Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hôn nhân hiện nay của người pa dí ở thôn cốc ngù, xã nậm chảy, huyện mường khươ...

Tài liệu Hôn nhân hiện nay của người pa dí ở thôn cốc ngù, xã nậm chảy, huyện mường khương, tỉnh lào cai

.PDF
120
437
126

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ MINH LÝ HÔN NHÂN HIỆN NAY CỦA NGƯỜI PA DÍ Ở THÔN CỐC NGÙ, XÃ NẬM CHẢY, HUYỆN MƯỜNG KHƯƠNG, TỈNH LÀO CAI LUẬN VĂN THẠC SĨ DÂN TỘC HỌC HÀ NỘI, 2016 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ MINH LÝ HÔN NHÂN HIỆN NAY CỦA NGƯỜI PA DÍ Ở THÔN CỐC NGÙ, XÃ NẬM CHẢY, HUYỆN MƯỜNG KHƯƠNG, TỈNH LÀO CAI Chuyên ngành: Dân tộc học Mã số : 60 31 03 10 LUẬN VĂN THẠC SĨ DÂN TỘC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. ĐẬU TUẤN NAM HÀ NỘI, 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả, số liệu nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố. Các thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc. Mọi sự giúp đỡ cho việc hoàn thiện luận văn đều đã được cảm ơn. Hà Nội, ngày tháng năm 2016 TÁC GIẢ Nguyễn Thị Minh Lý LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến tập thể cũng như cá nhân đã giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện. Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy hướng dẫn khoa học là TS. Đậu Tuấn Nam - người đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn cao học. Đồng thời, xin gửi lời cảm ơn tới các thầy, cô giáo khoa Dân tộc học và Nhân học, Học viện Khoa học Xã hội đã truyền đạt và trang bị cho tôi những kiến thức chuyên ngành bổ ích trong suốt quá trình học tập tại Học viện. Trân trọng cảm ơn Thủ trưởng Học viện Biên phòng, Khoa Khoa học Cơ bản và các đồng nghiệp đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi về mọi mặt để tôi yên tâm học tập, nghiên cứu. Xin gửi lời cảm ơn chân thành đến toàn thể bà con nhân dân thôn Cốc Ngù, UBND xã Nậm Chảy, cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Nậm Chảy, Phòng Dân tộc, Phòng Dân vận, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai đã tận tình giúp tôi trong thời gian điền dã để thu thập tư liệu. Cuối cùng, xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè đã luôn động viên, giúp đỡ tôi vượt qua khó khăn trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn. TÁC GIẢ Nguyễn Thị Minh Lý MỤC LỤC MỞ ĐẦU..................................................................................................1 Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ KHÁI QUÁT VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU...................................................................................................9 1.1. Cơ sở lí luận.....................................................................................9 1.2. Khái quát về địa bàn nghiên cứu....................................................12 Tiểu kết chương 1................................................................................23 Chương 2: ĐẶC ĐIỂM, NGUYÊN TẮC VÀ HÌNH THỨC KẾT HÔN CỦA NGƯỜI PA DÍ...............................................................................24 2.1. Một số đặc điểm hôn nhân.............................................................24 2.2. Một số nguyên tắc và hình thức kết hôn chủ yếu...........................29 2.3. Các trường hợp hôn nhân đặc biệt.................................................31 2.4. Vấn đề ngoại tình và ly hôn...........................................................34 Tiểu kết chương 2................................................................................36 Chương 3: PHONG TỤC TẬP QUÁN, KIÊNG CỮ VÀ NGHI LỄ TRONG HÔN NHÂN......................................................................................37 3.1. Phong tục, tập quán, kiêng cữ và nghi lễ trước lễ cưới..................37 3.2. Phong tục, tập quán, kiêng cữ và nghi lễ trong đám cưới..............40 3.3. Phong tục, tập quán, kiêng cữ và nghi lễ sau đám cưới.................49 Tiểu kết chương 3................................................................................52 Chương 4: BIẾN ĐỔI VÀ BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI PA DÍ...................................................................53 4.1. Một số biến đổi trong hôn nhân hiện nay.......................................53 4.2. Nguyên nhân của sự biến đổi.........................................................56 4.3. Các giá trị văn hóa tộc người trong hôn nhân của người Pa Dí.....61 4.4. Một số vấn đề đặt ra trong hôn nhân của người Pa Dí...................64 4.5. Khuyến nghị giải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị trong hôn nhân của người Pa Dí...............................................................................65 Tiểu kết chương 4................................................................................70 KẾT LUẬN...........................................................................................71 TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………...…..73 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Pa Dí là một nhóm địa phương của tộc người Tày, có nhiều tên gọi khác nhau như: Pa Dí, Tày Đen; người Nùng gọi người Pa Dí là Phù Táng, Phù Tay, Tẳng, Tày Đăm... Những nghiên cứu về người Pa Dí đã được công bố đều cho rằng, Lào Cai là tỉnh duy nhất ở nước ta có nhóm tộc người này sinh sống. Hiện nay, Lào Cai có 2089 người Pa Dí (theo số liệu của Phòng Dân tộc huyện Mường Khương năm 2015), cư trú tập trung ở các xã Lùng Vai, Tung Chung Phố, Nậm Chảy và thị trấn Mường Khương thuộc huyện Mường Khương. Đây là những xã, thị trấn biên giới, giáp xã Kiều Đầu, huyện Hà Khẩu, tỉnh Vân Nam (Trung Quốc). Trong quá trình phát triển, đặc biệt là từ khi thực hiện đổi mới (1986) đến nay, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và các cấp chính quyền địa phương, đời sống vật chất và tinh thần của người Pa Dí nói chung và người Pa Dí ở xã Nậm Chảy nói riêng không ngừng được nâng lên. Tuy nhiên, do tác động của cơ chế thị trường, của quá trình giao lưu và hội nhập nên bản sắc văn hóa truyền thống của nhóm tộc người này, trong đó có vấn đề hôn nhân đang dần biến đổi và đặt ra một số vấn đề mới cần được nghiên cứu, luận giải. Hôn nhân là một trong những lĩnh vực thể hiện rõ đặc trưng văn hóa tộc người: nguồn gốc lịch sử, đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội, phong tục tập quán, tín ngưỡng, nghi lễ.... Nghiên cứu hôn nhân của một tộc người góp phần nhận diện bản sắc văn hóa của tộc người đó trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Cụ thể, nghiên cứu hôn nhân của người Pa Dí sẽ góp phần cung cấp hệ thống tư liệu mới và làm rõ hơn một số vấn đề thực tiễn về đặc điểm kinh tế - xã hội và sinh hoạt văn hóa của người Pa Dí trước đây cũng như sự biến đổi hiện nay, qua đó góp phần nhận diện bản sắc văn hóa của nhóm tộc 1 người này, khẳng định những giá trị văn hóa truyền thống cần được bảo tồn và phát huy trong bối cảnh đổi mới và hội nhập. Nghiên cứu hôn nhân của người Pa Dí, đồng thời góp phần cung cấp những luận cứ khoa học phục vụ công tác xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, bảo tồn và phát huy các giá trị của hôn nhân trong quá trình phát triển của nhóm tộc người này phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương và nhu cầu của người dân. Tuy nhiên, cho đến nay, dù đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về hôn nhân các dân tộc thiểu số, nhưng nghiên cứu về người Pa Dí nói chung và hôn nhân của nhóm tộc người này nói riêng mới chỉ dừng lại ở một số lĩnh vực cụ thể mà chưa có nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện, có hệ thống về hôn nhân của nhóm tộc người này. Xuất phát từ những lý do nêu trên, tôi đã chọn vấn đề: “Hôn nhân hiện nay của người Pa Dí ở thôn Cốc Ngù, xã Nậm Chảy, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai” làm đề tài luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Dân tộc học tại Học viện Khoa học xã hội. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Người Pa Dí là một nhóm địa phương của dân tộc Tày. Nghiên cứu về người Pa Dí ở nước ta nói chung và người Pa Dí ở tỉnh Lào Cai nói riêng đã được một số công trình nghiên cứu, bài viết đề cập đến dưới nhiều góc độ khác nhau: Tác giả Nguyễn Thị Lành với công trình “Lễ cưới của người Pa Dí ở huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai” [31] đã tập trung nghiên cứu về quan niệm hôn nhân, quy trình tổ chức lễ cưới truyền thống, và bước đầu tìm hiểu về những biến đổi trong hôn nhân của của người Pa Dí ở huyện Mường Khương. Đây mới chỉ là những phác thảo về hôn nhân của người Pa Dí, chưa đi sâu phân tích về sự biến đổi cũng như giải thích nguyên nhân sự biến đổi trong hôn nhân của nhóm tộc người này. 2 Tác giả Bùi Quốc Khánh với “Tri thức dân gian trong canh tác cây lúa nước của người Pa Dí ở tỉnh Lào Cai” [27] đã sưu tầm và trình bày khá cụ thể những tri thức dân gian của người Pa Dí trong canh tác nông nghiệp nói chung, trong canh tác cây lúa nước nói riêng. Qua đó, người đọc có thể phần nào thấy được những nét chính trong sinh hoạt văn hóa vật chất, xã hội và tinh thần, nhất là một số phong tục tập quán, tín ngưỡng của người Pa Dí. Nghiên cứu về người Pa Dí còn được một số tác giả công bố trên các tạp chí khoa học. Trong đó, đáng chú ý tác giả Ngô Đức Thịnh với bài viết “Người Pa Dí ở Lào Cai” (1973) đã trình bày một cách khái quát về tên gọi, nguồn gốc lịch sử, tiếng nói của người Pa Dí ở Lào Cai. Trong đó tác giả đưa ra một nhận định đáng chú ý: “người Pa Dí ở Việt Nam ngày nay là một bộ phận của người Thái xưa. Trong quá trình lịch sử, nhất là việc di cư, làm cho nhóm người này càng tách xa nhóm đồng tộc của mình, nên ngày nay họ mang một số sắc thái riêng. Nhưng dù sao về tên gọi và nguồn gốc lịch sử còn để lại những bằng cứ giúp ta nhận biết được. Và đặc biệt trong tên gọi và quan niệm dân tộc, còn giữ lại được một ý niệm về nhóm Tày – Thái chung trong lịch sử” [41, tr. 75]. Võ Thu Giang đã đi sâu nghiên cứu về một yếu tố văn hóa mà tác giả cho là “bền vững, mang nhiều nét truyền thống và giàu cá tính” [23, tr. 44] của người Pa Dí đó là trang phục, được đề cập trong hai bài viết: “Đôi nét về nữ phục truyền thống của người Pa Dí”, “Đồ trang sức trên trang phục dân tộc Pa Dí” (1997). Tác giả đã miêu tả khá chi tiết về bộ trang phục, đồ trang sức của phụ nữ Pa Dí, bước đầu đề cập đến kĩ thuật đúc bạc và làm đồ trang sức của nhóm tộc người này Trong hai bài viết “Trang phục của người Pa Dí ở Lào Cai” (2004), “Nhà ở của người Pa Dí” (2006), tác giả Lê Văn Bé, từ đặc trưng của trang phục và đặc trưng tộc người qua ngôi nhà, đã đưa ra nhận xét: người 3 Pa Dí là nhóm cư dân trong khối người Choang ở miền Nam Trung Quốc, do nhiều lí do khác nhau trong cuộc sống mà họ chuyển cư vào Việt Nam chưa lâu; tiếng Pa Dí gọi các bộ phận trên trang phục và nhà ở có nhiều chi tiết giống người Nùng, do vậy xếp họ vào một nhóm địa phương của dân tộc Nùng thì đúng hơn [4, tr.37]. Những tài liệu thu thập được qua tổng quan tình hình nghiên cứu đã cung cấp những hiểu biết cơ bản về người Pa Dí trên các khía cạnh văn hoá khác nhau, từ đó cho thấy những đặc trưng văn hóa cơ bản của nhóm tộc người này. Đây là nguồn tư liệu quý giá để tác giả tham khảo trong quá trình thực hiện luận văn. Tuy nhiên, bước đầu có thể nhận định, việc nghiên cứu về người Pa Dí ở nước ta nói chung và hôn nhân của họ nói riêng còn rất hạn chế. Cho tới nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu và tương đối toàn diện về hôn nhân của nhóm tộc người này, nhất là tại vùng biên giới như thôn Cốc Ngù, xã Nậm Chảy, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục tiêu nghiên cứu Nghiên cứu này được thực hiện nhằm 3 mục tiêu chính sau đây: Một là, trình bày có hệ thống về bức tranh hôn nhân của người Pa Dí ở thôn Cốc Ngù xã Nậm Chảy, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai. Hai là, phân tích những biến đổi trong hôn nhân và những giá trị văn hóa trong hôn nhân của người Pa Dí ở thôn Cốc Ngù xã Nậm Chảy, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế từ 1986 đến nay. Ba là, góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho việc thực hiện công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa trong hôn nhân của người Pa Dí ở thôn Cốc Ngù, xã Nậm Chảy, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai phù hợp với điều kiện của địa phương và nhu cầu của người dân hiện nay. 4 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục tiêu nghiên cứu nêu trên, luận văn tập trung thực hiện một số nhiệm vụ chính như sau: - Tiến hành nghiên cứu tổng quan về các đặc điểm của nhóm tộc người Pa Dí ở nước ta, nhất là các đặc điểm liên quan và tác động đến hôn nhân của người Pa Dí tại địa bàn nghiên cứu. - Nghiên cứu làm rõ các đặc điểm, nguyên tắc và hình thức kết hôn; phong tục tập quán và nghi lễ trong hôn nhân truyền thống cũng như sự biến đổi của các vấn đề này ở người Pa Dí tại điểm nghiên cứu. - Bước đầu làm rõ nguyên nhân, đánh giá những tác động đến sự biến đổi và các xu hướng biến đổi chủ yếu trong hôn nhân của người Pa Dí hiện nay. - Phân tích làm rõ các giá trị văn hóa trong hôn nhân của người Pa Dí, trên cơ sở đó đề xuất kiến nghị giải pháp bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa trong hôn nhân tạo động lực cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng nông thôn mới ở địa phương hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là hôn nhân của người Pa Dí ở thôn Cốc Ngù, xã Nậm Chảy, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai. Trong đó, các đối tượng được quan tâm nhất là những người đang trong độ tuổi kết hôn, những người có uy tín và hiểu biết về các nguyên tắc kết hôn, những phong tục tập quán và nghi lễ trong hôn nhân của người Pa Dí. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu các đặc điểm, nguyên tắc, hình thức kết hôn, phong tục, tập quán và các nghi lễ trong hôn nhân của người Pa Dí ở thôn Cốc Ngù, xã Nậm Chảy, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai từ sau năm 1986 đến nay. Thực tế, với đặc thù của địa bàn 5 nghiên cứu, những biến đổi hôn nhân của người Pa Dí được ghi nhận chủ yếu là từ năm 2000 trở lại đây, khi công cuộc đổi mới đất nước đã mang lại những thành quả nhất định và có tác động sâu rộng tới địa bàn miền núi biên giới. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận - Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi luôn dựa vào cơ sở lý luận của quan điểm duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác - Lênin để phân tích vào điều kiện thực tiễn người Pa Dí ở nước ta. Cụ thể, trong quá trình nghiên cứu chúng tôi nhìn nhận hôn nhân và các vấn đề cụ thể của hôn nhân trong một hệ thống gồm các thành tố đặc điểm về nguồn gốc lịch sử, kinh tế, xã hội, văn hóa, môi trường trong sự liên quan và tương tác lẫn nhau ở cộng đồng nghiên cứu và với các cộng đồng khác. Quá trình đó đã góp phần tạo ra sự giao lưu tiếp biến về nhiều mặt dẫn đến việc hôn nhân của người Pa Dí tại địa bàn nghiên cứu vừa giữ được những đặc trưng truyền thống của tộc người, của vùng miền, nhưng cũng có sự biến đổi để thích nghi với những điều kiện mới. - Luận văn đã vận dụng các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tộc người nói chung và hôn nhân gia đình nói riêng, nhất là Luật hôn nhân và gia đình, Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Những quan điểm này là các định hướng quan trọng để luận văn giải quyết các mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đề ra. 5.2. Phương pháp nghiên cứu - Điền dã dân tộc học: Trước hết bằng phương pháp định tính tác giả đã sống và trải nghiệm cùng với người dân ở địa phương để có thể quan sát tham dự được các hoạt động trong cuộc sống thường ngày của họ. Qua đó hiểu được một cách tương đối đầy đủ về quan niệm, tư duy, tâm lý và hành vi của người Pa Dí ở thôn Cốc Ngù, xã Nậm Chảy liên quan đến hôn nhân. Trong quá trình đó, chúng tôi kết hợp với các cuộc phỏng vấn sâu, thảo luận 6 nhóm và quan sát tham dự đối với các thông tin viên phù hợp, nhất là những người am hiểu và có uy tín như cán bộ, trưởng thôn, trưởng họ, thầy cúng, người già,... Bên cạnh đó, tác giả cũng áp dụng các công cụ bổ trợ như quay phim, chụp ảnh, sưu tầm các tài liệu thư tịch liên quan tại cộng đồng. Với phương pháp này, tác giả đã đi điền dã khảo sát tại thôn Cốc Ngù, xã Nậm Chảy, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai vào cuối năm 2015 và đầu năm 2016. Tác giả đã cùng ăn, cùng ở và tham dự một số lễ cưới của người Pa Dí ở thôn Cốc Ngù. Tác giả đã phỏng vấn ông bà mối, cô dâu, chú rể, những người tham dự đám cưới…; quay phim, chụp ảnh các sự kiện diễn ra xung quanh hôn nhân của người Pa Dí. Tác giả còn phỏng vấn sâu và tham gia thảo luận với trưởng thôn, người cao tuổi, am hiểu về phong tục, tập quán, nghi thức cưới hỏi của người Pa Dí. - Phương pháp chuyên gia: Phương pháp này được thực hiện thông qua các cuộc thảo luận, trao đổi trực tiếp theo từng vấn đề chuyên sâu, nhằm thu thập tư liệu và kinh nghiệm từ các chuyên gia và những cán bộ cũng như người dân có uy tín, am hiểu trong cộng đồng ở địa phương nơi tiến hành điền dã. Tại địa bàn nghiên cứu, tác giả tiến hành trao đổi trực tiếp với các chuyên gia trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình như cán bộ phụ trách tư pháp, dân số của xã, những người làm công tác Đảng, công tác chính quyền, Đoàn thanh niên, Hội Phụ nữ... cấp thôn, xã, các già làng, trưởng thôn, trưởng họ, những người trong độ tuổi kết hôn, những người am hiểu về phong tục, tập quán, nghi lễ, nghi thức hôn nhân của người Pa Dí,... Từ đó thu thập những ý kiến, đánh giá chuyên sâu và những kinh nghiệm của họ đối với vấn đề nghiên cứu. - Sử dụng các phương pháp thống kê tổng hợp, phân tích và so sánh các nguồn thông tin, tư liệu, số liệu thu thập được để hoàn thành luận văn theo những mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đề ra. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 7 - Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên có tính chuyên sâu, tương đối toàn diện và có hệ thống về hôn nhân của người Pa Dí ở thôn Cốc Ngù, xã Nậm Chảy, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai, nhất là các đặc điểm, nguyên tắc, hình thức kết hôn, phong tục tập quán và nghi lễ hôn nhân. - Thông qua kết quả nghiên cứu đạt được, luận văn cung cấp những tư liệu mới góp phần làm rõ hơn những đặc điểm tộc người của nhóm Pa Dí tại điểm nghiên cứu thông qua các đặc điểm hôn nhân và những biến đổi hiện nay cũng như phân tích các yếu tố tác động đến sự biến đổi và xu hướng biến đổi trong hôn nhân của người Pa Dí ở thôn Cốc Ngù, xã Nậm Chảy. - Luận văn góp phần khẳng định những giá trị văn hóa trong hôn nhân và chỉ ra một số hạn chế cần được xóa bỏ trong hôn nhân của người Pa Dí. Từ đó, kiến nghị giải pháp phù hợp nhằm góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp trong hôn nhân của người Pa Dí phục vụ quá trình phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng nông thôn mới hiện nay ở địa phương. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung chính của luận văn gồm 4 chương: Chương 1: Cơ sở lí luận và khái quát về địa bàn nghiên cứu Chương 2: Đặc điểm, nguyên tắc và hình thức kết hôn của người Pa Dí Chương 3: Phong tục tập quán, kiêng cữ và nghi lễ trong hôn nhân Chương 4: Biến đổi và bảo tồn, phát huy giá trị hôn nhân của người Pa Dí 8 Chương 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ KHÁI QUÁT VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 1.1. Cơ sở lí luận 1.1.1. Một số khái niệm cơ bản - Hôn nhân: Trong Từ điển tiếng Việt, hôn nhân được định nghĩa là “việc nam nữ chính thức lấy nhau làm vợ chồng” [58, tr.445]. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 của nước ta, tại Điều 3 khẳng định: “Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn” [35]. Còn theo Từ điển Nhân học thì: “Hôn nhân là mối quan hệ gắn bó được thừa nhận về mặt xã hội giữa một người đàn ông và một người đàn bà nhằm mục đích duy trì nòi giống một cách hợp pháp lập gia đình hạt nhân mới hoặc nhằm tạo gia đình hạt nhân mới” [45 tr.519]. Khi nghiên cứu về hôn nhân, Emily A.chultz và Robobert H.Lavenda cho rằng: “Hôn nhân bao hàm một sự thay đổi trong vị trí xã hội của hai người và ảnh hưởng đến vị trí xã hội của con, cháu... Một hôn nhân mẫu (1) đòi hỏi phải có một người nam và một người nữ và (2) quy định mức độ quan hệ tính giao các thành viên trong hôn nhân có thể có với nhau, xếp từ quan hệ độc quyền đến quan hệ ưu tiên. Hôn nhân cũng (3) tạo nên tính hợp pháp của con cái do người vợ sinh ra và (4) thiết lập các mối quan hệ do họ hàng bên vợ và họ hàng bên chồng ” [20, tr.306]. Từ đó, tác giả đã định nghĩa: “ Hôn nhân là một quá trình xã hội mà mô hình mẫu của nó là sự kết hợp giữa một người đàn ông và một người đàn bà, là một sự kiện làm biến đổi những thành viên của nó, làm thay đổi quan hệ giữa những người thân thuộc của mỗi bên và những khuôn mẫu xã hội thông qua việc sinh đẻ cùng với một số quyền lợi và nghĩa vụ đi kèm” [20, tr.342]. - Ngoại hôn dòng họ: Là quy tắc kết hôn ngoài dòng họ được luật tục 9 hay tập quán quy định, khi người ta kết hôn với người thuộc ngoài nhóm xã hội với mình. - Nội hôn tộc người: Là quy tắc chỉ kết hôn với người đồng tộc trong nhóm xã hội của mình, là sự lựa chọn người đối ngẫu để kết hôn trong cùng một nhóm được luật tục hoặc tập quán quy định . - Nghi lễ: Các nghi thức của một cuộc lễ và trật tự tiến hành [58, tr.541]. - Nghi lễ hôn nhân: được hiểu là các nghi lễ, nghi thức diễn ra theo phong tục, tập quán hoặc theo quy định của cộng đồng trong mỗi cuộc hôn nhân. Nghi lễ hôn nhân là một thủ tục không thể thiếu trong hôn nhân để khẳng định cuộc hôn nhân đó là phù hợp với tập quán pháp, và được cộng đồng cũng như luật pháp công nhận, nó làm thay đổi địa vị xã hội của con người. Để tiến đến hôn nhân cũng như khi đã đạt được cuộc hôn nhân thì mỗi tộc người, nhóm tộc người đều trải qua những nghi lễ nhất định theo quy định mang tính tập quán của tộc người hay nhóm tộc người đó. Nghi lễ hôn nhân nhằm đảm bảo cho sự chứng kiến và công nhận từ phía cộng đồng, ngoài ra nó còn thực hiện các yếu tố tâm linh nhằm đảm bảo cho cuộc hôn nhân được thuận lợi và bền vững. Nghi lễ hôn nhân là một khía cạnh phản ánh bản sắc văn hoá tộc người. - Phong tục: Thói quen đã ăn sâu vào đời sống xã hội, được mọi người công nhận và làm theo [58, tr.756]. - Tập quán: Thói quen đã thành nếp trong đời sống xã hội, trong sản xuất và sinh hoạt thường ngày, được mọi người công nhận và làm theo [58, tr.869]. - Kiêng cữ: Tránh điều gì, cái gì đó vì sợ sẽ gặp phải điều không hay [58, tr.506]. 1.1.2. Một số lý thuyết được áp dụng - Lý thuyết về giao lưu, tiếp biến văn hóa Giao lưu tiếp biến văn hóa là khái niệm được trường phái nhân học 10 Anglo Saxon đưa ra vào cuối thế kỉ XIX, nhằm chỉ sự tiếp xúc trực tiếp và lâu dài giữa hai nền văn hóa khác nhau, hệ quả của sự tiếp xúc này là sự thay đổi hay biến đổi của một số loại hình văn hóa ở cả hai nền văn hóa đó. Theo đó, giao lưu tiếp biến văn hóa là quá trình một nền văn hóa thích nghi, chịu ảnh hưởng của một nền văn hóa khác bằng cách vay mượn nhiều nét đặc trưng. Sự giao lưu tiếp biến văn hóa cũng là một cơ chế khác của biến đổi văn hóa, đó là sự trao đổi đặc tính văn hoá nảy sinh khi các cộng đồng tiếp xúc trực diện và liên tục. Các thành tố của nền văn hóa tuy có biến đổi, song mỗi nền văn hóa vẫn giữ tính riêng biệt của mình. Qua quá trình tiếp xúc và giao lưu giữa hai nền văn hóa thì xã hội yếu hơn thường sẽ bị xã hội mạnh hơn tác động làm cho thay đổi [16, tr.107-108]. Tiếp biến văn hóa còn được hiểu là quá trình biến đổi văn hóa diễn ra do sự tiếp xúc của hai hệ thống văn hóa riêng rẽ mà kết quả làm cho chúng ngày càng trở nên giống nhau hơn. Quá trình này luôn có liên quan tới sự tương tác phức tạp với quá trình biến đổi xã hội [45, tr.12]. Lý thuyết về giao lưu, tiếp biến văn hóa cho thấy biến đổi là quá trình tất yếu của mọi sự vật hiện tượng, trong đó bao gồm cả văn hóa tộc người. Ngày nay dưới sự tác động của quá trình phát triển hiện đại hóa, toàn cầu hóa và xu hướng hội nhập đang diễn ra mạnh mẽ thì sự giao lưu, biến đổi của các tộc người, các nền văn hóa là không tránh khỏi. Do đó, về mặt phương pháp luận, khi nghiên cứu văn hóa tộc người, trong đó có các quan niệm, nguyên tắc, đặc điểm và các nghi lễ trong hôn nhân, chúng ta không thể chỉ xem xét đối tượng một cách biệt lập hay trong trạng thái tĩnh, mà phải đặt chúng trong trạng thái động, liên tục biến đổi gắn với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tộc người và của đất nước. Đây là cách tiếp cận chính của lý thuyết này nhằm góp phần làm rõ quá trình biến đổi của hôn nhân của người Pa Dí ở điểm nghiên cứu. - Lý thuyết về bản sắc văn hóa tộc người 11 Nói đến bản sắc văn hóa là nói đến các mặt ít biến đổi của văn hóa trong quá trình phát triển. Bản sắc văn hóa tộc người là tổng thể những yếu tố vật chất và tinh thần mang tính đặc trưng và đặc thù của tộc người, giúp phân biệt tộc người này với tộc người khác và giữa các nhóm địa phương trong cùng tộc người với nhau. Bản sắc văn hóa tộc người được hình thành lâu dài trong lịch sử gắn liền với hoàn cảnh kinh tế, xã hội và môi trường địa lí tự nhiên trong đời sống của từng tộc người và chúng có sức sống lâu bền, thậm chí ngay cả khi đời sống của tộc người đó có những thay đổi mạnh mẽ. Bản sắc văn hóa của tộc người còn thể hiện bản lĩnh của tộc người, yếu tố tộc người. Trong quá trình phát triển của tộc người, không ít hiện tượng văn hóa lúc đầu chỉ là yếu tố vay mượn, nhưng dần dần qua thời gian chúng được “dân tộc hóa”, được sử dụng và tái tạo theo cách riêng của tộc người vay mượn, ít nhiều mang bản sắc văn hóa của tộc người. Áp dụng lý thuyết về bản sắc văn hóa tộc người giúp luận văn nhìn nhận những sắc thái truyền thống và đặc trưng riêng trong hôn nhân của người Pa Dí ở Cốc Ngù trong sự so sánh với những biến đổi trong hôn nhân hiện nay. 1.2. Khái quát về địa bàn nghiên cứu 1.2.1. Về điều kiện tự nhiên Lào Cai là tỉnh vùng cao biên giới, nằm chính giữa vùng Đông Bắc và vùng Tây Bắc của Việt Nam, cách Hà Nội 345 km theo đường bộ. Phía Đông giáp tỉnh Hà Giang, phía Nam giáp tỉnh Yên Bái, phía Tây giáp tỉnh Lai Châu, phía Bắc giáp tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) với 203 km đường biên giới. Tỉnh Lào Cai được tái lập tháng 10/1991 trên cơ sở tách ra từ tỉnh Hoàng Liên Sơn. Từ ngày 01/01/2004 (sau khi tách huyện Than Uyên sang tỉnh Lai Châu) diện tích tự nhiên của tỉnh là 6.383,88 km2 (chiếm 2,44% diện tích cả nước, là tỉnh có diện tích lớn thứ 19/64 tỉnh, thành phố cả nước). Địa hình Lào Cai rất phức tạp, phân tầng độ cao lớn, mức độ chia cắt 12 mạnh. Hai dãy núi chính là dãy Hoàng Liên Sơn và dãy Con Voi cùng có hướng Tây Bắc - Đông Nam nằm ở phía Đông và phía Tây. Giữa hai dãy núi này và phía Tây dãy Hoàng Liên Sơn có các vùng đất thấp, trung bình. Ngoài ra còn rất nhiều núi nhỏ hơn phân bố đa dạng, chia cắt, tạo ra những tiểu vùng khí hậu khác nhau. Do địa hình chia cắt nên phân đai cao thấp khá rõ ràng, trong đó độ cao từ 300m - 1.000m chiếm phần lớn diện tích toàn tỉnh. Điểm cao nhất là đỉnh núi Phan Xi Păng trên dãy Hoàng Liên Sơn có độ cao 3.143m so với mặt nước biển, Tả Giàng Phình cao 3.090m. Dải đất dọc theo hai con sông (sông Hồng, sông Chảy) gồm thành phố Lào Cai, huyện Cam Đường, huyện Bảo Thắng, huyện Bảo Yên và phần phía Đông huyện Văn Bàn thuộc các đai độ cao thấp hơn (điểm thấp nhất là 80m thuộc địa phận huyện Bảo Thắng). Vùng này địa hình ít hiểm trở, có nhiều vùng đất đồi thoải, thung lũng ruộng nước rộng, là địa bàn thuận lợi cho sản xuất nông, lâm nghiệp và xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng. Lào Cai có khí hậu nhiệt đới gió mùa, song do nằm sâu trong lục địa, bị chi phối bởi yếu tố địa hình phức tạp nên diễn biến thời tiết có phần thay đổi, khác biệt theo thời gian và không gian. Khí hậu Lào Cai chia làm hai mùa: mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Đột biến về nhiệt độ thường xuất hiện ở dạng trong ngày lên cao hoặc xuống quá thấp (vùng Sa Pa có nhiều ngày nhiệt độ xuống dưới 00C và có tuyết rơi). Nhiệt độ trung bình ở vùng cao từ 150C - 200C (riêng Sa Pa từ 140C - 160C và không có tháng nào lên quá 200C), lượng mưa trung bình từ 1.800mm - 2.000mm. Nhiệt độ trung bình ở vùng thấp từ 230C - 290C, lượng mưa trung bình từ 1.400mm - 1.700mm. Điều kiện khí hậu Lào Cai thích hợp với các loại cây ôn đới. Vì vậy, tỉnh có lợi thế phát triển các đặc sản xứ lạnh mà các vùng khác không có được như: hoa, quả, thảo dược và cá nước lạnh. 13 Theo thống kê năm 2009, dân số tỉnh Lào Cai có 615.620 người, với hơn 20 dân tộc cùng sinh sống: Kinh, Tày, Thái, Hmông, Dao, Giáy, Nùng, Hà Nhì, Phù Lá, Bố Y, Hoa, Mường, Phù Lá, Kháng, La Ha, Lào,... Mường Khương là huyện vùng cao biên giới nằm ở phía Đông Bắc tỉnh Lào Cai, cách thành phố Lào Cai 50 km. Phía Đông và Đông Bắc giáp huyện Bắc Hà; phía Nam giáp huyện Bảo Thắng; phía Bắc và phía Tây giáp huyện Mã Quan và huyện Hà Khẩu tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), có đường biên giới dài 73,5 km, trong đó có 48 km trên đất liền và 25,5 km trên sông, suối, bao gồm 64 cột mốc (từ cột mốc 107 đến 170). Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện là 55.614 ha. Huyện có 15 xã (Cao Sơn, Bản Lầu, Nậm Chảy, Tung Chung Phố, Tả Gia Khâu, Pha Long, Dìn Chin, Tả Ngải Chồ, Thanh Bình, Bản Sen, Lùng Khấu Nhin, La Pan Tẩn, Nấm Lư, Tả Thàng, Lùng Vai), 01 thị trấn (Mường Khương), với 231 thôn bản. Địa hình Mường Khương khá phức tạp, có nhiều vực sâu chia cắt xen kẽ giữa các dải thung lũng hẹp và sơn nguyên đá vôi thấp. Độ cao trung bình so với mực nước biển là 1.000m, đỉnh cao nhất là 1.609m. Mạng lưới sông suối phân bố rải rác, chủ yếu là sông suối nhỏ, chỉ có một đoạn sông Chảy chảy qua, độ dốc thấp, lưu lượng nước ít và thất thường. Đất Mường Khương chủ yếu là loại đất feralít phát triển trên đá biến chất và đá phiến thạch sét. Đất thung lũng và phù sa sông bồi phục vụ canh tác nông nghiệp chỉ chiếm 16%, còn lại phần lớn là đất lâm nghiệp. Khí hậu Mường Khương mang tính Á nhiệt đới, có sự chênh lệch nhiệt độ giữa các vùng. Các xã vùng cao, mùa đông nhiệt độ rất thấp, có năm nhiệt độ xuống 00C, kèm theo sương muối, tuyết phủ. Mùa hè mưa to, mưa đá gây đá lở, sói mòn. Lượng mưa lớn từ 1.725 mm đến 1.820 mm, phân bố không đều. Mưa tập trung chủ yếu từ tháng 4 đến tháng 9, gây lũ lụt; từ tháng 12 năm trước đến tháng 2 năm sau, lượng mưa ít, thường xảy ra khô hạn kéo dài, 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan