Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hội nhập kinh tế quốc tế với chuyển dịch cơ cấu kinh tế của campuchia...

Tài liệu Hội nhập kinh tế quốc tế với chuyển dịch cơ cấu kinh tế của campuchia

.PDF
186
88
139

Mô tả:

Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN ------------------ Đã định dạng: ng: (Tùy chỉnh, Tự động, 10 pt Độ rộng đường kẻ, Lề: pt Khoảng cách viền: ), Dưới cùng: (Tùy chỉnh, Tự động, 10 pt Độ rộng đường kẻ, Lề: 1 pt Khoảng cách viề ), Trái: (Tùy chỉnh, Tự động, 10 pt Đ rộng đường kẻ, Lề: 4 pt Khoảng các viền: ), Phải: (Tùy chỉnh, Tự động, 1 pt Độ rộng đường kẻ, Lề: 4 pt Khoả cách viền: ) Chuyên đềCHUYÊN ĐỀ TIẾN SĨ KINH TẾ Đề tài luận án: Đã định dạng: Không gạch dưới HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VỚI CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ CỦA CAMPUCHIA Giáo viên hƣớng dẫn : Ngƣời thực hiện Đã định dạng: Tiếng Anh (Mỹ) GS-TS. Tô Xuân Dân Đã định dạng: Tiếng Anh (Mỹ) GS-TS. Tăng Văn Bềên Đã định dạng: Tiếng Anh (Mỹ) :: Vuth Phan Na Đã định dạng: Tiếng Anh (Mỹ) Đã định dạng: Tiếng Anh (Mỹ) Đã định dạng: Phông: Không Nghiê Chuyên ngành : Kinh tế đối ngoại Mã số : 5 02 05 HÀ NỘI - 20065 Đã định dạng: Phông: Không Đậm Đã định dạng: Mức 1 LỜI MỞ ĐẦU I. Tính cấp thiết của đề tài luận án: Đã định dạng: Mức 2, Khoảng cách Trước: 12 pt Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế trở thành một xu thế tất yếu đối với tất cả các quốc gia trên thế giới. Toàn cầu hoá giúp phần củng cố an ninh chính trị của mỗi quốc gia thông qua việc thiết lập các mối quan hệ đan xen, nhiều chiều, ở nhiều tầng nấc khác nhau giữa các quốc gia. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý là cốt lõi trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi nước, là nhân tố quan trọng để đảm bảo sự tăng trưởng bền vững và nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của tăng trưởng. Thực tiễn phát triển kinh tế các nước cho thấy chuyển dịch cơ cấu kinh tế là điều kiện tiên quyết để nền kinh tế vượt qua thời kỳ suy thoái và đạt tới trình độ phát triển cao hơn. Là một nước đang phát triển ở trình độ thấp Campuchia đang phải đương đầu với những thách thức to lớn cả về kinh tế và xã hội. Thực tế đó đòi hỏi Campuchia phải vạch ra chiến lược chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp. Chính phủ Campuchia đã nhận thức được vai trò quan trọng và xu thế khách quan của việc tham gia vào quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới và nhận thấy cần phải biết tận dụng cơ chế thương mại quốc tế để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Thời gian qua Campuchia đã tích cực và đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Năm 1999 Campuchia trở thành thành viên chính thức của ASEAN. Năm 2003 Campuchia cùng với Nêpal là những nước kém phát triển đầu tiên được kết nạp vào Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và hiện nay đã trở thành thành viên chính thức của WTO. Là thành viên của WTO, ASEAN, ASEM Campuchia sẽ có thêm nhiều cơ hội phát triển do hệ thống thương mại đa phương đem lại. Campuchia sẽ xuất khẩu được nhiều hơn và những rào cản mậu dịch sẽ được giảm thiểu. Nền kinh tế Campuchia cũng sẽ vận hành có hiệu quả hơn 1 Đã định dạng: Phông: 14 pt Đã định dạng: Vị trí: Ngang: Giữa, Tương đối với: Lề Đã định dạng: Phông: 14 pt nhờ tăng cường thương mại, đầu tư, phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và thúc đẩy thị trường nội địa có tính cạnh tranh cao hơn v.v. Tuy nhiên, quá trình gia nhập kinh tế thế giới ngoài những thuận lợi như trên chắc chắn sẽ gặp phải những vấn đề khó khăn về kinh tế - chính trị - xã hội như: Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài sẽ gay gắt hơn, thất nghiệp tăng, sự bất bình đẳng và khoảng cãch giàu nghèo trong nước trầm trọng hơn v.v. Như vậy hội nhập kinh tế ngoài việc tạo ra những tiền đề thuận lợi còn tăng áp lực điều chỉnh cơ cấu kinh tế trong nước. Vì vậy, việc nghiên cứu về hội nhập kinh tế quốc tế với chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Campuchia là vấn đề cấp thiết, có ý nghĩa to lớn cả về mặt lý thyết và thực tiễn. Xuất phát từ sự cấp thiết đó, tôi chọn đề tài ”Hội nhập kinh tế quốc tế với chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Campuchia” làm luận án tiến sĩ. Đã định dạng: Mức 2 II. Mục tiêu nghiên cứu của luận án: Luận án dự kiến sẽ đạt tới các mục tiêu nghiên cứu sau: - Làm rõ những vấn đề lý luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế và mối quan hệ của hội nhập kinh tế quốc tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. - Chỉ ra những bất cập và đánh giá thực trạng kinh tế cũng như cơ cấu kinh tế và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Campuchia. Phân tích quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Campuchia và đánh giá tác động của nó tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. - Từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm và đề xuất những phương hướng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp nhằm đưa nền kinh tế Campuchia đạt tới trình độ phát triển cao và bền vững phù hợp với mục tiêu và chính sách phát triển kinh tế - chính trị - xã hội của Chính phủ Hoàng gia Campuchia. Đã định dạng: Phông: 14 pt Đã định dạng: Vị trí: Ngang: Giữa, Tương đối với: Lề Đã định dạng: Phông: 14 pt 2 Đã định dạng: Phông: Đậm III. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu: Đã định dạng: Mức 2 - Luận án lấy quá trình hội nhập quốc tế, đặc biệt là việc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Campuchia làm đối tượng nghiên cứu. Phạm vi nghiên cứu của luận án tập trung vào thời kỳ từ năm 1995 đến nay. Đây là giai đoạn nền kinh tế của Campuchia có sự thay đổi lớn và đa dạng. - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một vấn đề rộng, bao gồm cả cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ. Tuy nhiên luận án sẽ chủ yếu giới hạn nghiên cứu cơ cấu ngành kinh tế bao gồm cả nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ cũng như cơ cấu trong nội bộ các ngành đó trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Đã định dạng: Mức 2 IV. Phƣơng pháp nghiên cứu: - Luận án vận dụng các quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng, Chủ nghĩa duy vật lịch sử và quan điểm, đường lối, chính sách của Nhà nước Campuchia để giải quyết các vấn đề nghiên cứu. - Ngoài ra luận án còn phân tích tiến trình biến đổi nền kinh tế chính trị - xã hội khi Campuchia hội nhập Tổ chức thương mại thế giới và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước. Do vậy, phương pháp lịch sử có vai trò quan trọng, đồng thời phương pháp logic được sử dụng để tổng kết, khái quát những đặc điểm cơ bản rút ra bài học kinh nghiệm. - Ngoài ra, luận án còn sử dụng các phương pháp như: nghiên cứu so sánh, phân kỳ lịch sử, phương pháp thống kê và một số phương pháp khác. V. Dự kiến đóng góp của luận án: Đã định dạng: Mức 2 1. Luận án làm rõ hơn những vấn đề lý luận về hội nhập kinh tế quốc tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Campuchia: khái niệm, đặc trưng, tính tất yếu và xu hướng của hội nhập và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đồng thời, luận án trình bày mối quan hệ giữa hội nhập kinh tế quốc tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế làm cơ sở cho việc đánh giá một cách khách quan thực trạng nền kinh tế Campuchia trong tiến trình hội nhập. Đã định dạng: Phông: 14 pt Đã định dạng: Vị trí: Ngang: Giữa, Tương đối với: Lề Đã định dạng: Phông: 14 pt 3 2. Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trong khu vực và một số nước đang phát triển của Châu á, luận án rút ra bài học cho Campuchia. 3. Phân tích, đánh giá thực trạng và những bất cập nảy sinh trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trước và sau hội nhập Tổ chức thương mại thế giới của Campuchia. 4. Đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu để thúc đẩy nền kinh tế Campuchia khi tién hành hội nhập kinh tế quốc tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đã định dạng: Mức 1 Đã định dạng: Phông: 14 pt Đã định dạng: Vị trí: Ngang: Giữa, Tương đối với: Lề Đã định dạng: Phông: 14 pt 4 CHƢƠNG I: MỘT SỐỐ VẤẤN ĐỀỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VỚI CHUYỂỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ Đã định dạng: Phông: Nghiêng 1.1. Những vấn đề lý luận chung về hội nhập kinh tế quốc tế Đã định dạng: Mức 3 1.1.1. Khái niệm và các hình thức hội nhập kinh tế quốc tế Đã định dạng: Phông: Không Đậm, Không Nghiêng Các vấn đề kinh tế không chỉ mang các đặc trưng kinh tế đơn thuần Đã định dạng: Mức 4 mà luôn gắn liền với một hệ thống chính trị là nền tảng của nó. Về mặt thực tiễn rõ rằng ở quốc gia nào cũng vậy, người ta chỉ chấp nhận hội nhập kinh tế quốc tế một khi lợi ích của quốc gia đó cả về kinh tế, chính trị xã hội được đảm bảo. Với cách tiếp cận này có thể hiểu hội nhập kính tế quốc tế không chỉ la quá trình tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế mà còn được biểu hiện trong bản thân hệ thống chính sách thương mại, chính sách phát triển kinh tế của mỗi nước. Như vậy có thể xác định hội nhập kính tế quốc tế là việc các nước đi tìm kiếm một số điều kiện nào đó mà họ có thể thống nhất được với nhau, kể cả dành cho nhau nhưng ưu đãi, tạo ra nhưng điều kiện công bằng, có đi có lại trong quan hệ hợp tác với nhau... nhằm khai thác các khả năng lẫn nhau phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế của mình. Để thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế, các điều kiện chung được quy định đối với mỗi quốc gia, là tự do hoá thương mại và đầu tư một cách công khai, rõ ràng. Cụ thể, các tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế hay khu vực nói chung đều hoạt động theo 4 nguyên tắc cơ bản sau: Đã định dạng: Thụt lề: Dòng đầu tiên: 1.27 cm - Công bằng: các nước dành cho nhau quy chế ưu đãi cao nhất của mình và chung cho mọi nước (nghĩa là mọi hàng hoá và dịch vụ của các công ty các nước đối tác đều được hưởng một chính sách ưu đãi chung); đồng thời không phân biệt chính sách thương mại giữa các công ty: mọi chế độ chính sách liên quan đến thương mại và đầu tư trong mỗi nước đều phải bình đẳng Đã định dạng: Phông: 14 pt Đã định dạng: Vị trí: Ngang: Giữa, Tương đối với: Lề Đã định dạng: Phông: 14 pt 5 giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước, giữa hàng nhập khẩu và hàng sản xuất nội địa. - Tự do hoá thương mại: các nước chỉ được sử dụng thuế làm công cụ bảo hộ cho nền sản xuất của mình, các biện pháp phi thuế quan như giấy phép, quota, hạn ngạch xuất nhập khâu... đều không được sử dụng, các biểu thuế này đều phải có lộ trình rõ ràng công khai về việc giảm dần đến tự do hoá hoàn toàn. - Làm ăn hay thương lượng với nhâu phải trên cơ sở có đi có lại: khi nền kinh tế thịt rường của một nước thành viên bị bị hàng nhập khâu đe doạ thái quá hoạc bị những biện pháp phận biệt đối xử gây hại, thì nước đó có quyền khước từ một nghĩa vụ nào đó hoặc có thể có những hành động khẩn cấp cần thiết, được các nước thành viên khác thừa nhận, đề bảo vệ quyền lợi cua nền kinh tế trong nước. * Công khai mọi chính sách thương mại và đầu tư. Với các điều kiện và nguyên tắc trên, nước “ đi sau” như nước ta có nhiều thuận lợi, nhất là học hỏi kinh nghiệm của các nước “đi trước”, nhưng cũng phải chịu rất nhiều khó khăn thách thức, mà quan trọng hàng đầu là bảo hộ nền sản xuất trong nước và các doanh nghiệp Campuchia, nhất là các doanh nghiệp mới “chân ướt chân ráo” bước vào nền kinh tế thị trường. Đây khong chỉ đơn thuần là việc bảo hộ thuần tuý cho nền kinh tế, cho từng doanh nghiệp, mà còn là vấn đề của yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn mới việc hội nhập kinh tế quốc tế gắn liền với quá trình tự do hoá. Không thể có hội nhập quốc tế mà không có tự do hoá kinh tế, đây là một đặc điểm mới của xu thế toàn cầi hoá ngày nay. Vấn đề quan trọng trong việc hội nhập kinh tế quốc tế là cần xác định mức độ tiến trình hội nhập và tự do hoá như thế nào cho phù hợp với trình độ phát triển kinh tế để có thể phát huy được các thế mạnh của đất nước, tận dụng được những ưu thế của hợp tác quốc tế, tạo rá sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế quốc gia, nâng cao vị thế của mình trong phân công lao động quốc tế. - Các hình thức hội nhập kinh tế quốc tế 6 Đã định dạng: Thụt lề: Trái: 0 cm, Dòng đầu tiên: 1.27 cm, Dấu đầu dòng + Mức: 1 + Căn cách: 1.9 cm Tab sau đó: 2.54 cm + Thụt lề: 2.5 cm, Dừng tab: Không có tại 2.54 cm Đã định dạng: Phông: 14 pt Đã định dạng: Vị trí: Ngang: Giữa, Tương đối với: Lề Đã định dạng: Phông: 14 pt  Khu vực thương mại tự do Là một hình thức hội nhập trong đó các thành viên cùng nhau thoả thuận thống nhất một số vấn đề nhằm mục đích tự do hoá trong buôn bán về một hoặc một số nhóm mặt hàng nào đó. Các thoả thuận đó là: Thứ nhất, giảm hoặc xoá bỏ hàng rào thuế quan và các biện pháp hạn chế số lượng đối với một phần các loại sản phẩm và dịch vụ khi buôn bán với nhau. Thứ hai, tiến tới lập một thị trường thống nhất về hàng hoá và dịch vụ. Thứ ba, mỗi thành viên trong khối vẫn có quyền độc lập tự chủ trong quan hệ buôn bán với các quốc gia ngoài khối, tức là mỗi thành viên có thể có chính sách ngoại thương riêng đối với các quốc gia ngoài khối  Liên minh thuế quan Là một hình thức hội nhập nhằm tăng cường hơn nữa mức độ hợp tác giữa các nước thành viên. Theo thoả thuận hợp tác này, các quốc gia Đã định dạng: Thụt lề: Trái: 0 cm, Dòng đầu tiên: 1.27 cm, Dấu đầu dòng + Mức: 1 + Căn cách: 2.54 cm Tab sau đó: 3.17 cm + Thụt lề: 3.1 cm, Dừng tab: Không có tại 3.17 cm trong liên minh bên cạnh việc xoá bỏ thuế quan và những hạn chế về mậu dịch khác giữa các quốc gia thành viên, còn cần phải thiết lập một biểu thuế quan chung của khối đối với các quốc gia ngoài liên minh, tức là phải thực hiện chính sách cân đối mậu dịch với các nước không phải là thành viên.  Cộng đồng kinh tế Là một hình thức hội nhập trong đó không chỉ qui định việc loại bỏ hàng rào thuế quan giữa các nước thành viên và thiết lập một biểu thuế Đã định dạng: Thụt lề: Trái: 0 cm, Dòng đầu tiên: 1.27 cm, Dấu đầu dòng + Mức: 1 + Căn cách: 2.54 cm Tab sau đó: 3.17 cm + Thụt lề: 3.1 cm, Dừng tab: Không có tại 3.17 cm quan chung đối với các quốc gia khác, mà còn kêu gọi thực hiện di chuyển tự do hàng hoá, dịch vụ, lao động và vốn trong nội bộ khối.  Liên minh kinh tế Là một hình thức hội nhập với những đặc điểm tương đồng với cộng đồng kinh tế về sự tự do di chuyển hàng hoá, dịch vụ, tư bản và lực lượng Đã định dạng: Thụt lề: Trái: 0 cm, Dòng đầu tiên: 1.27 cm, Dấu đầu dòng + Mức: 1 + Căn cách: 2.54 cm Tab sau đó: 3.17 cm + Thụt lề: 3.1 cm, Dừng tab: Không có tại 3.17 cm lao động giữa các quốc gia thành viên, đồng thời thống nhất biểu thuế quan chung áp dụng cho cả các nước không phải là thành viên. Tuy nhiên, liên minh kinh tế thể hiện mức độ hội nhập cao hơn, trong đó các nước thành viên còn thực hiện thống nhất các chính sách kinh tế, tài chính, tiền tệ. Như Đã định dạng: Phông: 14 pt Đã định dạng: Vị trí: Ngang: Giữa, Tương đối với: Lề Đã định dạng: Phông: 14 pt 7 vậy, cộng đồng kinh tế là một “bước đệm”, là giai đoạn chuyển tiếp từ thị trường chung sang liên minh kinh tế. Ví dụ, trước khi chuyển sang hình thành Liên minh Châu Âu (European Union - EU) (năm 1994) thì khối kinh tế này đã trải qua nhiều hình thức hội nhập, trong đó có Cộng đồng kinh tế Châu Âu (European Economic Community - EEC) (năm 1957), Cộng đồng Châu Âu (European Community) (năm 1967).  Liên minh tiền tệ Là một hình thức hội nhập tiến tới phải thành lập một “quốc gia kinh tế chung” có nhiều nước tham gia với những đặc trưng sau: Đã định dạng: Thụt lề: Trái: 0 cm, Dòng đầu tiên: 1.27 cm, Dấu đầu dòng + Mức: 1 + Căn cách: 2.54 cm Tab sau đó: 3.17 cm + Thụt lề: 3.1 cm, Dừng tab: Không có tại 3.17 cm Một. xây dựng chính sách kinh tế chung trong đó có chính sách ngoại thương chung. Hai. hình thành đồng tiền chung thống nhất thay cho các đồng tiền riêng của các nước thành viên. Ba. thống nhất chính sách lưu thông tiền tệ. Bốn. xây dựng hệ thống ngân hàng chung thay cho các ngân hàng trung ương của các nước thành viên. Năm. xây dựng chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng chung đối với các nước ngoài liên minh và các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế. - Quá trình hình thành hội nhập kinh tế quốc tế Đầu thập kỷ 30 của thế kỷ XXI, lịch sử đã chứng kiến cuộc khủng hoảng, trì trệ nghiêm trọng của nền thương mại thế giới. Người ta nhận Đã định dạng: Thụt lề: Treo: 1.27 cm, Dấu đầu dòng + Mức: 1 + Căn cách: 1.9 cm + Tab sau đó: 2.54 cm + Thụt lề: 2.54 cm, Dừng tab: Khôn có tại 2.54 cm thấy rằng, một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng trên là chính sách bảo hộ thái quá của mỗi quốc gia, vì những lợi ích riêng đã cố thi hành bất chấp ảnh hưởng đến thương mại chung. Những chính sách này làm méo mó cạnh tranh lành mạnh trong các nền kinh tế thị trường, làm cho buôn bán quốc tế phải tiến hành trong không khí kém an toàn và việc dự đoán xu hướng phát triển cũng như dung lượng trao đổi hàng hoá gặp rất nhiều khó khăn. Điều này cản trở nghiêm trọng sự phát triển của thương Đã định dạng: Phông: 14 pt Đã định dạng: Vị trí: Ngang: Giữa, Tương đối với: Lề Đã định dạng: Phông: 14 pt 8 mại hàng hoá, tác động xấu đến nền kinh tế toàn cầu và do đó kìm hãm sự phát triển kinh tế của từng quốc gia. Nhằm nhanh chóng khắc phục những thiếu sót lớn của các chính sách bảo hộ đã góp phần đẩy nền kinh tế thế giới vào cuộc suy thoái trầm trọng trong thời gian đó, năm 1944, khi chiến tranh thế giới lần thứ hai đang đi vào giai đoạn kết thúc, thì tại Bretton Woods, 44 quốc gia tư bản đã tổ chức một hội nghị quốc tế gọi là hội nghị Bretton Woods. Tại hội nghị này, các quốc gia đã thành lập hai tổ chức kinh tế là Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng tái thiết và phát triển quốc tế (IBRD đây là tiền thân cho Ngân hàng thế giới sau này), đồng thời đã đi đến một quyết định là thành lập ra một Tổ chức Thương mại quốc tế, gọi tắt là ITO. Trong khuôn khổ của Liên hợp quốc, đã có ba Hội nghị quốc tế đã được tổ chức (London, tháng 10/1946; tại Geneva, tháng 8/1947 và tại La Havana từ tháng 11/1947 đến tháng 1/1948) nhằm soạn thảo ra văn kiện thành lập ITO có tên gọi là "Hiến chương La Havana". Mục tiêu của ITO được quy định trong hiến chương La Havana là tạo việc làm đầy đủ và tăng trưởng thương mại. Vì vậy, để đạt được hai mục tiêu nói trên, Hiến chương đã đề ra bốn biện pháp hành động chủ yếu: tái thiết và phát triển kinh tế; tất cả các nước đều được tiếp cận với các nguồn cung cấp nguyên liệu và yếu tố sản xuất trên cơ sở bình đẳng; cắt giảm các trở ngại đối với thương mại quốc tế, hợp tác và tư vấn với ITO. Tuy nhiên, quá trình đàm phán để đi đến Hiến chương ITO đã cho thấy những bất đồng sâu sắc giữa Mỹ, Tây Âu với Trung Quốc về mục tiêu và những ưu tiên của ITO. Trong khi mục tiêu quan trọng nhất của Mỹ là mở cửa thị trường các nước Tây Âu và Nhật Bản, nhất là hạn chế đến mức tối đa các hàng rào thuế quan, tự do hoá thương mại trên cơ sở bình đẳng và tối huệ quốc thì Trung Quốc, ấn Độ, Libăng... lại cương quyết chống lại các điều khoản tối huệ quốc vì cho rằng các điều khoản này sẽ đặt những nước trên rơi vào thế bình đẳng trên danh nghĩa nhưng lại bất bình trên thực tế. Đã định dạng: Phông: 14 pt Đã định dạng: Vị trí: Ngang: Giữa, Tương đối với: Lề Đã định dạng: Phông: 14 pt 9 Chính những mâu thuẫn trên đã khiến cho Hiến chương La Havana không bao giờ có hiệu lực và ITO cũng không bao giờ ra đời. Tuy nhiên, song song với các vòng đàm phán cho việc ra đời ITO, thì tại Genever, ngày 30/10/1947, đại diện của 23 nước đã đi đến một thoả thuận cắt giảm thuế quan đối với khoảng một nửa số hàng hoá trong thương mại quốc tế, đồng thời đã ký kết Nghị định thư áp dụng tạm thời "Hiệp định chung về thuế quan và Thương mại", gọi tắt là GATT 1947. Chính việc Hiến chương La Havana không được phê chuẩn, nên Hiệp định GATT với 38 điều đã được các nước áp dụng "tạm thời" trong hơn 40 năm như là một hiệp định đa phương duy nhất, điều chỉnh các quan hệ thương mại quốc tế. Sau gần nửa thế kỷ tồn tại và phát triển, GATT đã trở thành một thể chế và pháp lý của nền thương mại quốc tế cũng như đã trở thành thể chế mậu dịch đa phương quản lý và điều hành hoạt động mậu dịch của các nước sau khi tiến trình thành lập Tổ chức mậu dịch quốc tế bị đứt quãng. Tuy chỉ là một "Bản hiệp định quân tử" mang tính tạm thời song nó lại có tác dụng rất lớn trong việc đảm bảo và thúc đẩy sự phát triển của nền mậu dịch quốc tế sau chiến tranh. GATT đã trở thành "nôi đàm phán" của mậu dịch quốc tế, phát động và thúc đẩy tiến trình tự do hoá mậu dịch giữa các nước; GATT cũng đã trở thành nơi giải quyết các tranh chấp mậu dịch quốc tế, điều hoà những mâu thuẫn và va chạm về mậu dịch quốc tế giữa các nước. GATT đã thông qua những chế độ và cơ chế về mậu dịch của Trung Quốc, có một tác dụng nhất định trong việc thúc đẩy sự phát triển về kinh tế và mậu dịch của Trung Quốc. Hàng năm các thành viên nhóm họp để vạch ra chính sách cơ bản của GATT, mỗi quốc gia thành viên có một phiếu. Chế độ đa số phiếu được tôn trọng nhằm tránh việc rời xa các nghĩa vụ cụ thể mà GATT quy định. Các tiểu ban hoà giải được xác lập nhằm giải quyết các tranh chấp trong thương mại. Đã định dạng: Phông: 14 pt Đã định dạng: Vị trí: Ngang: Giữa, Tương đối với: Lề Đã định dạng: Phông: 14 pt 10 Từ vòng đàm phán đầu tiên năm 1947, GATT dần dần được hoàn thiện qua các lần tu chỉnh nhưng vẫn dựa trên 3 nguyên tắc cơ bản sau: 1. Không phân biệt đối xử trong thương mại quốc tế các nước thành viên dành cho nhau quy chế tối huệ quốc (Most Favored Nation - MFN) đối với hàng hoá nhập khẩu, bất cứ xuất xứ hàng hoá là của quốc gia nào đi nữa. 2. Không được bảo hộ nền công nghiệp trong nước bằng chính sách phân biệt đối xử và các giải pháp thương mại khác như hạn ngạch xuất khẩu. 3. Nhấn mạnh vào việc tiếp xúc và tham vấn để tránh xâm phạm lợi ích thương mại lẫn thuế, cũng như các rào cản thương mại khác và ghi lại kết quả đàm phán trong một văn bản có giá trị pháp lý. Tuy nhiên, vẫn tồn tại một số ngoại lệ trong các nguyên tắc trên. Chẳng hạn, ở nguyên tắc "không phân biệt đối xử" được thể hiện trong điều khoản "tối huệ quốc", theo đó không cho phép ưu đãi mậu dịch đối với bất kỳ quốc gia nào hơn so với những thành viên ký kết GATT. Nhưng trong các khu vực mậu dịch tự do (còn gọi là liên minh thuế quan - Customs Unions) thì các thành viên trong khu vực hoặc trong liên minh đều được ưu đãi hơn. Hay ở nguyên tắc "cấm trợ cấp cho xuất khẩu" có nghĩa là các nhà sản xuất nội địa không được hưởng những lợi ích hoặc ưu đãi nào khiến họ chiếm ưu thế trên thị trường nước ngoài. Ngoại lệ của nguyên tắc này dành cho mặt hàng nông sản. Ngoài mặt hàng nông sản ra, nếu có trợ cấp ưu đãi khác thì các nước được quyền áp dụng chính sách thuế quan phân biệt đối xử nhằm làm đối trong với những trợ cấp này, gọi là thuế quan bù trừ.  Kết quả hoạt động của GATT Từ năm 1947 đến năm 1994, đã có 8 vòng đàm phán thương mại đa phương được tiến hành trong khuôn khổ GATT 1947. Nội dung của các Đã định dạng: Thụt lề: Trái: 0 cm, Dòng đầu tiên: 1.27 cm, Dấu đầu dòng + Mức: 1 + Căn cách: 1.4 cm Tab sau đó: 2.04 cm + Thụt lề: 2.0 cm vòng đàm phán đã được mở rộng dần từ cắt giảm thuế quan và biện pháp phi thuế quan đến cải cách hệ thống pháp lý, cơ chế giải quyết tranh chấp Đã định dạng: Phông: 14 pt Đã định dạng: Vị trí: Ngang: Giữa, Tương đối với: Lề Đã định dạng: Phông: 14 pt 11 của GATT. Kết quả chính đạt được qua 8 vòng đàm phán có thể được tóm tắt như sau: Năm vòng đàm phán đầu tiên trong khuôn khổ GATT có nội dung về cắt giảm thuế quan đối với các sản phẩm chế biến (các sản phẩm nông nghiệp không được các nước đưa vào đàm phán) và sử dụng phương pháp cắt giảm song phương. Theo phương pháp này, các bên ký kết có liên quan sẽ đàm phán song phương với nhau để cắt giảm thuế quan đối với từng sản phẩm cụ thể. Tổng cộng qua 5 vòng đàm phán đã có gần 60.000 sản phẩm được cắt giảm thuế quan. Mọi cam kết giảm thuế quan phải đưa vào biểu cam kết về thuế quan và về nguyên tắc ràng buộc các bên ký kết (nguyên tắc ràng buộc) Bảng 1: Các vòng đàm phán thƣơng mại của GATT Địa điểm Nội dung vòng đàm phán Năm Số nƣớc 1947 Geneva Thuế quan 23 1949 Annecy Thuế quan 12 1951 Torguay Thuế quan 38 1956 Geneva Thuế quan 26 1960 - 1961 Dillon Thuế quan 26 1964 - 1967 Kenedy Thuế quan và các biện pháp chống bán phá giá 62 1973 - 1979 Tokyo Thuế quan, các biện pháp phi thuế quan và các hiệp định "khung" 102 Thuế quan, các biện pháp phi thuế quan và các nguyên tắc, các dịch vụ, các 1986 - 1994 Uruguay quyền sở hữu trí tuệ, giải quyết tranh chấp dệt và may mặc, nông nghiệp, thành lập WTO 123 (Nguồn: World Trade Organization, http://www.wto.org/) Vòng Kennedy đã cắt giảm trung bình 35% đối với hơn 30.000 hạng mục thuế, đồng thời cũng đạt được thành công đầu tiên trong lĩnh vực giảm 12 Đã định dạng: Phông: 14 pt Đã định dạng: Vị trí: Ngang: Giữa, Tương đối với: Lề Đã định dạng: Phông: 14 pt thiểu các hàng rào thuế quan trong lĩnh vực giảm thiểu các hàng rào phi thuế quan với việc thông qua những quy định đầu tiên về chống phá giá và trị giá hải quan. Về thuế quan, vòng Tokyo đã đạt được những kết quả rất lớn: mức thuế quan của các nước phát triển đối với các sản phẩm công nghiệp giảm trung bình 30%, dẫn đến mức thuế quan trung bình của các nước này chỉ còn 6%. Trong lĩnh vực phi thuế quan, vòng Tokyo đã thông qua được 5 "bộ luật" (code) về các biện pháp phi thuế quan: trợ cấp, trị giá hải quan, mua sắm Chính phủ, tiêu chuẩn kỹ thuật và thủ tục cấp phép nhập khẩu và hai thoả thuận về nông nghiệp và một thoả thuận về công nghiệp hàng không. Vòng đàm phán tổng thể Uruguay (1986 - 1993, 123 nước); vòng Tokyo vừa kết thúc, Mỹ đã đưa ra một đề nghị mở tiếp một vòng đàm phán mới. Đề nghị này của Mỹ nhằm 3 mục tiêu chiến lược: đối phó với những thế lực bảo hộ tại Mỹ vốn rất bực tức về việc Mỹ thường xuyên bị nhập siêu lớn trong thương mại với Nhật Bản, Tây Âu và một số nước và nền kinh tế công nghiệp hoá mới; áp đặt những tư tưởng của chủ nghĩa tự do kinh tế của Reagan đối với Tây Âu, Nhật bản và Trung Quốc; giải quyết dứt điểm các hồ sơ tranh chấp về nông nghiệp, dịch vụ và văn hoá với Tây Âu và các nước khác.  NNhững hạn chế của GATT Do bản thân nó còn tồn tại nhiều bất cập rất khó khắc phục nên GATT ngày càng bộc lộ nhiều hạn chế trước trào lưu toàn cầu hoá kinh tế Đã định dạng: Thụt lề: Trái: 1.06 cm, Treo: 0.42 cm, Dấu đầu dòng + Mức: 1 + Căn cách: 1.4 cm + Tab s đó: 2.04 cm + Thụt lề: 2.04 cm, Dừng tab: 1.48 cm, Danh sách tab + Không có tại 2.04 cm + 3.17 cm đang diễn ra ngày càng nhanh, mạnh và sâu sắc trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Điều này chủ yếu được biểu hiện ở những điểm sau: a. Về vị trí, GATT chỉ là một "bản hiệp định quân tử" mang tính tạm thời chứ không phải là một tổ chức quốc tế chính thức, không có tư cách chủ thể luật quốc tế. Vị trí không chính thức này của GATT đã gây trở ngại cho nó trong việc tiến hành các hoạt động thông thường, hạn chế nó trong việc phát huy chức năng của mình, làm giảm bớt quyền lực của nó với tư cách là một tổ chức quản lý và điều hoà các hoạt động mậu dịch quốc tế. Đã định dạng: Phông: 14 pt Đã định dạng: Vị trí: Ngang: Giữa, Tương đối với: Lề Đã định dạng: Phông: 14 pt 13 b. Phạm vi quản lý của GATT quá nhỏ hẹp vì chỉ hạn chế ở lĩnh vực thương mại hàng hoá. Nhưng trong quá trình phát triển thương mại và kinh tế, thương mại dịch vụ phát triển hết sức nhanh chóng, ngày càng đóng vai trò quan trọng. Hơn nữa sự phát triển của nền kinh tế thế giới ngày càng mang đặc trưng của nền kinh tế tri thức, làm thế nào để bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động thương mại quốc tế đã trở thành một chủ đề quan trọng. Rõ ràng là thể chế GATT hiện nay rất khó có thể đáp ứng nhu cầu phát triển thương mại và kinh tế quốc tế. c. Quy tắc của GATT rất không chặt chẽ, còn nhiều kẽ hở. Điều này chủ yếu thể hiện ở những điểm sau: Thứ nhất, nội dung của rất nhiều quy tắc trong GATT còn mơ hồ, thiếu những tiêu chuẩn rõ ràng; Thứ hai, còn nhiều khoản ngoại lệ; Thứ ba, còn tràn lan nhiều biện pháp "Khu vực xám" như hạn chế xuất khẩu tự nguyện, sắp xếp có trật tự… Những hạn chế trên đây trong các quy tắc của GATT đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính quyền uy và tính hiệu quả của thể chế mậu dịch đa phương, nếu kéo dài sẽ gây biến động trong toàn bộ thể chế của GATT. d. Trong cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT còn tồn tại nhiều hạn chế nghiêm trọng. Biểu hiện chủ yếu: quyền lực tổ, nhóm chuyên gia rất nhỏ, quá trình giải quyết tranh chấp quá dài sau khi kiểm tra, giám sát, không có hiệu lực. Đặc biệt là nguyên tắc "toàn thể nhất trí đồng ý" mà GATT sử dụng để giải quyết tranh chấp, nguyên tắc khắt khe này đã dẫn đến hiện tượng kết quả giải quyết tranh chấp của GATT không thể thực thi có hiệu quả. Như vậy, khi nước thành viên, nhất là những nước thành viên có quy mô thương mại và thực lực kinh tế hùng hậu vi phạm các nguyên tắc thương mại đa phương đã không bị trừng phạt một cách đích đáng, do vậy thường xuyên đặt toàn bộ thể chế thương mại đa phương trước nguy cơ tan vỡ.  Sự ra đời của WTO Đã định dạng: Thụt lề: Trái: 0 cm, Dòng đầu tiên: 1.27 cm, Dấu đầu dòng + Mức: 1 + Căn cách: 1.4 cm Tab sau đó: 2.04 cm + Thụt lề: 2.0 cm, Dừng tab: 1.9 cm, Danh sách ta + Không có tại 2.04 cm + 3.17 cm Đã định dạng: Phông: 14 pt Đã định dạng: Vị trí: Ngang: Giữa, Tương đối với: Lề Đã định dạng: Phông: 14 pt 14 Vòng đàm phán Uruguay được bắt đầu từ năm 1986, tuy nhiên đến đầu những năm 1990, nhiều vấn đề vẫn tiếp tục được bàn luận vì Mỹ và một số nước có nền kinh tế phát triển muốn đưa thêm vào chương trình nghị sự những vấn đề mới như: trao đổi dịch vụ quốc tế, quyền sở hữu trí tuệ, đầu tư, lao động, môi trường... Bên cạnh đó, thắng lợi của GATT trong việc cắt giảm thuế cùng một loạt nhân nhượng kinh tế trong những năm 70, 80 của thế kỷ XX đã khiến chính phủ các nước đưa ra một loạt những hình thức bảo hộ khác như: Tự nguyện hạn chế xuất khẩu, tăng cường các biện pháp kiểm dịch, nâng cao tiêu chẩn hàng hoá nhập khẩu.. . Chính vì vậy mà thương mại thế giới đã trở nên phức tạp hơn nhiều so với 40 năm trước đó. Ngay cả đối với thương mại hàng hoá, nhiều lĩnh vực tuy đã được GATT xem xét nhưng vẫn còn nhiều lỗ hổng, chưa hợp lý, đặc biệt như hiệp định về thương mại hàng nông sản và hàng dệt may chủ yếu chỉ mang lại lợi thế và để bảo vệ lợi ích cho các nước công nghiệp phát triển. Thể chế của GATT và hệ thống giải quyết tranh chấp cũng bị một số nước thành viên chỉ trích. Hơn nữa, đây cũng là thời kỳ kết thúc "chiến tranh lạnh", thế giới chuyển từ xu thế "đối đầu" sang "đối thoại", thực hiện mở cửa và hội nhập với quốc tế. Tình hình kinh tế, thương mại thế giới có những biến đổi nhanh chóng và sâu sắc dưới tác động của toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới và sự phát triển vượt bậc của thông tin liên lạc. Do đó, nhiều vấn đề mới trong quan hệ quốc tế phát sinh, vượt xa khuôn khổ của GATT, đòi hỏi các quốc gia thành viên phải xem xét lại sứ mạng của GATT. Cuối cùng, để khắc phục những hạn chế nội tại không thể giải quyết của GATT và để đáp ứng nhu cầu phát triển toàn cầu hoá thương mại và kinh tế quốc tế ngày càng phức tạp, các bên tham gia vòng đàm phán Urugoay (vòng đàm phán cuối cùng của GATT) đã quyết định thiết lập một thể chế thương mại đa phương mới tiếp tục GATT và thay thế cho GATT, đó là tổ chức Thương mại thế giới (World Trade Orgnization - WTO) vào ngày 01/01/1995. Đã định dạng: Phông: 14 pt Đã định dạng: Vị trí: Ngang: Giữa, Tương đối với: Lề Đã định dạng: Phông: 14 pt 15 WTO là tổ chức quốc tế lớn nhất đầu tiên trong việc thiết lập các thoả thuận và cam kết chung trên quy mô toàn cầu trong lĩnh vực thương mại và phát triển kinh tế nói chung. Với tư cách là tổ chức thương mại của tất cả các nước trên thế giới, WTO thực hiện mục tiêu đã được nêu trong lời nói đầu của GATT là nâng cao mức sống của nhân dân các nước thành viên, đảm bảo việc làm và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thương mại, sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực của thế giới. WTO có trụ sở tại Geneva và tổng thư ký đầu tiên là ông R.Ruggiero, người Italia. Ngày 31/12/1994, các nước và khu vực tham gia GATT trước đây sau khi đồng loạt tiếp nhận bản Hiệp định đàm phát Urugoay đã trở thành các bên đầu tiên tham gia ký kết điều ước của WTO. Tổ chức thương mại thế giới ra đời đánh dấu sự ra đời của một thể chế mậu dịch đa phương mới, từ đó thương mại quốc tế đã bước vào một thời đại mới - thời đại của WTO. Đã định dạng: Mức 3 1.1.2. Sự cần thiết phải hội nhập kinh tế quốc tế của các nước đang phát triển Trong những năm vừa qua, xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá diễn ra ngày càng mạnh mẽ, với kết quả là sự ra đời và phát triển của hàng loạt các tổ chức khu vực và toàn cầu như ASEAN, APEC, ASEM, EU, NAFTA, WTO... Những tổ chức này khác nhau về quy mô, nguyên tắc và phương thức hoạt động nhưng lại giống nhau ở mục tiêu là tăng cường năng lực và hiệu quả hoạt động thương mại của mỗi nước thành viên cũng như củng cố sức mạnh thương mại toàn cầu. Đặc biệt, sự ra đời của tổ chức thương mại thế giới WTO đã và đang có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với sự phát triển của thương mại thế giới cũng như của mỗi nước thành viên. Tính đến cuối năm 2002, số thành viên WTO đã lên tới 145 nước, chi phối khoảng trên 90% tổng giá trị thương mại thế giới và trong năm 2003 - 2004, Armenia, Nepal và Campuchia sẽ gia nhập WTO, nâng số thành viên của tổ chức này lên thành 148. Như vậy, xét về ảnh hưởng có Đã định dạng: Phông: 14 pt thể coi WTO như là một "Liên hiệp quốc trong lĩnh vực kinh tế thương Đã định dạng: Vị trí: Ngang: Giữa, Tương đối với: Lề Đã định dạng: Phông: 14 pt 16 mại". Các nguyên tắc cơ bản của WTO, như nguyên tắc tối huệ quốc, Đối xử quốc gia đã được áp dụng ở hầu hết các nước trên thế giới, kể cả những nước chưa phải là thành viên của WTO. Nhiều nước sẵn sàng nhân nhượng điều chỉnh hàng loạt các chính sách và kiên trì đàm phán trong một thời gian dài để trở thành thành viên chính thức của tổ chức này. Việc ngày càng có nhiều quốc gia muốn gia nhập WTO đã cho thấy tầm quan trọng của tổ chức này. Thêm vào đó, hội nhập kinh tế quốc tế đang là một xu hướng hiện nay và không có một quốc gia nào muốn ở ngoài cuộc. Do đó, dù muốn hay không thì mỗi một quốc gia đều phải hoà nhập vào quá trình này. Toàn cầu hoá kinh tế đã tạo ra những quan hệ gắn bó, sự tuỳ thuộc lẫn nhau và những tác động qua lại giữa các nền kinh tế. Quá trình tự do hoá thương mại, dịch vụ, đầu tư đã tạo ra những lợi thế mới thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, đẩy mạnh giao lưu kinh tế đồng thời góp phần khai thác lợi thế so sánh của các nước tham gia vào nền kinh tế thế giới. Hầu như không có một quốc gia nào đứng ngoài vòng xoáy của sự hội nhập nếu không muốn tự cô lập và rơi vào nguy cơ tụt hậu. Việc tham gia quá trình hội nhập càng chủ động thì càng có hiệu quả và tránh được nhiều rủi ro. Có thể nhận thấy tính tất yếu khách quan của xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và gia nhập WTO ở một số khía cạnh sau: Thứ nhất, trên toàn thế giới và trong mỗi quốc gia đều đã có sẵn đến một mức nào đó các điều kiện vật chất - kỹ thuật như tiềm lực kinh tế kỹ thuật, sức mạnh quân sự chính trị, nền tảng văn hoá - xã hội … và khi các tiềm lực này phát triển mạnh mẽ, đạt đến một điểm mà tại đó bản thân các tiềm lực này đòi hỏi một môi trường rộng lớn hơn để phát triển. Khi đó, có nguồn lực sẽ di chuyển từ quốc gia này sang các quốc gia bên cạnh và ngược lại. Bất cứ một nền kinh tế nào không thể không tham gia vào quá trình này. Đây chính là những điều kiện cơ bản để các quốc gia tiến hành kinh tế quốc tế. Đã định dạng: Phông: 14 pt Đã định dạng: Vị trí: Ngang: Giữa, Tương đối với: Lề Đã định dạng: Phông: 14 pt 17 Thứ hai, nhìn nhận một cách khách quan, toàn bộ quá trình Toàn cầu hoá là một tất yếu vì lợi ích thu được từ quá trình trên đối với quốc gia là xu hướng chủ đạo. Nếu quốc gia nào không theo xu hướng đó thì chắc chắn sẽ phải chịu tổn thất phát triển to lớn hơn nhiều; là tự chặn con đường tiến lên của mình trong thời đại ngày nay. Vấn đề đặt ra ở đây không còn là cân nhắc xem nên tham gia vào quá trình hội nhập hay không mà là hội nhập như thế nào, theo lộ trình nào để lợi ích thu được từ đó là lớn nhất, hiệu quả cao nhất và rủi ro là nhỏ nhất. Đã định dạng: Mức 3 1.1.3. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế Hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực là một vấn đề mang tính toàn cầu. Với xu hướng toàn cầu hoá như hiện nay, trong khi các quốc gia đang có xu hướng chuyển dần từ đối đầu sang đối thoại thì việc hội nhập là một đòi hỏi cấp thiết, đặc biệt đối với các nước đang phát triển như Campuchia. Hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực là một khái niệm rộng, nhưng trong đó biểu hiện rõ nhất của nó là liên kết kinh tế quốc tế và khu vực, và đây cũng chính là mục tiêu mà các nước đang theo đuổi. Liên kết kinh tế có nhiều loại hình với phạm vi, mức độ và cấp độ liên kết khác nhau, trong đó tác động của nó đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia thể hiện ở 2 khía cạnh chính, đó là: tác động tích cực và tác động tiêu cực.  Tạo lập mậu dịch Đây là tác động tích cực rõ rệt nhất của liên kết kinh tế quốc tế và khu vực đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Quá trình liên kết Đã định dạng: Thụt lề: Trái: 0 cm, Dòng đầu tiên: 1.27 cm, Dấu đầu dòng + Mức: 1 + Căn cách: 1.4 cm Tab sau đó: 2.04 cm + Thụt lề: 2.0 cm, Dừng tab: 1.9 cm, Danh sách ta + Không có tại 2.04 cm + 3.17 cm kinh tế dẫn tới việc xoá bỏ các trở ngại đối với thương mại hoặc đầu tư giữa các quốc gia thành viên trong một khối thương mại. Sự gia tăng quy mô thương mại giữa các quốc gia bắt nguồn từ quá trình liên kết kinh tế khu vực được gọi là tác động tạo lập mậu dịch. Tạo lập mậu dịch mang lại 18 Đã định dạng: Phông: 14 pt Đã định dạng: Vị trí: Ngang: Giữa, Tương đối với: Lề Đã định dạng: Phông: 14 pt cho người tiêu dùng và các doanh nghiệp ở các quốc gia thành viên cơ hội lựa chọn lớn hơn đối với các loại hàng hoá và dịch vụ. Một kết quả khác của tạo lập mậu dịch là người tiêu dùng có thể mua được hàng hoá và dịch vụ với chi phí thấp hơn, do có sự giảm bớt các trở ngại đối với thương mại. Hơn nữa, mức giá thấp hơn đối với mỗi mặt hàng sẽ làm tăng mức cầu đối với các mặt hàng khác vì người tiêu dùng có thể tiết kiệm được nhiều tiền hơn cho việc mua sắm những mặt hàng đó. Sự phân tích ở trên có thể minh hoạ qua ví dụ sau đây trong trường hợp hội nhập dưới hình thức liên minh thuế quan: Giả sử một đơn vị sản phẩm x khi có mậu dịch tự do ở quốc gia 1 là Px = 1 USD và ở phần còn lại của thế giới là Px = 1,5 USD. Dx và sản xuất là đường cầu và đường cung sản phẩm x ở thị trường nội địa của quốc gia 2. Giả sử thêm rằng, quốc gia 2 là một nước nhỏ nên sự ảnh hưởng đến mức giá chung là rất ít, có thể không xét đến. Biểu đồ 1: Liên minh thuế quan - Tạo lập mậu dịch Px ($) Sx 2 1 G A J C H M N S1+T B S1 Dx 0 10 V 30 U 50 Z 60 W X Đã định dạng: Phông: 14 pt Đã định dạng: Vị trí: Ngang: Giữa, Tương đối với: Lề Đã định dạng: Phông: 14 pt 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan