LUẬN VĂN:
Hội nhập AFTA –cơ hội và thách thức với
các doanh nghiệp công nghiệp việt nam
Lời mở đầu
Trong xu hướng quỗc tế hoá đời sống kinh tế thế giới, với những cấp độ toàn cầu
hoávà khu vực hoá, lực lượng sản xuất phát triển vượt ra ngoài phạm vi biên giới của mỗi
quốc gia, sự phân công lao động , quốc tế phát triển cả về bề rộng lẫn bề sâu; vai trò của các
công ty đa quốc gia được tăng cường, việc hình thành các liên kết khu vực ngày một phát
triển, hầu hết các quốc gia đang chuyển sang mô hình kinh tế với việc khai thác ngày càng
triệt để lợi thế so sánh của mỗi nước.Để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của thương mại quốc
tế trên thị trường thế giới ngày nay,các quốc gia trên hành tinh chúng ta trong quá trình phát
triển đã từng bước tạo lập nên các mối quan hệ song phươngvà đa phương, từng bước tham
gia vào các liên kết kinh tế quốc tế với nhiều mức độ khác nhau nhằm đưa lại lợi ích thiết
thực cho mỗi bên.Chính các liên kết kinh tế quốc tế là sự biểu hiện rõ nét của hai xu hướng:
Khu vực hoá và toàn cầu hoá đang diễn ra hết sức sống động và đặc biệt quan trọng trong
những năm gần đây.
Thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ của toàn cầu hoá, khu vực hoá, của hội nhập quốc tế, do vậy
các quốc gia đang phát triển sẽ không có sự lựa chọn nào khác hơn là lựa chọn mô hình
công nghiệp hoá theo hướng hội nhập quốc tế. Phù hợp với xu thế này Việt Nam đã và đang
tham gia tích cực và có hiệu quả cao vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN) và
khu vực mậu dịch tự do ASEAN (ASEAN free trade area: AFTA) Đây là sự kiện và bước
ngoặt đáng ghi nhận. Đồng thời cũng là vấn đề hết sức mới mẽ đôí với các doanh nghiệp
Việt Nam vốn vẫn quen với “vòng tay bảo hộ ”của Nhà Nước. Theo ý kiến của các chuyên
gia, nhiều DNCNVN còn hoạt động như thời bao cấp, kém năng động, phần lớn đến nay
vẫn chưa sẵn sàng cho hội nhập. Do vậy khi tham gia vào AFTA , thực hiện biểu thuế ưu
đãi có hiệu lực chung(CEPT) Tức khi nhà nước phải giảm và tiến tới xoá bỏ hàng rào thuế
quan và phi thuế quan ngăn cách buôn bán giữa Việt Nam và các nước ASEAN thì việc
nghiên cứu , xem xét, thảo luận, phân tích đánh giá những cơ hội, thách thức đối với các
DNCNVN, đồng thời đưa ra nhiều những phương hướng và giải pháp để các DNCNVN
phát huy được thế mạnh, tận dụng được cơ hội của mình cũng như hạn chế những ảnh
hưởng xấu, vượt qua thách thức để tồn tại trong môi trường mới là hết sức cần thiết.
Chương I: Khái Quát Chung Về AFTA
I / Khu vực hoá kinh tế và các hình thức chủ yếu của nó
Quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới đang diễn ra ở những cấp độ khác
nhau với xu hướng toàn cầu hoá đi đôi với xu hướng khu vực hoá.
Toàn cầu hoá kinh tế là hình thành một thị trườngthế giới thống nhất, một hệ thống tài
chính, tín dụng toàn cầu , là việc phát triển và mở rộng phân công lao động quốc tế theo
chiều sâu, là sự mở rộng giao lưu kinh tế và khoa học công nghệ giữa các nước trên quy mô
toàn cầu;là việc giải quyết các vấn đề kinh tế –xã hội có tính chất toàn cầu như vấn đề dân
số,tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ mội trường sinh thái…Trong khi đó , khuvực hoá kinh tế
chỉ diễn ra trong một không gian địa lý nhất định dưới nhiều hình thức như: khu vực mậu
dịch tự do, đồng minh (Liên minh) thuế quan, đồng minh tiền tệ,thị trường chung, đồng
minh kinh tế…Nhằm mục đích hợp tác,hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển, từng bước xoá bỏ
những cản trở trong việc di chuyển tư bản,lực lượng lao động, hàng hoá dịch vụ …Tiến tới
tự do hoá hoàn toàn những di chuyển nói trên giữa các nước thành viên trong khu vực.
ở các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển (hay còn gọi là các quốcgia công
nghiệp phát triển), thì xu hướng tham gia hội nhập vào nềnkinh tế các nước trong khu vực
và bảo hộ mậu dịch ngày càng gia tăng. Việc tham gia mạnh mẽ và rộng rãi vào các khối
liên kết kinh tế khu vực, từng bước tiến tới sự nhất thể hoá cao thông qua các văn bản,hiệp
định kí kết đã đưa lại cho các quốc gia trong liên minh sự ổn định, hợp tác cùng phát triển.
Trong điều kiện đó, các doanh nghiệp của các quốc gia thành viên được hưởng những ưu
đãi về thương mại cũng như phải gánh vác các nghĩa vụ về tài chính, giảm thuế cũng như
các miễn giảm khácv.v..(các quốc gia trong hiệp hội mậu dịch tự do Bắc Mỹ NAFTA ), các
quốc gia trong liên minh châu âu(EU) là những liên kết phản ánh rõ nét các xu hướng trên).
Kinh tế giữa các nước thành viên.Theo thoả thuận hợp tác này, các quốc gia trong liên minh
bên cạnh việc xoá bỏ thuế quan và những hạn chế về mậu dịch khác giữa các quốc gia thành
viên, còn cần phải thiết lập một biểu thuế quan chung của khối đối với các quốc gia ngoài
liên minh ,tức là phải thực hiện chính sách cân đối mậu dịch với các nước không phải là
thành viên.
Thị trường chung: Đây là một liên minh quốctế ở mức độ cao hơn liên minh thuế
quan,tức là ngoài việc áp dụng các biện pháp tương tự như liên minh thuế quan trong trao
đổi thương maị, hình thức liên minh này còn cho phép tư bản và lực lượng lao động tự do di
chuyển giữa các nước thành viên thông qua từng bước hình thành thị trường thống nhất (các
quốc gia trong cộng đồng kinh tế Châu Âu).
Liên minh tiền tệ: Đây là một liên minh chủ yếu trên lĩnh vực tiền tệ. Theo thoả thuận
này các nước thành viên phải phối hợp chính sách tiền tệ thống nhất trong toàn khối, thống
nhất đồng tiền dự trữ và đồng tiền sử dụng chung trong khối.
Liên minh kinh tế: Đây là một liên minh quốc tế với một mức độ cao hơn về sự tự do di
chuyển hàng hoá,dịch vụ, tư bản và lực lượng lao động giữa các quốc gia thành viên, đồng
thời thống nhất biểu thuế quan chung áp dụng cho cả nước không phải là thành viên. Ngoài
ra, các nước thành viên còn thực hiện thồng nhất các chính sách kinh tế; tài chính, tiền
tệ.(Liên minh Châu Âu: EU từ năm 1994 được coi là liên minh kinh tế ).
II/ Xu hướng quốc tế hoá kinh tế thế giới và sự ra đời của AFTA
1. Xu hướng quốc tế hoá kinh tế thế giới
Có thể nói rằng toàn cầu hoá, khu vực kinh tế là xu hướng đang chiếm ưu thế trong nền
kinh tế hiện đại, do đó thương mại quốc tế ngày càng được tự do hoá. Đã xuất hiện nhiều tổ
chức kinh tế manh tính khu vực như EU, APEC, AFTA , Asean…. Trình độ quốc tế càng
cao thì tỷ trọng trao đổi giữa các quốc gia càng lớn. Theo một báo cáo về tình hình kinh tế
thế giới trong giai đoạn 1990-2000 của WB (lấy giá năm 1988 làm chuẩn) thì thị trường thế
giới về các ngành công ngiệp quan trọng nhất tăng từ 6.188 tỷ USD năm 1973 lên 7683 tỷ
năm 1980 và 9852 tỷ USD năm 1988 và dự kiến năm 2000 sẽ tăng lên tới 14522 tỷ USD
trong đó trao đổi giữa các quốc gia chiếm tỷ trọng ngày càng tăng từ 15,3% năm 1973 lên
22,8% năm 1988 và dự kiến đến năm 2000 sẽ là 28,5% .
Điều gì đã làm cho thương mại thế giới phát triển như ngày nay ? Đó là sự bùng nổ của
tự do hoá trương mại khu vực và toàn cầu thể hiện qua việc xuất hiện ngày càng nhiều các
tổ chức kinh tế mang tính khu vực. Tự do hoá thương mại được khởi xướng ở Bắc Mỹ và
Châu Âu. ở Châu á, tiếp sau Nhật Bản là Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kong, Singapo đã theo
đuổi chính sách hướng ngoại, mở cửa và tích cực hội nhập vào thị trường quốc tế ; thực
hiện tự do hoá từng bước . Kết quả bốn nước này đã tăng thu nhập đầu người từ mức 20%
so với các nước công nghiệp vào năm 1965 lên 70% vào năm 1995. Con đường hướng
ngoại,thực hiện tự do hoá thương mại được thực hiện tiếp nối ở Chi Lê, Malayxia và Thái
Lan vào đầu thập niên 70 và sau đó là Trung Quốc vào đầu thập niên 80. Nhiều người cho
rằng khi hội nhập vào kinh tế khu vực sẽ giảm bảo hộ sản xuất trong nước, do đó sẽ tăng
thất nghiệp và giảm tăng trưởng. Lịch sử đã chứng minh không một nước nào có thể đạt tốc
độ phát triển nhanh mà không mở cửa kinh tế, không tích cực hội nhập . Theo WB số người
sống ở mức nghèo khổ ở Châu á (dưới 1USD/ ngày) đã giảm từ 700tr người xuống còn
300tr người năm 1995. Trung quốc nhờ thoả thuận với Mỹ mở cửa thị trường hơn nữa và
chuẩn bị ra nhập WTO sẽ làm cho thu nhập quốc dân tăng thêm 30% năm nhờ vậy tăng
thêm 12 triệu việc làm.
Rõ ràng xu hướng khu vực hoá Kinh tế là tất yếu. Nó mang lại những lợi ích kinh tế to
lớn cho cả người sản xuất và người tiêu dùng trong các nước thành viên . Một quốc gia nào
đó gia nhập các nước thực hiện ưu đãi mậu dịch thường đưa lại những lợi ích chủ yếu sau
đây:
Một là, tạo lập quan hệ mậu dịch giữa các nước thành viên, mở rộng hơn nữa khả năng
xuất nhập khẩu hàng hoá của các nước trongliên minh với các nước, các khu vực khác trên
thế giới. Cũng trong điều kiện này mà tiềm năng kinh tế của các nước thành viên được khai
thác một cách có hiệu quả. Chính việc tạo lập mậu dịch tự do hội nhập khu vực đã làm tăng
thêm phúc lợi thông qua việc thay thế các ngành, trước hết là công nghiệp của các nước chủ
nhà có chi phí cao (lãng phí nguồn lực) bằng những ngành có chi phí thấp hơn (tức có hiệu
quả hơn) của những quốc gia nhận được sự ưu đãi. Cũng trong điều kiện này, lợi ích của
người tiêu dùng cũng được tăng lên nhờ hàng hoá của các nước thành viên đưa vào nước
chủ nhà luôn nhận được sự ưu đãi. Do đó giá hàng hoá giảm xuống làm cho người dân ở
nước chủ nhà có thể mua được khối lượng hàng hoá lón hơn mức chi phí thấp hơn.
Hai là, Hội nhập khu vực còn góp phần vào việc chuyển hướng mậu dịch. Sự chuyển
hướng này diễn ra phổ biến khi hình thành liên minh thuế quan, vì khi đó các điều kiện buôn
bán giữa các nước thành viên trong liên minh sẽ trở nên thuận lợi hơn, hấp dẫn hơn.
Ngay cả trong trường hợp một nước nào đó trong liên minh tiến hành nhập khẩu những
sản phẩm của các quốc gia ngoài liên minh với giá thấp hơn, nhưng nay được thay thế bằng
nhập khẩu những sản phẩm cùng loại của các quốc gia trong liên minh mà giá cả lại cao hơn
(do được hưởng chính sách ưu đãi thuế quan…) Chính những ưu đãi này giữa các nước
thành viên trong liên minh đã đưa tới sự chuyển hướng mậu dịch nói trên (tức là thay thế
những người cung cấp sản phẩm cùng loại có chi phí thấp hơn nhưng không được hưởng
các chính sách ưu đãi bằng những người cung cấp những sản phẩm với chi phí cao hơn
(kém hiệu quả ) nhưng được hưởng sự ưu đãi của khối.
Có thể đưa ra một ví dụ giản đơn để minh hoạ như sau: Trước đây Singapo thường nhập
cà phê của Braxin với giá thấp hơn của Việt Nam vì giá cà phê cuả Braxin là 1500 USD/ tấn
còn Việt Nam là 1600USD/tấn với mức thuế nhập khẩu cho cả hai trường hợp là 20%.
Nhưng sau khi Việt Nam ra nhập liên minh thuế quan thì bây giờ giá ca phê nhập khẩu từ
Việt Nam không bị đánh thuế nữa và chỉ là 1600 USD/tấn thấp hơn giá cà phê nhập từ
Braxin (1800USD/ tấn) vì có thuế nhập khẩu là 20%. Chính vì vậy, việc nhập khẩu cà phê
của Singapore sẽ chuyển hướng từ thị trường Braxin sang thị trường Việt Nam.
Cần phải nhận thấy rằng việc chuyển hướng mậu dịch chỉ đưa lại lợi ích cục cho các
quốc gia trong nội bộ liên minh. Còn xét một cách tổng thể trên phạm vi thế giới thì liên
minh thuế quan cục bộ đã làm giảm phúc lợi chung của thế giới nếu như liên minh đó đưa
tới xu hướng khuyến khích các ngành sản xuất kém hiệu quả.
Như vậy, những tác động tích cực và tiêu cực do thương mại đưa lại là sự kết hợp chặt
chẽ của sự thay đổi cả trong lĩnh vực sản xuất và trong lĩnh vực tiêu dùng. Đó là sự thay thế
của các ngành sản xuất trong nước bằng ngành hàng của các nước đối tác trong liên minh
(tác động về sản xuất) và sự thay thế tiêu dùng hàng nội địa bằng hàng của các nước đối tác
(tác dụng với tiêu dùng).
Tác động tổng thể đối với các nước thành viên phụ thuộc chủ yếu vào mức độ tác động
tích cực và tiêu cực mà thương mại tạo ra. Nếu những tác động tích cực đưa lại những lợi
ích lớn hơn những lợi ích tổn hại do tác động tiêu cực gây ra đối với một nước thành viên
nào đó, thì khi đó hiệp định mậu dịch tự do xét một cách tổng thể là có lợi đối với quốc gia
thành viên đó. Tổng quát lại có thể khẳng định rằng hội nhập vào khu vực, tham gia tích cực
vào khu vực mậu dịch tự do chỉ mang lại hiệu quả cao nếu những người sản xuất có hiệu
quả nhất (chi phí thấp nhất) là các nước thành viên hoặc khi hiệp định về mậu dịch không
làm giảm đi những hoạt động buôn bán giữa các nước thành viên với các khu vực và các
quốc gia còn lại trên thế giới.
Ba là, hội nhập vào khu vực, thực hiện tự do hoá thương mại tạo điều kiện cho mỗi
quốc gia thành viên có điều kiện thuận lợi trong việc tiếp thu vốn, công nghệ, trình độ quản
lý,… từ quốc gia khác trong liên minh. Về lâu dài tự do trương mại góp phần tăng năng xuất
lao động , tăng trưởng kinh tế. Tự do hoá thương mại thúc đẩy tăng trưởng kinh té bằng hai
cách: tăng xuất khẩu và tăng năng xuất cận biên của hai yếu tố sản xuát là vốn và lao động.
Trước hết, việc đâỷ mạnh xuất khẩu sẽ góp phần tăng hiệu quả sản xuất của từng quốc gia,
điều đó được thể hiện:
- Thực hiện tự do hoá thương mại đang gây ra áp lực lớn đối với mỗi quốc gia trong
liên minh trong các ngành sản xuất hàng xuất khẩu, buộc các ngành phải phấn đấu giảm giá
hoặc giữ giá ở mức tương đối thấp. Muốn vậy các ngành này phải nhanh tróng thay đổi
công nghệ, áp dụng rộng rãi những kinh nghiệm quản lý, những thành tựu mới và hiện đại
của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ.
- Trong điều kiện hội nhập, các quốc gia thành viên đang có xu hướng tập trung đầu
tư và phát triển các ngành sản xuất hàng xuất khẩu có hiệu quả nhất và phát huy tối ưu
những lợi thế về nguồn lực của mình.
- Việc hội nhập vào khu vực sẽ cho phép mỗi quốc gia thành viên năng cao hiệu quả
xuất khẩu theo quy mô và do đó thúc đẩy tăng trưởng sản xuất.
- Đẩy mạnh xuất khẩu có hiệu quả tạo điều kiện thuận lợi cho việc gia tăng vốn tích
luỹ và do đó thúc đẩy tái sản xuất mở rộng không ngừng.
- Tăng cường xuất khẩu góp phần tạo lập cân bằng cán cân thanh toán theo hướng
tích cực, tăng dự trữ ngoại tệ cho quốc gia đây là điều kiện quan trọng để giảm lãi xuất cho
vay khuyến khích người sản xuất kinh doanh vay vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, thúc
đẩy tốc độ tăng trưởngvà phát triển kinh tế… Tiếp đến việc tăng hiệu quả sản xuất nhờ nâng
cao năng xuất cận biên của hai yếu tố sản xuất cho phép mỗi quốc gia thành viênkhông cần
phải thay đôỉ cơ cấu vật chất của sản xuất, thậm chí không tăng thêm chi phí sản xuất mà
vẫn đạt hiệu quả kinh tế cao.
Tuy nhiên bất cứ vấn đề gì cũng có tính hai mặt của nó. Việc hội nhập kinh tế khu
vực cũng có mặt trái của nó, cũng có những thách thức mà một quốc gia phải lường trước,
tính toán để hạn chế , vượt qua. Đó là :
- Các nước thành viên phải nhanh chóng điều chỉnh lại các cân đối trong nền kinh tế
trên cơ sở xoá bỏ những hạn chế về thương mại như thuế quan, hàng rào phi thuế quan,
trong đó phải kể đến sự điều chỉnh cơ cấu ngành, cơ cấu vùng,cơ cấu giá và tỷ giá hối đoái.
- Vấn đề việc làm và giải quyết thất nghiệp .
- Cải cách hệ thống tài khoá, đặc biệt là những trường hợp thuế quan mậu dịch có tỷ
trọng đáng kể trong nguồn thu ngân sách và do đó làm nảy sinh những khó khăn cho việc
cân đối ngân sách của chính phủ.
- Cần phải thiết lập khuôn khổ pháp lý chung (luật chơi chung) đối với các nước
thành viên trước hết cần giải quyết một số vấn đề có liên quan tới các quy định thuế quan,
hải quan, chuẩn mực lao động, môi trường sinh thái, chất lượng sản phẩm.
- Vấn đề giải quyết công bằng, bình đẳng trong xã hội và giữa các nước trong nội bộ
khu vực. Khả năng thu được lợi ích tối đa của mỗi quốc gia khi hội nhập vào nền kinh tế các
nước trong khu vực. Do diều kiện cụ thể của mỗi nước, do trình độ phát triển kinh tế còn
khác nhau, các doanh nghiệp tham gia hoạt động trong điều kiện hội nhập cũng không giống
nhau nên mức độ thu lợi cũng có thể khác nhau. Chính vì vậy việc điều hoà các lợi ích giữa
các quốc gia và trong nội bộ quốc gia xét cả ở trên tầm vĩ mô và vi mô trở nên cực kỳ quan
trọng.
2. Sự ra đời của AFTA .
Xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế thế giới đã đặt ra những thử thách to
lớn không thể vượt qua với hiệp hôị các quốc gia Đông Nam á. Nếu không có sự cố gắng
chung của toàn hiệp hội , đó là sự xuất hiện của những tổ chức hợp tác khu vực như
EU,NAFTA mà asean e ngại sẽ trở thành các khối thương mại khép kín. Do đó sẽ làm cho
hàng hoá của asean vấp phải những trở ngại khi thâm nhập các thị trường này. Mặt khác
aean đang mất dần lợi thế so ánh về tài nguyên thiên nhiên và nguồn lực để thu hút đầu tư
nước ngoài so với Trung Quốc, Nga và các nước Đông Âu. Kinh tế asean tăng trưởng với
nhịp độ cao nhưng vẫn phụ thuộc vào nguồn vốn bên ngoài. Năm 1992 theo sáng kiến của
Thái lan , hội nghị thượng đỉnh các nước asean họp tại Singapo đã quyết định thành lập khối
mậu dịch tự do Asean: AFTA với ba mục tiêu cơ bản:
Tự do hoá thương mại Asean bằng việc loại bỏ các hàng rào thúê quan trong
nội bộ khu vực và cuối cùng là các rào cản phi thuế quan .
Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc đưa ra một khối thị
trường thống nhất.
Làm cho Asean thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đang thay đổi
đặc biệt là phát triển các thoả thuận thương mại khu vực trên thế giới.
Để biến Asean thành khu vực mậu dịch tự do và thực hiện các mục tiêu của AFTA thì
các nước thành viên đã kí kết Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung CEPT. Đây là
động lực quan trọng nhất. Nội dung của CEPT là trong vòng 10 năm (19 93-2003) giảm
thuế quan trong thương mại nội bộ Asean xuống còn từ 0- 5% đối với sáu nước thành viên
cũ Asean vào năm 2006 đối với Việt Nam và muộn hơn với Lào, Campuchia đồng thời loại
bỏ tất cả các hạn chế về định lượng và các hàng rào phi thuế quan. Để thực hiện chương
trình giảm thuế này, toàn bộ các mặt hàng trong doanh mục biểu thuế quan của mỗi nước
được chia vào 4 danh mục sau:
1. Danh mục các sản phẩm giảm thuế gồm các mặt hàng được đưa vào cắt giảm
thuế quan ngay với lịch trình giảm nhanh và giảm bình thường.
2. Danh mục sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế gồm các mặt hàng tạm thời sẽ
chưa phải giảm thuế và sau một thời gian nhất định các quốc gia phải đưa toàn bộ các mặt
hàng này vào danh mục giảm thuế.
3. Danh mục sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm, các mặt hàng trong
doanh mục này có thời hạn cắt giảm thuế quan muộn hơn, cụ thể là năm 2010 hoăc muộn
hơn nữa đối với mặt hàng nhạy cảm cao.
4. Danh mục loại trừ hoàn toàn gồm những sản phẩm không tham gia Hiệp định
CEPT. Đây là có ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, đạo đức…
Bên cạnh việc cắt giảm thuế quan ,CEPT còn quy định việc xoá bỏ hạn chế về số
lượng nhập khẩu , các rào cản phi thuế quan khác và lĩnh vực hợp tác trong lĩnh vực hải
quan.
Hiệp định CEPT áp dụng mọi sản phẩm chế tạo kể cả sản phẩm nông sản. Muốn được
hưởng ưu đãi giảm thuế trong khuôn khổ CEPT cần thoả mãn hai điều kiện sau.
1. Phải là sản phẩm nằm trong doanh mục sản phẩm giảm thuế và được hội
đồng AFTA xác nhận.
2. Các sản phẩmphải có tối thiểu 40%giá trị được chế tạo từ các nước thành
viên Asean.
3. Sản phẩm đó phải nằm trong danh mục cắt giảm thuế của cả nước nhập và
nước xuất khẩu, và phải có mức thuế quan(nhập khẩu)bằng hoặc thấp hơn 20%.
III. Sự cần thiết gia nhập AFTA của Việt Nam.
Chuyển sang nền kinh tế mở, Việt nam đanh từng bước hội nhập vào xu thế tự do
hoá thương mại toàn cầu, trong đó việc tham gia AFTA của VN được coi là bước khởi đầu
quan trọng nhất, có thể ví như cuộc diễn tập toàn diện đầy đủ để chuẩn bị gia nhập diễn đàn
hợp tác Châu á - TBD cũng như tổ chức thương mại thế giới WTO.
Ngày 28.7.1995, VN trở thành thành viên chính thức, với tư cách là thành viên của
hiệp hội, tháng 12 năm 1995 tại hội nghị thượng đỉnh các nước Asean lần thứ 5, VN đã thực
hiện chương trình ưu đãi về thuế quan có hiệu lực chung CEPT bắt đầu 1/1/1996 công bố
danh mụcvà tiến hành cắt giảm thuế quan cho cả lộ trình 1996-2000.
Việt Nam tham gia Asean, thực hiện AFTA/ CEPT trong hoàn cảnh kinh tế không
giống các nước thành viên khác. Hiện nay Việt Nam đang ở giai đoạn đầu của công cuộc
CNH, HĐH đất nước. Nền kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu rất nhiều so với các nước trong
khu vực Thu nhập quốc dân của nước ta còn rất thấp, tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế còn rất
nhỏ bé, cơ cấu kinh tế còn rất lạc hậu , mặc dù công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao 18,7%
năm 2000 so với 1999, nhưng tỷ trọng ngành Công Nghiệp trong toàn bộ nền KTQD còn
thấp. Ngành công nghiệp chế biến chiếm 80,5% toàn ngành Công nghiệp và chiếm 18,7 %
tổng sản phẩm quốc dân.
Kim ngạch xuất khẩu còn nhỏ bé. Tổng kim ngạch XK hai chiều bình quân của giai
đoạn 1996-2000 là 22,5 tỷ USD. Tỷ trọng XK trong GDP bình quân 1996 -2000 là 37,6%.
Tình hình xuất khẩu thời kì 1995- 2000
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Kim ngạch
5448
7255
9185
9361
11523
14308
Tốc độ tăng(%)
34,4
33,2
26,6
21,9
23,1
23,9
Nguồn niên giám thống kê 1998 và báo cáo của Bộ Thương Mai
Tỷ lệ hàng sơ chế trong tổng giá trị xuất khẩu vẫn cao 54,8% trong khi một số nước
Asean, tỷ lệ hàng chế biến hay đã tinh chế thường cao hơn như Indônêxia 52%, Malayxia
85%, Philippin 75%, Singapo 80%, Thái Lan 71%.
Đặc biệt khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới
thường thấp do chất lượng thấp, giá cả cao, mẫu mã không phong phú hệ thống pháp luật
yếu và chưa tương thích với luật pháp của các quốc gia trong khu vực, đội ngũ cán bộ còn
yếu kém.
Trong hoàn cảnh như vậy ,Việt Nam tham gia vào AFTA là một tất yếu không những vì
Việt Nam đã là thành viên của ASEAN mà còn do những tác động tích cực của nó đối với
sự phát triển kinh tế của đất nước ta. Chính những thực trạng khó khăn trên của Việt Nam
lại là cơ hội để Việt Nam tham gia AFTA
Hội nhập AFTA là điều kiện để Việt Nam đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng CNH, HDH, phấn đấu đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp vào
năm 2002.
Do Việt Nam phải cắt giảm thuế theo hiệp định CEPT nên giá cả hàng hoá Asean nhập
vào Việt Nam sẽ trở nên rẻ làm tăng số dư của người tiêu dùng.
Hội nhập AFTA sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu hàng hoá sang các nước
Asean vì hàng rào của họ cũng được cắt giảm thuế bảo hộ như của mình.
Một thị trường rộng lớn với đòi hỏi không quá cao về chất lượng sẽ được mở ra cho
các DNVN, thị trường tiêu dùng được mở rộng ra là một yếu tố giúp VN huy động tiềm
năng lao động và tài nguyên dồi dào của mình và tăng xuất khẩu kể cả đối với các hàng hoá
xuất khẩu sang thị trường ngoài Asean thì lợi ích mà AFTA mang lại cho Việt Nam là giảm
giá thành sản xuất nhờ mua được vật tư đầu vào với gía hạ hơn từ các nước Asean. Chính
điều đó làm cho Việt Nam hấp dẫn hơn trong việc thu hút đầu tư nước ngoài.
Trước sự cạnh tranh khốc liệt khi nhà nước giảm thuế theo CEPT sẽ buộc cả phiá nhà
nước và phía các doanh nghiệp công nghiệp cố gắng hội nhập, có những thay đổi trong tư
duy, trong chính sách , chiến lược để tạo ra môi trường pháp lý, kinh doanh, đầu tư hiệu quả
hơn, học hỏi, tiếp thu nâng cao trình độ để có thể tham gia vaò cuộc cạnh tranh đầy khốc
liệt.
Hội nhập AFTA sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam hình thành mở rộng hơn nữa các mối
quan hệ giữa nền kinh tế Việt Nam với khuôn khổ nền kinh tế chung của khu vực và thế
giới. Đây chính là cơ hội nữa để nền kinh tế Việt Nam bắt kịp với những xu hướng chung
của khu vực và thế giới, tìm ra tiếng nói chung, chia sẻ trách nhiệm với cộng đồng quốc tế
mà trước hết là với các nước trong khối mậu dịch tự do Asean, mở ra một thế đứng vững
vàng hơn trong quan hệ của Việt Nam với các liên minh quốc tế khác, đặc biệt là với liên
minh Châu Âu, khu vực Mậu dich tự do Bắc Mỹ,NAFA , WTO, APEC..
Chương II: hội nhập AFTA –cơ hội và thách thức với các doanh nghiệp công nghiệp
việt nam
I. Thực trạng, vị thế của các DNCNVN trong khu vực
1/ Thực trạng :
a / Thành tựu: Từ khi nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế thị trường, nhà
nước thực hiện các chính sách mở cửa thì nền kinh tế nói chung và các DNCNVN nói riêng
đã đạt được một số thành tựu đáng mừng.
Tổng kim ngạch xuất khẩu hai chiều bình quân của giai đoạn 1999-2000 là 22,5 tỷ
USD so với 7,5 tỷ USD trong thời kỳ 1990- 1995. Tỷ trọng xuất khẩu trong GDP bình quân
tăng từ 26,4% trong 1990-1995 lên 37,6% năm 1996-2000. Chúng ta dã mở rộng quan hệ
quốc tế , kí hiệp định thương mại với 60 nước (đặc biệt mối quan hệ với Mỹ vào tháng
7/2000). Năm 1995 chúng ta có quan hệ buôn bán với trên 100 nước và vùng lãnh thổ, nay
là 170 nước và khắp các châu lục. Công nghiệp có mức tăng trưởng cao đạt 15,7% năm
2000 so với 1999, khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 9,5%, khu vực doanh nghiệp ngoài
quốc doanh tăng 11,5% , khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 21,8%.
Các doanh nghiệp nhà nước đã được cải tổ, sắp xếp lại sản xuất nên số doanh nghiệp
nhà nước giảm từ 1993 năm 1995 xuống còn 1786 năm 2000. Vốn cũng được củng cố tăng
cường, nguồn vốn tăng 113% từ 59798 tỷ năm 1995 lên 127594 tỷ năm 2000.
Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã được tăng lên về số lượng , giai
đoạn 1996-2000 tăng thêm hơn 500 doanh nghiệp .Vốn đầu tư tăng 28,5%/ năm.
Khu vực tư nhân cũng ngày càng phát triển cả về số lượng và phạm vi hoạt động.
Thị trường trong nước thì các doanh nghiệp của ta ngày càng củng cố được vai trò và
chỗ đứng của mình, dần dần khôi phục lòng tin đối với khách hàng thông qua chỉ tiêu chất
lượng ngày càng được nâng cao, giá thành giảm xuống, mẫu mã phong phú phù hợp với thị
hiếu, nhu cầu khách hàng trong nước và quốc tế.
b/ Hạn chế:
Tuy nhiên, đó chỉ là những thành tựu bước đầu nhỏ bé so với các nước trong khu
vực, chúng ta vẫn còn một khoảng cách khá xa cần vượt qua. Các DNCNVN còn yếu thế và
lực. Cơ sở hạ tầng , máy móc thiết bị của các doanh nghiệp còn thiếu đồng bộ và lạc hậu.
Ngoài các xí nghiệp do nước ngoài đầu tư, các xí nghiệp công nghiệp trong nước chỉ có
khoảng được coi là trang thiết bị vào loại tương đối tiên tiến, tốc độ đổi mới thiết bị công
nghệ còn khiêm tốn, khoảng 10 –11%. Điều này đã hạn chế rất nhiều đối với nâng cao chất
lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất. Nhiều sản phẩm sản xuất trong nước có giá cao hơn
sản phẩm cùng loại nhập khẩu từ 20 –40%.
Các DNCNVN hiện nay vẫn chưa coi trọng vấn đề nâng cao chất lượng sản phẩm để
tăng klhả năng cạnh tranh. Đến giữa năm 1999, cả nước mới có trên 100 doanh nghiệp được
cấp chứng nhận tiêu chuẩn chất lượng ISO 9000, trong đó dnnn chiếm 70%, riêng vùng kinh
tế trọng điểm Bắc Bộ mới có 16 xí nghiệp. Phần nhiều các DNCNVN phải dựa vào đối tác
nước ngoài biểu trưng, thiết kế sản phẩm, quy trình công nghệ tiếp thị và phân phối sản
phẩm.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh chưa cao và đang có xu hướng giảm dần. Theo báo cáo
của phòng Thương Mại Việt Nam số nợ phải trả của DNNN bằng 12% vốn của Nhà nước
trong khi nợ phải thu chiếm 60% nợ phải trả. Mặt khác qui mô vốn của DNNN rất nhỏ, số
DNNN có vốn dưới 5 tỉ đồng chiếm 65,4 %, vốn trên 10 tỉ đồng chỉ có 20,89%.
Những khó khăn về vốn về thị trường cộng với sự yếu kém, lỏng lẻo, công kềnh của
bộ máy quản lý doanh nghiệp đã dẫn tới tình trạng thua lỗ. Hiệu quả sử dụng vốn rất thấp có
đến hơn 50% số DNNN có tỉ suất sinh lời trên tổng số vốn thấp hơn lãi suất tiết kiệm.
Hơn nữa, các DNNN đang gặp khó khăn trong quá trình chuyển đổi cơ cấu, phần lớn
các sản phẩm kém khả năng cạnh tranh do chí phí tăng cao (nhập nguyên nhiên liệu ,công
suất sử dụng máy móc thấp, kỹ năng quản lý, trình độ công nhân có tay nghề cao và khả
năng tiếp thị còn hạn chế) . Mặt khác, các DNNN mới tham gia vào quá trình hội nhập kinh
tế khu vực và Thế giới vào đầu những năm 90, do đó gặp nhiều khó khăn về kinh nghiệm
tiếp cận thị trường cũng như các thông tin cần thiết liên quan đến quá trình hội nhập. Trong
khi đó các DNVN cho đến nay vẫn chưa xác định được nội dụng hoạt động và chiến lược
kinh doanh của doanh nghiệp trước sự cọ sát với các đối tác doanh nghiệp trong khu vực.
c/ Nguyên nhân :
Các hạn chế trên một phần là do yếu tố khách quan đó là tác động của cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ khu vực Đông Nam á và Châu á đã làm giảm hẳn nguồn vốn đầu tư
và dự án đầu tư nước ngoài, hàng xuất khẩu bị chững lại, nguyên nhân chính là từ phía chủ
quan của doanh nghiệp và từ luật đầu tư và hệ thống pháp luật còn kém hấp dẫn sự chú ý
của các nhà đầu tư. Dù đã có những sửa đổi để phù hợp với luật đầu tư của khu vực và thế
giới nhưng điều kiện ưu đãi ở một số lĩnh vực chưa được hình thành đồng bộ, môi trường
hợp tác cạnh tranh chưa được tạo lập đầy đủ, còn tồn tại nhiều hình thức hành chính bao cấp
mang tính xin cho với thủ tục phiền hà thiếu tính công khai. Các DNQD chưa thực sự muốn
bỏ lớp bảo vệ bên ngoài, chưa thực sự tiếp nhận cơ chế thị trường một cách tích cực, thiếu
năng động sáng tạo ở mọi lĩnh vực, sự trì trệ trong cơ chế thị trường sẽ không có sự tồn tại.
Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì vốn và qui mô nhỏ, sợ thất bại chưa dám đầu tư sản
xuất kinh doanh với những cơ hội đem lại lợi nhuận lớn và độ rủi ro cao, thực sự chưa đáng
coi là nhà kinh doanh của thời kỳ hiện đại.
2/Vị thế hiện nay của các doanh nghiệp CNVN trong khu vực,
2.1/ Về mậu dịch:
Trong thời gian trước đây, Việt Nam chủ yếu buôn bán với các nước thuộc Liên Xô
cũ và Đông Âu. Hàng hoá nhập khẩu thường là nông sản thô thông qua các nghị định thư kí
kết giữa các chính phủ. Toàn bộ kim ngạch xuất nhập khẩu nằm trong tay các DNNN.
Từ khi thực hiện chính sách đổi mới vào nằm 1996, số lượng các bạn hàng buôn bán
của Việt Nam được tăng lên đáng kể. Quan hệ thương mại Việt Nam Asean tăng mạnh với
tốc độ khoảng 27%/năm và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong cán cân thương mại.
Thương mại Việt Nam – Asean chiếm tới 1/3 kim ngạch ngoại thương của Việt Nam trong
đó xuất khẩu chiếm
và nhập khẩu chiếm 1/3. Quan hệ Thương mại khu vực vẫn nằm
trong tay các DNNN là chủ yếu.
Các mặt hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là chủ yếu là nông sản
thô, thực phẩm chiếm 48% , nhiên liệu chiếm 34% và các mặt hàng chế tạo chiếm 18% (số
liệu năm 1994) nghĩa là khi tham gia vào CEPT, các doanh nghiệp Việt Nam được hưởng
ưu đãi về thuế quan ít hơn so với các doanh nghiệp các nước trong khu vực.
Các mặt hàng xuất khẩu Việt Nam sang Asean bao gồm : dầu thô, đậu,cao su,chè, ngô,
hạt điều, tiêu, rau quả tươi,thuỷ sản, thép, gỗ ,than, thiếc, hàng thủ công. Như vậy trong số
các sản phẩm này, có rất ít các sản phẩm được coi là hàng công nghiệp chế biến - mặt hàng
được ưu đãi thuế quan ở mức cao và tiến hành nhanh nhất. Các mặt hàng này chỉ có tính
chất bổ xung cho cơ cấu kinh tế của các quốc gia ASEAN chứ không có vị thế cạnh tranh
thực sự.
Khoảng cách giữa các mức thuế hiện hành và mức thuế dưới 5% sau khi thực hiện
AFTA đối với những mặt hàng công nghiệp chế biến mà một số doanh nghiệp Việt Nam có
thể tăng cường xuất khẩu trong tương lai gần như đồ nhựa, da, cao su, dệt may, đá quý,…
không lớn. Ngược lại, các mặt hàng này dễ bị ASEAN chiếm lĩnh ngay trên thị trường nội
địa Viêt Nam khi thuế nhập khẩu ở mức thấp. Các nhà sản xuất đồ nhựa của Việt Nam có
thể rơi vào tình trạng như cách đây vài năm khi đồ nhựa Thái Lan tràn ngập thị trường với
chất lượng tốt, kiểu dáng phong phú và giá thành tương đối rẻ. Mức độ cạnh tranh giữa các
hàng hoá của ASEAN trên thị trường nội địa sẽ càng trở nên gay gắt hơn khi AFTA được
thực hiện đầy đủ.
Hàng hoá nhập về từ ASEAN chủ yếu dùng làm đầu vào cho doanh nghiệp sản xuất và
hàng công nghiệp như: nhôm, xi măng, hoá chất, hàng điện tử, phân hoá học, thuốc chữa
bệnh, giấy, xăng dầu, các phương tiện vận chuyển. Hơn một nữa trong số này có mức thuế
thấp hơn 5% và 857 mặt hàng đã được đưa vào danh sách tham gia CEPT kể từ 1/1996. Sự
tham gia đó chỉ ảnh hưởng rất nhỏ tới sản xuất trong nước cũng như buôn bán.
Đối với quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước ngoài ASEAN thì lợi ích thu
được đối với các doanh nghiệp sản xuất là giảm giá thành sản xuất nhờ mua được vật tư đầu
vào với giá hạ hơn từ các nước ASEAN góp phần tăng cường khối lượng hàng hoá xuất
khẩu. Tuy nhiên các nướcASEAN cũng xuất khẩu ra thị trường thế giới những sản phẩm
tương tự Việt Nam cho nên họ cũng tăng sức cạnh tranh khi ra nhập AFTA.
2.2/ Về sản xuất.
Như đã đề cập ở trên, hàng công nghiệp chế tạo xuất khẩu của Việt Nam chỉ chiếm
18% tổng kim ngạch xuất khẩu, một con số rất khiêm tốn nếu đem so sánh với con số tương
ứngcủa các nước ASEAN khác. Các mặt hàng công nghiệp chế tạo của Việt Nam hầu như
chưa có mặt trên thị trường ASEAN, ngược lại hàng hoá công nghiệp chế tạo của ASEAN
đã thâm nhập khá sâu vào Việt Nam. Trong số 15 nhóm hàng giảm thuế nhanh, các doanh
nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới khó có thể có sản phẩm để
xuất khẩu. Hàng hoá do các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất vừa chưa có chất lượng được
tin cậy lại chưa gây được ấn tượng về hình thức, kiểu dáng. Ngành công nghiệp điện tử non
trẻ của Việt Nam phải đương đầu với cú sốc mạnh khi có sự nhập khẩu ồ ạt các sản phẩm
điện tử ASEAN-một trong những sản phẩm mà các nước ASEAN mạnh hơn chúng ta rất
nhiều và rất chú trọng khai thác thị trường hơn 80 triệu dân của Việt Nam.
Các Doanh Nghiệp Việt Nam có thế mạnh ở những ngành sử dụng nhiều lao động do
tiền lương ỏ Vệt Nam tươngđối thấp so với các nước ASEAN khác. Tuy nhiên sản phẩm
của các ngành này lại không được tiêu thụ chủ yếu ở ASEAN mà xuất sang các khu vực
khác. Do vậy, việc tham gia AFTA chưa có tác động quan trọng đến các doanh nghiệp sản
xuất những mặt hàng sử dụng nhiều lao động
II> Cơ hội và thách thức đối với các DNCNVN khi hội nhập AFTA
1/ Cơ hội.
Quan điểm của DNVN hiện nay cho rằng tham gia vào AFTA, DNVN sẽ gặp nhiều
khó khăn, thách thức hơn là cơ hội . Lý giải điều này bắt nguồn từ thực trạng yếu kém của
DNCNVN cũng như năng lực cạnh tranh của DNCNVN trước các đối tác ASEAN, đặc biệt
là ASEAN 5. Tuy nhiên nếu xem xét nội dung AFTA đối chiếu vào hoạt động của
DNCNVN có thể thấy nếu các DNCNVN có những chiến lược, giải pháp đúng đắn có thể
tận dụng được những cơ hội thuận lợi.
Thứ nhất, AFTA tạo điều kiện thuận lợi mở cửa thị trường hàng hoá dịch vụ xuất khẩu
cho các DNCNVN hội nhập vào thương mại khu vực.
Nội dung của AFTA đã đưa lại những nguyên tắc về xoá bỏ các hàng rào thuế quan và
phi thuế quan, thực hiện nguyên tắc không phân biệt đối sử trong thương mại, các tranh
chấp thương mại được giải quyết công bằng, thực hiện bình đẳng trong đàm phán. Thông
qua các nguyên tắc này, khi các doanh nghiệp Việt Nam tham gia AFTA , các sản phẩm sẽ
được hưởng thuế suất ưu đãi thấp hơn cả thuế suất tối hậu quốc (MFN) mà các nước
ASEAN giành cho các nước thành viên WTO, tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hoá Việt
Nam có thể thâm nhập thị trường các nước ASEAN.
Thực tế thương mại hai chiều giữa Việt Namvà ASEAN kể từ khi Việt Nam là thành
viên chính thức của ASEAN(1995) và khi Việt Nam tham gia AFTA (1996) đến nay cho
thấy các sản phẩm đóng góp của DNCNVN trong thương mại nội bộ khu vực tăng lên
Năm
XK(tỷ USD)
NK(tỷ USD)
Tổng số(tỷ USD)
1995
1,112
2,378
3,490(23,9%)
1996
1,364
2,788
4,152(33,4%)
1997
1,911
3,166
5,077(25,5%)
1998
2,372
3,749
6,122(29,1%)
1999
2,463
3,288
5,751(28,4%)
Nguồn (Vụ hợp tác đa biên, Bộ thương mại, tháng 5-2000 )
Thứ hai, thông qua AFTA, các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam có cơ thuận lợi
mở rộng hợp tác đầu tư, chuyển giao công nghệ, mua được nguồn nguyên liệu đầu vào rẻ
hơn từ các nước ASEAN, tận dụng lợi thế sẵn có về nhân công, tài nguyên thiên nhiên trong
nước nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh với các đối thủ cạnh tranh.
Khi môi trường thương mại nội bộ khu vực ngày càng tự do, cũng có nghĩa là mức
độ hội nhập giữa các thành viên ngày càng tăng lên: Các hình thức liên kết khác như đầu tư
nội bộ ASEAN (AIA), hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO), tài chính , năng lượng,
GWT… đang tạo điều kiện cho các DNCNVN một ’’sân chơi” rộng để có khả năng nâng
cao hiệu quả và chất lượng sản phẩm. Mặt khác, do có đảm bảo bằng cam kết đa phương
nên các nhà đầu tư ASEAN và nước ngoài yên tâm đầu tư và chuyển giao công nghệ tại thị
trường Việt Nam cũng như các DNCNVN đầu tư ra nước ngoài cũng được đối sử binh
đẳng. Hơn nữa, các DNCNVN có thể hạ giá thành sản phẩm do mua được nguyên liệu đầu
vào rẻ hơn từ các nước ASEAN. Đây là cơ hội không dễ có được đối với bất cứ một doanh
nghiệp nào. Những khó khăn do khan hiếm nguyên nhiên vật liệu cho sản xuất sẽ được loại
bỏ khi gia nhập AFTA. Nếu các DNCNVN tận dụng được cơ hội này, họ có thể vươn lên
cạnh tranh tốt với các đối thủ ngoài khu vực.
Tính trong 10 năm qua (1989- 1999) phần FDI từ các nước ASEAN vào Việt Nam
ngày càng tăng chiếm 27,8% tổng số FDI tại Việt Nam. Bằng nguồn vốn này , ASEAN 5 đã
đóng góp 17,5% doanh thu; 11,4% giá trị xuất khẩu; 13,4% việc làm; 19,3% thuế doanh thu;
13,2% thuế lợi tức; 18,9% thuế xuất nhập khẩu và 50,9% các loại thuế khác so với tổng các
chỉ tiêu tương ứng FDI tại Việt Nam (Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư MPT, 12-1999)
Thứ ba, khi tham gia AFTA, các DNCNVN có khả năng rút ngắn khoảng cách tụt hậu,
tranh thủ và bổ sung các lợi thế sẳn có giữa các doanh nghiệp trong nội bộ khu vực.
Mặc dù có sự trùng lặp và cơ cấu ngoại thương giữa Việt Nam và ASEAN nhưng có
nhiều lĩnh vực các DNCNVN có thể khai thác từ thị trường ASEAN như Việt Nam có thế
mạnh về các sản phẩm nông sản, hàng dệt, may mặc trong khi đó ta cũng có nhu cầu nhập
khẩu các thiết bị máy móc hạng trung bình, các sản phẩm hoá chất, bán thành phẩm từ các
nước ASEAN với giá thấp hơn so với các khu vực khác trên thế giới. Nếu tranh thủ được
các lợi thế này các DNCNVN sẽ có lợi do tăng được khả năng cạnh tranh với các đối tác
bên ngoài ASEAN về giá cả, chi phí vận chuyển. Ngoài ra trong quá trình hội nhập kinh tế,
các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm quản lý, tiếp thu kỹ
thuật công nghệ, đặc biệt đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ, từ các nước ASEAN
Thứ tư, tham gia AFTA sẽ tạo tạo sức ép buộc các DNCNVN phải tự đổi mới và nâng
cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh,tích cực áp dụng các thành tựu khoa học công
nghệ và cung cách làm ăn mới. Hơn nữa khi gia nhập AFTA sẽ buộc và khuyến khích các
DNCNVN tập trung vào những ngành được hưởng ưu đãi và ngừng sản xuất những mặt
hàng không đủ sức cạnh tranh. Sức ép to lớn từ phía AFTA đòi hỏi các DNCNVN phải cố
gắng nỗ lực để đuổi kịp và vượt các nước ASEAN về mẫu mã chất lượng giá cả hàng hoá.
Các Doanh nghiệp Công nghiệp Việt Nam sẽ trải qua quá trình sàng lọc tự nhiên thông qua
cạnh tranh quốc tế Những doanh nghiệp vốn vẫn được trợ cấp sẽ nhanh chóng bị thay thế
bởỉ những doanh nghiệp nứơc ngoài hay doanh nghiệp trong nước có đủ khả năng, nếu
không tự mình cố gắng đổi mới vươn lên. Nền sản xuất trong nước sẽ hiệu quả hơn và thích
ứng nhanh hơn đối với các điều kiện quốc tế thay đổi.
Thứ năm, vị thế của các Doanh nghiệp Công nghiệp Việt Nam được cải thiện nhờ quá
trình đa phương hoá, đa dạng hoá các mối quan hệ khu vực và thế giới. Trên cơ sở nguyên
tắc đồng thuận cũng như sức mạnh tập thể của tổ chức ASEAN, các DNCNVN sẽ tạo được
thế và lực trong đàm phán thương mại song phương và đa biên với các cường quốc kinh tế
cũng như các tổ chức quốc tế như APEC,EU, WTO…
2/ Thách thức
Bên cạnh những cơ hội những thuận lợi có được khi tham gia AFTA thì với những hạn
chế còn tồn tại, các DNCNVN hiện nay đang phải đương đầu với một số khó khăn và thách
thức chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, năng lực cạnh tranh yếu, năng suất lao động, hiệu quả của các sản phẩm,
dịch vụ của các DNCNVN còn thấp dẫn đến giá cả chất lượng mẫu mã của các sản phẩm
hàng của các DNCNVN khó có thể cạnh tranh được với hàng hoá của các nước ASEAN khi
hàng rào thuế quan và phi thuế quan được dỡ bỏ.
Thứ hai, hiện trạng các DNCNVN hiện có khoảng 53000 doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế với gần 3 triệu lao động. Tuy nhiên, nếu so sánh với các doanh nghiệp
của các nước ASEAN, phần lớn các DNCNVN là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, trình độ
công nghệ lạc hậu, năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm chưa đủ sức cạnh tranh.
Về tỷ trọng của công nghiệp chế tạo hiện nay chỉ bằng mức của Thái Lan 1970, tức là chỉ
chiếm 15% GDP. Tài sản cố định bình quân cho một lao động của Doanh nghiệp Nhà nước
(DNNN), chỉ có 44 triệu đồng, trong đó gần một nửa doanh nghiệp nhà nước chỉ có 20 triệu
đồng. Đối với doanh nghiệp tư nhân, bao gồm 23000 doanh nghiệp vốn tài sản cố định chỉ
chiếm 16% tổng số vốn tài sản cố định của doanh nghiệp nhà nước. Hơn nữa trang thiết bị
máy móc của doanh nghiệp CNVN phần lớn lạc hậu, tiêu hao năng lượng, nguyên liệu lớn
hơn nhiều so với các doanh nghiệp của một số nước ASEAN khác. trình độ công nghệ của
các doanh nghiệp CNVN tụt hậu khoảng 25-30 năm so với Thái Lan dẫn đến chi phí đầu
vào cao hơn từ 30-50% so với các đối tác ASEAN khác
Nhómngành
Công nghệ
Nước
Inđô
Malai
Philip
Singapo
Thái
VN
CN thấp
47,7%
24,3%
45,2%
10,5%
42,7%
58,7%
CN cao
29,7%
51,1%
29,0%
73,0%
30,8%
20,6%
CN TB
22,6%
24,6%
25,7%
16,5%
26,5%
20,7%
- Xem thêm -