, nhưng trong một thời gian dài, kho báu ấy đã tồn tại âm thầm trong sự thờ ơ của người đời. Người mở đường cho công việc sưu tầm, giới thiệu sử thi Tây Nguyên là Leopold Sabatier, với sự kiện lần đầu tiên nhà nghiên cứu người Pháp công bố sử thi Đam Săn (Dăm Săn) vào năm 1927. Kể từ đó, nhiều công trình sưu tầm sử thi Tây Nguyên do người Việt Nam thực hiện đã có mặt: Trường ca Tây Nguyên, Trường ca Xing Chi Ôn, Cây nêu thần, trường ca Mnông, Giông nghèo tám vợ, Tre vắt ghen ghét Giông, Dyông Dư, Bia Brâu,… Từ năm 2001, Dự án “Điều tra, sưu tầm, bảo quản, biên dịch và xuất bản kho tàng sử thi Tây Nguyên” được triển khai đã kéo dài danh sách các tác phẩm sử thi Tây Nguyên. Hơn nửa thế kỉ sau khi kiệt tác Dăm Săn được giới thiệu, những công trình nghiên cứu đích thực về sử thi Tây Nguyên mới xuất hiện. Trước hết, phải kể đến tác giả Võ Quang Nhơn (1981) với luận án phó tiến sĩ Về thể loại sử thi anh hùng của các dân tộc Tây Nguyên. Sự quan tâm của tác giả này đối với sử thi Tây Nguyên còn được thể hiện trong công trình Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam (1983). Một năm sau khi PGS. Võ Quang Nhơn qua đời, năm 1996, Nhà xuất bản Giáo dục đã cho in cuốn sách Sử thi anh hùng Tây Nguyên - nội dung cuốn sách dựa trên phần lớn nội dung luận án phó tiến sĩ của ông. 7 Năm 1989, luận án tiến sĩ Những đặc điểm cơ bản của sử thi khan ở Việt Nam của Phan Đăng Nhật được bảo vệ. Năm 1991, nội dung bản luận án được tóm tắt và soạn thành sách Sử thi Ê Đê. Tác giả này còn có hai công trình quan trọng khác là Vùng sử thi Tây Nguyên (1999) và Nghiên cứu sử thi Việt Nam (2001). Năm 2006, Buôn Krông Thị Tuyết Nhung - một người con của Tây Nguyên - đã hoàn thành luận án tiến sĩ ngữ văn, đề tài Văn hoá mẫu hệ trong sử thi Ê Đê. Ngoài ra, không thể không kể đến những báo cáo khoa học có giá trị khác như các bài viết của Đinh Gia Khánh, Phan Đăng Nhật, N.I. Niculin, Tô Ngọc Thanh, Ngô Đức Thịnh, Nguyễn Xuân Kính,… được tập hợp trong cuốn sách Sử thi Tây Nguyên (1997). Đây là kết quả của hội thảo "Sử thi Tây Nguyên" do Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (nay là Viện Khoa học xã hội Việt Nam) và Uỷ ban nhân dân tỉnh Đăk Lăk phối hợp tổ chức vào tháng 5 năm 1997. Bên cạnh đó, cũng phải nhắc đến một số bài viết đáng chú ý đăng trên các tạp chí Văn hóa dân gian, Nguồn sáng dân gian như các bài viết của Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Phạm Nhân Thành… và những bài giới thiệu các sử thi đã được sưu tầm thuộc Dự án “Điều tra, sưu tầm, bảo quản, biên dịch và xuất bản kho tàng sử thi Tây Nguyên” của những người biên tập văn học như Trần Thị An, Nguyễn Thị Huế, Nguyễn Xuân Kính, Đỗ Hồng Kỳ, Bùi Thiên Thai, Trần Nho Thìn, Ngô Đức Thịnh, Võ Quang Trọng… Các chuyên luận và bài viết kể trên đề cập đến nhiều vấn đề quan trọng của sử thi Tây Nguyên như môi trường hình thành, kiểu tư duy, đặc trưng về nội dung, đặc trưng về nghệ thuật, thẩm mĩ… 8 Vấn đề hôn nhân trong sử thi Tây Nguyên cũng được đề cập đến với những mức độ khác nhau trong một số công trình, báo cáo khoa học kể trên. Tác giả Võ Quang Nhơn trong công trình Sử thi anh hùng Tây Nguyên đã nhắc đến môtíp đánh cướp và giành lại người yêu giữa anh hùng với kẻ thù [61, 55]; và đưa ra một nhận xét chung về vị trí của tình yêu và hôn nhân: “Ở đây, tình yêu và hôn nhân chưa phải là công việc riêng tư của những cá nhân trong các xã hội đã phân chia giai cấp, mà ở đây tình yêu và hôn nhân là công việc chung diễn ra trong khuôn khổ của cộng đồng, thị tộc, được mọi người quan tâm giúp đỡ, xây dựng và tham gia bảo vệ nó” [tr. 56]. Bên cạnh đó, Võ Quang Nhơn cũng muốn chứng minh sự tồn tại của cuộc đấu tranh, cuộc đọ sức quyết liệt, dai dẳng giữa một bên là chế độ mẫu hệ tuy đang còn mạnh nhưng đã bắt đầu lung lay và một bên là thế lực người đàn ông, tuy có vẻ lẻ loi, nhưng tràn đầy sức mạnh tươi trẻ, đang trỗi dậy mạnh mẽ thông qua việc phân tích thái độ, hành động của Dăm Săn trong cuộc hôn nhân “nối nòi” với Hơ Nhí… Như vậy, tác giả Võ Quang Nhơn đã chỉ ra một vài khía cạnh xung quanh vấn đề hôn nhân, tuy nhiên, sự trình bày ấy chưa đủ để chúng ta hình dung ra một bức tranh tổng thể về đời sống hôn nhân được phản ánh trong sử thi Tây Nguyên. Trong các công trình của mình, tác giả Phan Đăng Nhật cũng đã phần nào đề cập đến vấn đề hôn nhân trong sử thi Tây Nguyên. Trong phần viết về “Nội dung, đề tài của sử thi Tây Nguyên” thuộc cuốn sách Vùng sử thi Tây Nguyên (1999), ông đã trình bày về vấn đề lấy vợ của người anh hùng sử thi Tây Nguyên. Đề tài ấy - theo ông - thể hiện qua ba điểm đáng chú ý: anh hùng cướp người đẹp về làm vợ, anh hùng giành lại người vợ bị cướp, anh hùng cứu người đẹp và lấy làm vợ. Viết về đề tài đánh giặc của người anh hùng, Phan Đăng Nhật đã chỉ ra ba mục đích của việc “đánh giặc” là đòi 9 vợ, trả thù và lấy vợ. Như vậy, bằng cách đó, tác giả đã cho ta thấy mối quan hệ giữa hôn nhân - chiến tranh được phản ánh trong sử thi Tây Nguyên, tuy nhiên, do đây là một công trình mang tính “đại cương” về sử thi Tây Nguyên, nên tác phẩm không đi sâu vào phân tích kĩ mối quan hệ đó. Trong luận án của mình, Buôn Krông Thị Tuyết Nhung đã dành một phần để viết về văn hoá mẫu hệ Ê Đê qua đề tài hôn nhân. Tuy nhiên, do giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài, phần viết đó chưa mang đến cho người đọc một cái nhìn bao quát về hôn nhân trong sử thi Tây Nguyên. Ngoài ra, có thể kể đến một số bài viết đề cập đến những khía cạnh khác nhau xung quanh vấn đề hôn nhân trong sử thi Tây Nguyên như: “Cuộc cầu hôn anh hùng trong sử thi Ê Đê và Mã Lai” của N. Niculin, “Chân dung chế độ mẫu hệ trong sử thi Dăm Săn” của Chu Thái Sơn trong cuốn sách Sử thi Tây Nguyên (1998); các ý kiến của các tác giả L. Sabatier, G. Condominas, Đào Tử Chí, Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn, Phan Đăng Nhật, Đỗ Hồng Kỳ về việc anh hùng Dăm Săn có chống chuê nuê hay không?... Những bài viết, những ý kiến trên là những gợi ý cho chúng tôi trong quá trình nghiên cứu đề tài này… Tóm lại, hôn nhân trong sử thi Tây Nguyên dù được đề cập đến theo những mức độ đậm nhạt khác nhau nhưng vấn đề đó vẫn là cánh cửa còn để ngỏ. Vì thế, luận văn của chúng tôi có thể được coi là nghiên cứu khoa học chuyên sâu đầu tiên về vấn đề này. 3. Mục đích nghiên cứu Làm rõ vấn đề hôn nhân trong sử thi Tây Nguyên: chứng minh hôn nhân là đề tài lớn và đáng chú ý trong sử thi Tây Nguyên, khảo sát các hình thái hôn nhân, mối quan hệ nam - nữ trong hôn nhân mẫu hệ và phụ hệ, sự tác động hai chiều giữa hôn nhân và chiến tranh trong sử thi Tây Nguyên. 10 Đặc biệt, chúng tôi muốn đi tìm lời đáp cho câu hỏi thú vị: Tại sao trong sử thi Tây Nguyên, hiện tượng đa thê và tục cướp vợ lại tồn tại ngay trong lòng xã hội mẫu hệ. Từ đó, chúng tôi muốn mang đến cho người đọc một cái nhìn bao quát về vấn đề hôn nhân trong sử thi Tây Nguyên. Qua đề tài này, chúng tôi muốn góp tiếng nói khẳng định giá trị, ý nghĩa và vai trò của sử thi trong đời sống văn hóa xã hội của đồng bào Tây Nguyên. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là sử thi Tây Nguyên. Chúng tôi đã tiến hành khảo sát sơ bộ 75 tác phẩm của bộ Kho tàng sử thi Tây Nguyên để có một cái nhìn tổng thể. Tuy nhiên, để có thể tập trung làm rõ vấn đề hôn nhân trong sử thi Tây Nguyên, chúng tôi chỉ lựa chọn khảo sát kĩ một số tác phẩm sử thi tiêu biểu của các tộc người ở Tây Nguyên (thuộc cả hai ngữ hệ Nam Đảo và Môn - Khơ Me). Những tác phẩm được lựa chọn là: - Sử thi Ê Đê: + Dăm Săn * bản 1: Nguyễn Văn Hoàn, Nguyễn Hữu Thấu, Hà Công Tài biên dịch, giới thiệu in trong sách Đam Săn sử thi Ê Đê. * bản 2: Y Nuh Niê (nghệ nhân hát kể); Đỗ Hồng Kỳ, Y Wơn Kna (sưu tầm); Y Wơn Kna (phiên âm); Y Wơn Kna, Y Jek Niê Kdăm, Y Kô Niê Kdăm (dịch sang tiếng Việt); Đỗ Hồng Kỳ (biên tập văn học) (thuộc bộ Kho tàng sử thi Tây Nguyên). + Mdrong Dăm Y Nuh Niê (nghệ nhân hát kể); Đỗ Hồng Kỳ, Y Wơn, Nguyễn Thanh Đỉnh (sưu tầm); Ama Bik (phiên âm); Y Điêng (dịch sang tiếng Việt), Đỗ Hồng Kỳ (biên tập văn học), (thuộc bộ Kho tàng sử thi Tây Nguyên) + Chàng Mơ Hiêng: Bùi Khắc Trường, Y Thi sưu tầm 11 + Dăm Tiông: Trương Bi, Kna Y Wơn sưu tầm, biên soạn - Sử thi Ba Na: + Đăm Noi: Đinh Văn Mơl kể, Phạm Thị Hà dịch + Giông đạp đổ núi đá cao ngất: A Lưu (nghệ nhân hát kể); Võ Quang Trọng (sưu tầm); A Tưr (phiên âm tiếng Ba Na); A Jar, Y Kiưch (dịch sang tiếng Việt); Võ Quang Trọng (biên tập văn học), (thuộc bộ Kho tàng sử thi Tây Nguyên) + Giông cứu nàng Rang Hu: A Hon (nghệ nhân hát kể); Phạm Cao Đạt, Võ Quang Trọng (sưu tầm); A Jar (phiên âm và dịch sang tiếng Việt); Võ Quang Trọng (biên tập văn học), (thuộc bộ Kho tàng sử thi Tây Nguyên) + Giông đi tìm vợ: A Đen (nghệ nhân hát kể); Võ Quang Trọng, Phạm Cao Đạt (sưu tầm); A Thút, A Jar (phiên âm và dịch sang tiếng Việt); Võ Quang Trọng (biên tập văn học), (thuộc bộ Kho tàng sử thi Tây Nguyên) - Sử thi Mơ Nông: + Tiăng cướp Djăn, Dje: Điểu Klung (nghệ nhân hát kể); Đỗ Hồng Kỳ, Vũ Đức Cường (sưu tầm); Điểu Kâu (phiên âm, dịch sang tiếng Việt); Ngô Đức Thịnh (biên tập văn học), (thuộc bộ Kho tàng sử thi Tây Nguyên) + Bing con Măch xin làm vợ Yang: Me Luynh (nghệ nhân hát kể); Tô Đông Hải, Điểu Kâu (sưu tầm); Điểu Kâu (phiên âm và dịch sang tiếng Việt); Hà Đình Thành (biên tập văn học), (thuộc bộ Kho tàng sử thi Tây Nguyên) + Cướp Bung con Klêt: Điểu Klưt (nghệ nhân hát kể); Đỗ Hồng Kỳ (sưu tầm); Điểu Kâu (phiên âm và dịch sang tiếng Việt); Nguyễn Văn Toại (biên tập văn học), (thuộc bộ Kho tàng sử thi Tây Nguyên). 5. Phương pháp nghiên cứu Hôn nhân là một vấn đề thuộc về văn hóa. Trong đề tài này, vấn đề ấy được phản ánh qua tư liệu văn học dân gian là sử thi Tây Nguyên. Và đó 12 chính là lí do để chúng tôi lựa chọn cách tiếp cận liên ngành (cụ thể trong đó chúng tôi có vận dụng kết quả của các ngành khoa học xã hội và nhân văn khác nhau như văn hóa học, sử học, dân tộc học,…) với mong muốn mang đến một bức tranh toàn cảnh, chân thực và sống động về hôn nhân trong sử thi Tây Nguyên. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng sử dụng những phương pháp nghiên cứu cụ thể như: khảo sát văn bản, hệ thống hóa tài liệu, thống kê, phân tích, tổng hợp… để cố gắng đạt được mục đích nghiên cứu đã đề ra. 6. Bố cục của đề tài Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, công trình gồm bốn chương: Chương 1: Tổng quan về thể loại sử thi và vấn đề hôn nhân Chương 2: Những đặc điểm của hôn nhân mẫu hệ và những báo hiệu của hôn nhân phụ hệ được phản ánh trong sử thi Tây Nguyên Chương 3: Những cuộc hôn nhân mang tính anh hùng ca và mối quan hệ chiến tranh - hôn nhân được phản ánh trong sử thi Tây Nguyên Chương 4: Vấn đề hôn nhân đối ngẫu và bức tranh xã hội Tây Nguyên trong ánh hồi quang của thời đại sử thi 13 Kho tài li u mi n phí c a Ket-noi.com blog giáo d c, công ngh 14 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ THỂ LOẠI SỬ THI VÀ VẤN ĐỀ HÔN NHÂN 1.1. Sử thi và sử thi Tây Nguyên 1.1.1. Sử thi 1.1.1.1. Thuật ngữ “sử thi” a. “Sử thi” là thuật ngữ tương đương với épopée (tiếng Pháp) và epic (tiếng Anh). Theo Bách khoa toàn thư Mĩ [79], “sử thi” bắt nguồn từ từ epos (tiếng Hy Lạp), mà ban đầu có nghĩa là “từ” (word), sau đó là “bài diễn văn” (speech) hoặc “bài hát” (song), và cuối cùng là “áng thơ” ca ngợi sức mạnh, lòng quả cảm và sự nghiệp phi thường của những anh hùng. Theo GS. Đinh Gia Khánh, sử thi bắt nguồn từ từ nguyên tiếng Hy Lạp là epopoiia, mà người đầu tiên sử dụng thuật ngữ này là nhà triết học Arixtốt. Với nghĩa là kể chuyện, tự sự; phạm vi của thuật ngữ epopoiia bao trùm tất cả các loại truyện nói chung - văn xuôi cũng như văn vần. Nhưng ở thời Arixtốt, thì epopoiia trước hết được dùng để nói về các tác phẩm thơ ca trường thiên rất nổi tiếng Iliat và Ôđixê.[72, 33] Cũng xuất phát từ đó mà người đời sau thường gọi các tác phẩm đồng loại, đồng dạng (similar works) với Iliat và Ôđixê là epopoiia. “Là thơ ca tự sự, Iliat và Ôđixê đã phản ánh lịch sử với nhiều sự hư cấu. Giới khoa học Đông Á, khi dịch epopoiia thành sử thi đã chú ý đến sự phản ánh lịch sử của epopoiia, nhưng đồng thời cũng nhận thức rất rõ là sự phản ánh ấy mang đầy tính chất hư cấu và do đó đã coi epopoiia tức sử thi là một thể loại văn nghệ, phân biệt với các thể loại lịch sử” [72, 33]. 15 Iliat, Ôđixê và Nibelungenlied ở phương Tây, Epic of Gilgamesh, Mahabharata, Ramayana, Shahnama và Epic of King Gesar được xem như là những ví dụ kinh điển cho thể loại sử thi. b. Như trên đã nói, sử thi là một thuật ngữ để chỉ các tác phẩm tự sự trường thiên (dù là văn xuôi hay văn vần), có nội dung ngợi ca sức mạnh, quyền lực, lòng quả cảm và những chiến công vĩ đại của những anh hùng gắn với một giai đoạn lịch sử nhất định. Tuy nhiên, cùng với thời gian, ngoại diên của thuật ngữ này đã có sự phát sinh tương đối, theo đó, sử thi còn được dùng để chỉ các tác phẩm văn xuôi, các tác phẩm điện ảnh… (thậm chí của cả thời hiện đại và đương đại) đồ sộ, hoành tráng với sự góp mặt của đông đảo các nhân vật, với sự vận động của vô vàn những biến cố, ôm trọn một thời kỳ phát triển lịch sử lâu dài… Nghìn lẻ một đêm, Don Quixite (Donkihote) của Miguel de Cervantes (thế kỉ XVII), Chiến tranh và hòa bình của Leo Tolstoy (thế kỉ XIX), Đi tìm thời gian đã mất của Marcel Proust (thế kỉ XX) và thậm chí cả Chúa tể của những chiếc nhẫn (The Lord of the Ring) của J.R.R. Tolkien (thế kỉ XX), mới được chuyển thể thành kịch bản phim để giới thiệu trên màn ảnh lớn và “ẵm” nhiều giải Oscar trong những năm đầu của thế kỉ XXI, do đó, cũng được xem là những tác phẩm “sử thi” (prose “epics”). c. TS. Nguyễn Văn Nam đã phân định ba cách hiểu khác nhau về thuật ngữ “sử thi”: Trong cách hiểu thứ nhất, “sử thi” được quan niệm là một trong ba loại hình văn học - đơn vị cao nhất, bao trùm nhất: sử thi, trữ tình và kịch. Thuật ngữ “sử thi” này tương đương với thuật ngữ “tự sự”. Trong cách hiểu thứ hai, “sử thi” được dùng để chỉ một thể loại văn học xác định, tồn tại một cách lịch sử - cụ thể. Trong cách hiểu thứ ba, “sử thi” được hiểu như là một 16 phẩm chất, một thuộc tính, một đặc điểm của nền văn hóa mới, chủ yếu là văn học hiện thực chủ nghĩa, hoặc một trình độ, một cấp bậc của tư duy nghệ thuật, một phương thức tiếp cận, khai thác đối tượng. [72, 95 - 97] Trong đề tài này và kể từ đây, chúng tôi sử dụng thuật ngữ sử thi với tư cách là một thể loại văn học. 1.1.1.2. Nguồn gốc của sử thi Trong gần suốt chiều dài lịch sử hình thành và phát triển của mình, sử thi đã “thống trị” cả nền văn học và văn hóa. Homer, người xây dựng nên Iliat và Ôđixê vẫn luôn được tôn vinh là “người-thầy-tối-cao” của nền văn hóa Hi Lạp cổ đại, còn những tác phẩm vĩ đại của ông vẫn luôn được đánh giá như một thế giới thu nhỏ của nghệ thuật và tri thức loài người. Sử thi tiếng Latinh Aeneid - một tác phẩm của Virgil được xem là có tầm ảnh hưởng lớn thứ hai (sau Kinh Thánh) đối với đời sống văn hóa của con người thời Phục hưng, còn tác giả của nó thì được công nhận là một hình-mẫukinh-điển cho các thế hệ nhà thơ sau này… Các nhà phê bình và các đại thi hào thế giới như Dante, Vida, Sidney, Tasso, Dryden và Pop đều “đóng dấu chứng nhận” sử thi như là một đỉnh cao nghệ thuật. Vậy, với tư cách là một hệ thống nghệ thuật, sử thi bắt nguồn từ đâu? Phần lớn giới khoa học đều nhất trí rằng: “Sử thi đã hình thành trên nền tảng văn hóa văn nghệ dân gian thời sơ sử (protohistoire) và thời cổ đại (antiquité), trước hết là trên nền tảng thần thoại” [72, 34]. Điều đó có nghĩa là giữa sử thi và thần thoại có không ít phần giao thoa và chính vùng giao thoa ấy đã khiến cho thần thoại và những hình thức ban đầu của sử thi1 nhiều Những hình thái ban đầu của sử thi là những tác phẩm phản ánh cuộc đấu tranh trực tiếp của con người với thiên nhiên. 1 17 lúc bị lẫn lộn với nhau. Vậy, đâu là con đường biến chuyển biện chứng từ thần thoại đến sử thi và đâu là vạch phân cách giữa chúng? GS. Đinh Gia Khánh đã lí giải như sau: “Thần thoại của các thị tộc, các bộ lạc khác nhau thường mang màu sắc ít hoặc nhiều khác nhau vì môi trường sinh hoạt và quá trình phát triển khác nhau của các thị tộc, bộ lạc ấy. Đến thời kì có sự đồng hóa và thâm nhập lẫn nhau giữa các bộ lạc để trở thành liên minh bộ lạc, một tổ chức tiền quốc gia để rồi sau đó lại tiến lên hình thành quốc gia cổ đại thì thần thoại của các thị tộc khác nhau, các bộ lạc khác nhau dần dần được kết hợp thành hệ thống trong các áng văn vần trường thiên, tức là thành các áng sử thi” [72, 34]. Tuy nhiên, theo V. Prop: “Sử thi nảy sinh từ thần thoại không phải bằng con đường tiến hóa mà bằng sự phủ định thần thoại và toàn bộ hệ tư tưởng của nó” [11, 75]. Thần thoại phản ánh thế giới quan của người xưa và thế giới tự nhiên; đó là những lí giải có tính chất duy tâm, thần bí, hoang đường với những hình tượng thần linh mà con người - trong buổi bình minh của mình - chưa thể hiểu được. Chính sự thần linh hóa thế giới chung quanh - chính niềm tin ấy - đã tạo nên nội dung tôn giáo - bản chất của thần thoại. Sử thi ra đời trên cơ sở phủ nhận nội dung, phủ nhận thế giới quan thần thoại. Và sử thi - chứ không phải thần thoại - mới xứng đáng là hình thái nghệ thuật chân chính đầu tiên của loài người2. Nhân vật chính trong thần thoại - tất nhiên là các vị thần. Nhưng cùng với thời gian, nhân vật anh hùng đã dần thay thế thần linh, và các câu 2 Nội dung chủ yếu của thần thoại không phải là hiện thực nghệ thuật mà là nội dung duy tâm, còn với sử thi, cái chủ yếu là nghệ thuật mà cụ thể hơn là sự chiếm lĩnh hiện thực khách quan bằng hình tượng. 18 chuyện này được cải biên, được “phối” lại để phù hợp với nhân vật anh hùng. Trong tác phẩm sử thi cổ nhất trên thế giới Gilgamesh, nhân vật chính, người hùng Gilgamesh 2/3 là thần, chỉ 1/3 là người. Nhưng đến Iliat và Ôđixê, Homer đã thực sự nhìn thấy vị trí trung tâm của con người, ở đây, thần linh chỉ đứng hàng thứ yếu… Tóm lại, sử thi không thể xuất hiện ở giai đoạn mông muội mà chỉ có thể “thoát thai” ở giai đoạn dã man. Lúc đó, cùng với sự phát triển của sản xuất, con người không còn hoà lẫn, lệ thuộc vào thiên nhiên mà đã bắt đầu tách ra, ý thức về mình. Chính cái “tập thể nguyên thủy” dám “bứt” mình ra khỏi thiên nhiên ấy đã trở thành nhân vật chân chính, nhân vật đích thực của sử thi. 1.1.1.3. Sử thi cổ sơ và sử thi cổ đại Sử thi được hình thành từ những tiền đề kinh tế - xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định; và đến lượt nó, sử thi lại trở thành tấm gương phản chiếu lịch sử. Học giới phân biệt hai loại sử thi cổ sơ và cổ đại. Như trên đã nói, “sử thi ra đời trên cơ sở sự đồng hóa và thâm nhập lẫn nhau giữa các bộ lạc để trở thành liên minh bộ lạc, một tổ chức tiền quốc gia để rồi sau đó tiến lên hình thành quốc gia cổ đại” [72, 34]. “Tương ứng với quá trình kết hợp các bộ lạc để trở thành liên minh bộ lạc là quá trình kết hợp các thần thoại của các bộ lạc ấy để trở thành sử thi cổ sơ. Tương ứng với quá trình kết hợp các liên minh bộ lạc để trở thành quốc gia cổ đại là quá trình kết hợp các thần thoại, các áng sử thi cổ sơ của các liên minh bộ lạc ấy để trở thành sử thi cổ đại” [72, 34 - 35]. Nói cách khác, nếu như sử thi cổ sơ có sự kết hợp với văn nghệ dân gian của các thị tộc, các bộ lạc đang trong quá trình phát triển lên liên minh bộ lạc, thì sử thi cổ đại đã kết hợp với văn nghệ của các liên minh thị tộc, bộ lạc, trên con đường hình thành quốc gia cổ 19 đại [72, 44]. Như vậy, trong khi sử thi cổ sơ thuộc về giai đoạn tiền giai cấp, tiền nhà nước thì sử thi cổ đại thuộc về giai đoạn lịch sử hình thành nhà nước và quốc gia. 1.1.1.4. Các thuộc tính cơ bản của sử thi Tập hợp ý kiến của nhiều tác giả có uy tín về sử thi, GS. Phan Đăng Nhật đã nêu lên các thuộc tính cơ bản của thể loại này: - Sử thi trước hết là một tác phẩm tự sự dài hơi thuộc phạm trù văn học nghệ thuật. - Sử thi không thuộc về văn học nghệ thuật chuyên nghiệp bác học mà thuộc về văn hóa dân gian, là cái mà Mác gọi là “nghệ thuật chưa bắt đầu với tư cách là sáng tác nghệ thuật”. - Trong môi trường văn hóa dân gian, sử thi là một tác phẩm văn học nghệ thuật tổng hợp. Nó thu hút hầu hết các giá trị văn hóa nghệ thuật vốn có của dân tộc như: thơ ca, thần thoại, truyền thuyết, âm nhạc, diễn xướng… để chuyển hóa thành một tác phẩm tự sự bằng văn vần dài hơi (có xen lẫn văn xuôi), lấy các nhân vật anh hùng làm trung tâm nhằm diễn đạt đề tài, chủ đề của tác phẩm và tư tưởng của cộng đồng. - Đề tài trung tâm của sử thi là những vấn đề lớn liên quan đến toàn cộng đồng, là sự chuyển biến của một thời kì lịch sử. Lịch sử - xã hội được thâu tóm lại và hình tượng hóa bằng nhân vật anh hùng, trung tâm của sử thi. - Nội dung sử thi được diễn đạt bằng nghệ thuật thần kỳ, nó tạo nên sự hào hùng kì vĩ của sử thi [58, 20 - 21]. Tóm lại, trong đề tài này, khái niệm sử thi được chúng tôi hiểu là một thể loại tự sự dân gian, xuất hiện sớm trong lịch sử văn học của các dân tộc; 20 nhằm ngợi ca sự nghiệp vĩ đại của những anh hùng, tái dựng một hiện thực xã hội rộng lớn và sống động mà "điểm nhấn" là những biến cố trọng đại mang tính bước ngoặt đối với cộng đồng; thường chứa đựng những yếu tố kì vĩ, phi thường, thấm đẫm màu sắc huyền thoại. 1.1.2. Sử thi Tây Nguyên 1.1.2.1. Vùng sử thi Tây Nguyên Tây Nguyên là một vùng văn hóa phong phú và độc đáo. Bên cạnh âm nhạc cồng chiêng, tín ngưỡng và nghi lễ nhà mồ thì sử thi cũng là một di sản văn hóa phi vật thể quý giá của vùng đất bí ẩn này. Các dân tộc bản địa ở Tây Nguyên thuộc về hai nhóm ngôn ngữ - tộc người là Môn - Khơ Me (như Ba Na, Xơ Đăng, Mơ Nông…) và Nam Đảo (Ê Đê, Gia Rai…). Kể từ khi kiệt tác Dăm Săn được L. Sabatier công bố vào năm 1927, cho đến nay đã có hàng trăm tác phẩm sử thi (là con số thống kê chưa đầy đủ) được tìm thấy ở cả hai nhóm ngôn ngữ - tộc người, trên tất cả các tỉnh Tây Nguyên: Đăk Lăk, Đăk Nông, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng, Bình Phước, Ninh Thuận, Phú Yên. Bởi vậy, sử thi ở đây là tài sản chung của một vùng chứ không phải là của riêng dân tộc hay nhóm dân tộc nào. Thậm chí, nó còn xứng đáng là giá trị văn hóa tiêu biểu và nổi bật của Việt Nam; bởi sự có mặt của nó đã góp phần làm giàu cho kho tàng sử thi các dân tộc trên thế giới. Với những lí do ấy, chúng ta hoàn toàn có thể nói đến một vùng sử thi Tây Nguyên. 1.1.2.2. Sử thi Tây Nguyên là sử thi cổ sơ Giới nghiên cứu folklore ở Việt Nam nhìn chung đều nhất trí rằng, theo cách phân loại hiện nay thì sử thi Tây Nguyên thuộc loại sử thi cổ sơ, ra đời vào thời kì cuối của xã hội tiền giai cấp, tiền nhà nước. Trước Cách 21 Kho tài li u mi n phí c a Ket-noi.com blog giáo d c, công ngh mạng tháng Tám, các dân tộc ít người ở Tây Nguyên đang thuộc về thời kì cuối của chế độ công xã nguyên thủy lúc mà chế độ này đang trên bước đường tan rã. “Tuy nhiên, sử thi cổ sơ của các dân tộc Tây Nguyên cũng không thuần nhất, các nhà nghiên cứu có thể phân chúng thành hai tiểu loại: sử thi sáng thế (hay sử thi thần thoại mà đại diện là ot ndrong của người Mơ Nông) và sử thi thiết chế xã hội (hay sử thi anh hùng) như Dăm Săn, Khinh Dú, Dăm Di… của người Ê Đê. Như vậy là ở Việt Nam chúng ta, đặc biệt là Tây Nguyên, đều có đại diện cho các loại sử thi cổ sơ này” [72, 346 - 347]. 1.1.2.3. Sử thi Tây Nguyên là cuốn “bách khoa thư” về đời sống văn hóa của các dân tộc ở Tây Nguyên Trước hết, sử thi Tây Nguyên phản ánh những biến cố lớn của lịch sử như các cuộc chiến tranh giữa các buôn làng, bộ lạc, sự hùng mạnh của các thủ lĩnh quân sự. Sử thi Tây Nguyên cũng phản ánh quá trình hình thành, vận động và phát triển của chế độ xã hội với các mối quan hệ phức tạp mà cho đến nay những tương đồng giữa xã hội được phản ánh trong sử thi với xã hội đương đại vẫn còn tồn tại. Theo GS. Ngô Đức Thịnh, tuy ở mỗi tộc người, mỗi loại hình sử thi đều có sự khác biệt nhất định nhưng “nhìn chung, sử thi Tây Nguyên có những nét chung về nội dung lịch sử xã hội, văn hóa mà nó phản ánh. Đó là: - Phản ánh quan niệm về vũ trụ luận nguyên sơ, thế giới thần linh ở trên trời, trên mặt đất và dưới lòng đất, một thế giới - vũ trụ ba tầng. Một thế giới - vũ trụ mà ở đó con người và thần linh tuy khác biệt nhưng lại hợp nhất. 22
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan