Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Học truyện cười trong sách giáo khoa ngữ văn 10 theo hướng tích hợp và tích cực...

Tài liệu Học truyện cười trong sách giáo khoa ngữ văn 10 theo hướng tích hợp và tích cực

.PDF
141
125
147

Mô tả:

§¹I HäC TH¸I NGUY£N TR¦êNG §¹I HäC S¦ PH¹M NGUYỄN THỊ THANH TÂM DẠY - HỌC TRUYỆN CƯỜI TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 10 THEO HƯỚNG TÍCH HỢP VÀ TÍCH CỰC LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC THÁI NGUYÊN - 2007 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Viết thuê luận văn thạc sĩ [email protected] - 0972.162.399 http://www.lrc-tnu.edu.vn §¹I HäC TH¸I NGUY£N TR¦êNG §¹I HäC S¦ PH¹M NGUYỄN THỊ THANH TÂM DẠY - HỌC TRUYỆN CƯỜi TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 10 THEO HƯỚNG TÍCH HỢP VÀ TÍCH CỰC Chuyên ngành: LÍ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY - HỌC VĂN VÀ TIẾNG VIỆT Mã số: 60.14.10 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HOÀNG HỮU BỘI THÁI NGUYÊN - 2007 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Viết thuê luận văn thạc sĩ [email protected] - 0972.162.399 http://www.lrc-tnu.edu.vn A - PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.1. Đề tài đƣợc lựa chọn từ yêu cầu giải quyết vấn đề dạy học tác phẩm văn chƣơng theo hƣớng tích hợp và tích cực. Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn chương theo hướng tích hợp và tích cực là một vấn đề còn mới mặc dù đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Nhiều nhà khoa học và nhiều thầy cô giáo ở các trường phổ thông đã quan tâm và có những ý kiến đóng góp không nhỏ cho việc giảng dạy tác phẩm văn chương theo hướng tích hợp và tích cực. Ngay từ thập niên chín mươi ta có thể nói đến cuốn sách Khoa sư phạm tích hợp hay làm thế nào để phát triển các năng lực ở nhà trường của tác giả Xavier Roegiers (Nxb Giáo dục 1996 do Đào Trọng Quang và Nguyễn Ngọc Nhị dịch - trong khuôn khổ dự án VNM 137-3000/94/096 - 01 của Liên hiệp Châu Âu). Trong công trình này, người viết đã chỉ ra giá trị lý luận về nội dung và bản chất của tích hợp, nêu bật những ảnh hưởng của khoa sư phạm tích hợp đối với chương trình SGK cũng như kiến thức mà học sinh lĩnh hội được. Đây là những đóng góp quan trọng trong việc định hướng dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường hiện nay. Thế nhưng ở công trình này, tác giả mới chỉ chú ý đến ảnh hưởng chung của khoa sư phạm tích hợp với tất cả các vấn đề trong nhà trường, mà chưa đi vào cụ thể việc dạy - học tác phẩm văn chương nhất là các thể loại văn học dân gian (VHDG) đặc biệt là các thể loại tự sự (trong đó có truyện cười) thì chưa được quan tâm đầy đủ. Mặc dù chúng ta đều biết rằng, dạy một tác phẩm VHDG cũng là dạy một tác phẩm văn chương nhưng đây là một bộ phận có những đặc điểm riêng. Cũng là loại hình tự sự nhưng ngoài những đặc điểm của loại hình tự Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Viết thuê luận văn thạc sĩ [email protected] - 0972.162.399 http://www.lrc-tnu.edu.vn sự nói chung thì tự sự dân gian còn có những đặc điểm khác biệt, nhất là thể loại truyện cười. Truyện cười dân gian Việt Nam là thể loại tự sự chứa đựng cái hài, dùng tiếng cười làm phương tiện chủ yếu để thực hiện chức năng phê phán, châm biếm, đả kích cái xấu và mua vui giải trí. Đây là loại truyện kể ngắn gọn nhất (5-7 câu, dài 15 - 20) có mở đầu, diễn biến và kết thúc câu chuyện, có nhân vật, phần lớn nhân vật có nét khó quên. Truyện cười là thể loại có những đặc điểm riêng biệt như vậy cho nên việc dạy thể loại đó theo hướng tích hợp và tích cực đối với các giáo viên bậc THPT hiện nay là một vấn đề hoàn toàn mới. Hơn nữa, lý thuyết về tích hợp và tích cực cũng là vấn đề mới chưa hẳn đã có những cách hiểu đầy đủ và nhất trí giữa những nhà nghiên cứu và những người thực thi. Do đó mà chúng tôi chọn đề tài này để tìm hiểu thêm về mặt lý thuyết nguyên tắc tích hợp và tích cực trong chương trình. 1.2. Đề tài còn đƣợc lựa chọn từ thực tiễn dạy học truyện cƣời trong SGK Ngữ văn 10 hiện nay ở trƣờng THPT theo yêu cầu đổi mới phƣơng pháp dạy học. Hiện nay nhà trường Việt Nam đang thực hiện việc đổi mới chương trình sách giáo khoa (SGK) các cấp học. Năm học 2006-2007, SGK Ngữ văn 10 mới chính thức được đưa vào dạy học đại trà trên toàn quốc. Có nhiều thể loại văn học được đưa vào chương trình phổ thông. Trong cuốn SGK Văn học 10 tập 1 phần Văn học Việt Nam (sách chỉnh lý hợp nhất) Nxb Giáo dục 2000 không có thể loại truyện cười. Thể loại này đã có ở chương trình Văn 7 (SGK chỉnh lý năm học 1995-1996). Với bốn truyện cười: Mất rồi, (Cháy !) ; Treo biển, Lợn cưới, áo mới; Thà chết còn hơn. Năm 2000 SGK Ngữ văn 6 rút bớt chỉ còn lại hai truyện: Treo biển và Lợn cưới, áo mới. Cho đến năm 2006 ở bậc THPT SGK Ngữ văn 10 (Sách cơ bản và sách nâng cao) đều có thể loại truyện cười với hai truyện: Tam đại con gà và Nhưng nó phải bằng hai mày. 2 Viết thuê luận văn thạc sĩ [email protected] - 0972.162.399 Trong quá trình thực hiện chương trình SGK mới, với nhiều yêu cầu mới giáo viên và học sinh không phải không gặp những khó khăn nhất định. Giáo viên phải tìm ra cách tiếp cận phù hợp để hướng dẫn học sinh tự tìm tòi, khám phá tự chiếm lĩnh tri thức. Thực hiện được những yêu cầu đó không phải là điều dễ dàng. Trong đợt thực tế Sư phạm vừa qua, chúng tôi đã chú ý tìm hiểu việc dạy học truyện cười trong SGK Ngữ văn 10 ở một số trường PT (Trường THPT thực nghiệm Nguyễn Gia Thiều - Gia Lâm - Hà Nội), Trường PTTH số I Lạng Giang - Bắc Giang; Trường THPT Yên Dũng số II Bắc Giang. Chúng tôi nhận thấy, trên thực tế việc dạy - học truyện cười ở trường THPT có thuận lợi (đa số HS yêu thích vì thể loại này rất giàu tính chất duy lý). Song, điều đó không có nghĩa là việc dạy - học truyện cười đã đạt được hiệu quả như mong muốn. Trong những giờ học đó vẫn có những bài học được khai thác giống như bài học ở các thể văn học thành văn. GV chỉ phân tích một cách cô lập trên văn bản ngôn từ mà không đặt tác phẩm vào môi trường VHDG, thời điểm phát sinh...để khai thác hoặc có bài lại được dạy theo cách tầm chương trích cú, nhấm nháp ngôn từ, hình ảnh, làm cho HS "thấy cây mà không thấy rừng"; hoặc viện dẫn quá xa, luận bàn lan man ra ngoài tác phẩm. Vì thế trong giờ học, tính tích cực chủ động của HS chưa được phát huy, HS còn thụ động trong việc tiếp thu, lĩnh hội tác phẩm. Vậy dạy - học như thế nào để kích thích được hứng thú và lôi cuốn được tất cả HS vào hoạt động liên tưởng, tưởng tượng, tìm tòi, khám phá, sáng tạo? Xuất phát từ những lý do nói trên, chúng tôi chọn đề tài này nhằm góp một tiếng nói giải quyết khó khăn cho những người đứng lớp khi thực hiện chương trình mới này trong đó có chúng tôi. 3 Viết thuê luận văn thạc sĩ [email protected] - 0972.162.399 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ 2.1. Vấn đề tích hợp, tích cực trong môn Ngữ văn: Vấn đề tích hợp và tích cực trong dạy - học Ngữ Văn là điểm mới và hiện đại, thu hút không nhỏ sự quan tâm của các nhà phương pháp và những người làm công tác giáo dục, trở thành nội dung của nhiều cuộc luận bàn, trao đổi. Mặc dù có rất nhiều ý kiến, quan điểm bàn luận dưới những góc độ khác nhau về vấn đề ấy nhưng cuối cùng các nhà giáo dục đều nhận thấy rõ hiệu quả tích cực của vấn đề này, đặc biệt là bộ môn Ngữ Văn. Vì vậy, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả bộ môn Ngữ Văn trong nhà trường, SGK Ngữ Văn đã được biên soạn theo hướng tích hợp và tích cực. Từ năm học 2002-2003 ở bậc THCS đã thực thi theo chương trình và SGK mới, và đến năm 2006-2007 được thực thi ở bậc THPT. Tích hợp và tích cực trong dạy - học Ngữ Văn nói chung và dạy truyện cười nói riêng đã được đặt ra và giải quyết trong một số công trình và các bài báo sau: 2.1.1. Ở cuốn Ngữ Văn 6, ngay phần “Lời nói đầu” tổng chủ biên SGK THCS Nguyễn Khắc Phi đã viết: “Bên cạnh những hướng cải tiến chung của chương trình như: giảm tài, tăng thực hành, gắn đời sống, cải tiến nổi bật của chương trình và SGK môn Ngữ văn là hướng tích hợp”. Điều này thể hiện rõ ở sự thay đổi cấu trúc bài học trong SGK mục: “Kết quả cần đạt” đặt ở đầu nêu mục tiêu mà HS cần đạt tới, ở mỗi bài gồm cả ba phần ứng với ba phân môn, các văn bản được bố trí theo hệ thống thể loại và phần nào theo tiến trình văn học lịch sử. Ngoài số lượng lớn văn bản được hướng dẫn tìm hiểu tại lớp, còn một số văn bản tự học có hướng dẫn mang tính chất bắt buộc nhằm hình thành phát triển thói quen và kỹ năng tự học, tự tìm tòi nghiên cứu. Cũng trong cuốn sách này, phần “Một số vấn đề chung về chương trình và SGK môn Ngữ văn THCS” có viết: “Chương trình đã khẳng định lấy quan 4 Viết thuê luận văn thạc sĩ [email protected] - 0972.162.399 điểm tích hợp làm nguyên tắc chỉ đạo tổ chức nội dung chương trình, biên soạn SGK và lựa chọn phương pháp giảng dạy”. Ở mục “phương pháp”, quán triệt quan điểm tích cực như sau: Phải phát huy tối đa tính tích cực, tính sáng tạo của HS, chủ thể học tập ở tất cả mọi khâu: từ việc chuẩn bị bài, sưu tập tài liệu, phát biểu trong tổ, nhóm, tự đánh giá và đánh giá bạn, tham quan, hoạt động thực tế theo đặc trưng bộ môn, … Cũng ở đây tác giả còn đề cập tới tích cực trong dạy tiếng Việt, Làm văn, Ngữ văn … được biểu lộ ntn? Muốn phát huy tốt tính tích cực ta phải có những hình thức học tập, cách kiểm tra đánh giá … ntn? 2.1.2. Trong cuốn sách Ngữ văn 10 tập 1 do GS Phan Trọng Luân (Tổng chủ biên) phần “Lời nói đầu” đã nêu rõ mục tiêu và cấu trúc của SGK THPT có sự kế thừa và phát triển vận dụng hướng tích hợp ở mức cao hơn, phù hợp với trình độ tư duy của học sinh bậc THPT: “Học Ngữ văn là để trau dồi tình cảm thẩm mỹ và nhân cách. Học Ngữ văn phải hướng vào cuộc sống để vận dụng kiến thức và để sống đúng, sống đẹp”. Đặc biệt các tác giả khẳng định: “Học Ngữ văn theo tinh thần tích hợp là một yêu cầu quan trọng đối với mỗi HS”. Về vấn đề tích cực, các tác giả cho rằng: “Điểm mới quan trọng của SGK nhằm giúp HS tự học”. Vì vậy, các phần dẫn dắt HS trong mỗi bài đều là những gợi ý giúp HS tự mình chiếm lĩnh TPVC hay một bài học cụ thể. 2.1.3. Người quan tâm đặc biệt đến vấn đề đọc - hiểu và vấn đề tích hợp, tích cực là GS, TS Nguyễn Thanh Hùng. Trong bài Tích hợp trong dạy học Ngữ văn đăng trên tạp chí Khoa học giáo dục (số 6 tháng 3 năm 2006) viết: “Tích hợp là điểm nổi bật nhất của chương trình và SGK Ngữ văn mới, đã chi phối cách xây dựng chương trình, chỉ đạo nội dung và phương pháp dạy học Ngữ văn”. Một cách chung nhất có thể hiểu tích hợp (Integration) là 5 Viết thuê luận văn thạc sĩ [email protected] - 0972.162.399 phương pháp phối hợp (Integrate) một cách tốt nhất các quá trình học tậpcủa nhiều môn học cũng như các phân môn Văn, Tiếng Việt, Làm văn trong một môn Ngữ văn. Trên cơ sở phân tích nguồn gốc tư tưởng tích hợp tác giả nêu bật ý nghĩa của vấn đề tích hợp: “Tích hợp trong nhà trường sẽ giúp HS học tập thông minh và vận dụng sáng tạo kiến thức, kỹ năng và phương pháp của khối lượng tri thức toàn diện,... vào trong tình hình khác nhau và mới mẻ trong cuộc sống hiện đại”. Trong bài viết này, tác giả đã phân tích khá sâu sắc có sở lý luận và hiệu quả thực tế của quan điểm tích hợp. Tác giả chỉ rõ: “Mục đích bao quát của nguyên tắc tích hợp trong chương trình và SGK Ngữ văn là điều kiện giáo dục phù hợp, khả thi, PPDH mới có hiệu quả và cơ sở lý luận tích hợp một cách khoa học cùng với cách thức và mô hình tích hợp đa dạng đã hình thành và phát triển năng lực đọc hiểu TPVC kết hợp với việc nâng cao dần kỹ năng nghe, nói, đọc, viết trong văn hoá giao tiếp cho HS”. Rõ ràng là, bài viết giải thích rất nhiều khía cạnh của vấn đề tích hợp như: Vì sao tích hợp lại là điểm mới, nổi bật của chương trình SGK mới, lý luận, kỹ năng và hiệu quả thực tế của quan điểm này trong dạy học Ngữ văn như thế nào? Xét về mặt phương pháp tư tưởng tích hợp bao gồm những gì? … Có thể coi, đây là những tri thức quý báu giúp chúng tôi hiểu sâu hơn về vấn đề tích hợp khi vận dụng vào đề tài nghiên cứu của mình. 2.1.4. TS Nguyễn Văn Đường trong báo cáo khoa học Tích hợp trong dạy học Ngữ văn bậc THCS bài Về dạy học văn lớp 6 THCS theo hướng tích hợp ( tạp chí Giáo dục số 10 tháng 8/2001) cũng đã đề cập đến một số cơ sở lý luận và thực tiễn, bản chất của tích hợp và đề ra những phương hướng thực hiện tích hợp trong bài học Ngữ văn, song mới chỉ dừng lại trong việc ứng dụng cho THCS. 6 Viết thuê luận văn thạc sĩ [email protected] - 0972.162.399 2.1.5. TS Nguyễn Trọng Hoàn trong bài Tích hợp và liên hội hướng tới kết nối trong dạy học Ngữ văn (Tạp chí Giáo dục số 22, năm 2002) xác nhận: “Những tri thức riêng lẻ, tri thức bộ phận khi dạy học tích hợp sẽ được tiếp cận một cách có định hướng trong mối quan hệ đồng bộ của một bài học hoàn chỉnh và nhất quán theo đặc trưng bộ môn. Nói cách khác, dạy học theo hướng tích hợp có thể giúp HS vừa nắm được kiến thức cơ bản, vừa hình thành được các thái độ, năng lực và kỹ năng thực tiễn mà môn học đặt ra. Đó cũng chính là rèn luyện cho HS tư duy tổng hợp”. Cũng theo TS việc dạy học tích hợp “Được nhìn nhận như là quá trình GV tổ chức và hướng dẫn người học tiếp nhận và chuyển hoá kiến thức từ thể tiềm năng sang khả năng thực hiện”. Trên đây là một số cuốn sách bàn về tích hợp, tích cực trong dạy học Ngữ văn mà người làm luận văn hệ thống được. Ngoài ra còn một số sách tham khảo, các bài báo, luận văn viết về tích hợp, tích cực trong dạy học. Rõ ràng là, đề cập tới vấn đề tích hợp, tích cực chúng ta có thể thấy rằng, ở mỗi công trình nghiên cứu có thể bàn đến một góc độ khác nhau của vấn đề. Nhưng nhìn chung, các tác giả đều khẳng định vai trò quan trọng và tính tất yếu, khách quan của quan điểm dạy học này. Tuy nhiên, những công trình đó mới chỉ có tính khái quát, chưa bàn cụ thể tới vấn đề dạy học loại thể truyện cười cho HS lớp 10 theo hướng tích hợp, tích cực. 2.2. Về vấn đề dạy - học truyện cƣời trong SGK Ngữ văn 10 theo hƣớng tích hợp, tích cực. Đối với thể loại truyện cười ở chương trình SGK Ngữ văn lớp 10 do yêu cầu đổi mới phương pháp tuân thủ theo quan điểm tích hợp và tích cực nên nội dung, phương hướng bài dạy cũng có nhiều thay đổi. 7 Viết thuê luận văn thạc sĩ [email protected] - 0972.162.399 Gần đây khi SGK Ngữ văn 10 được thực hiện trong nhà trường, có nhiều cuốn sách tham khảo được xuất bản, nội dung phần nhiều theo hướng tích hợp và tích cực. Sách tham khảo dạy học Ngữ văn 10 được chia làm hai loại: Loại sách phân tích, bình giảng các tác phẩm có trong Ngữ văn 10; Loại sách gợi ý về phương pháp dạy học. Chúng tôi xin đề cấp tới vấn đề dạy - học truyện cười ở một số công trình sau: 2.2.1. Cuốn Đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10 do TS Nguyễn Trọng Hoàn (Chủ biên) Nxb Giáo dục, 2006. Ở thể loại truyện cười với hai tác phẩm cụ thể: Tam đại con gà và Nhưng nó phải bằng hai mày, các tác giả đưa ra cách chiếm lĩnh tác phẩm theo ba bước: a) Gợi dẫn: Ở bước này tác giả cung cấp cho người đọc những tri thức đọc - hiểu cụ thể về thể loại truyện cười, khái niệm, đặc điểm, mục đích, … Nghĩa là những kiến thức về thể loại. b) Kiến thức cơ bản: Bước này các tác giả ứng dụng tri thức phần gợi dẫn trên để khai thác tác phẩm. Đặc biệt khi đọc tác phẩm Tam đại con gà cần chú ý nhấn giọng ở câu “Dù dỉ là con dù dì”. Khi đọc (hoặc kể) cần chú ý nhấn giọng ở các chữ: “năm đồng”,”mười đồng”, “một chục, “năm ngón”. Câu cuối đọc chậm và nhấn giọng. c) Liên hệ: Bước này các tác giả bình giảng dựa theo tài liệu (Hoàng Tiên Tựu, “Bình giảng truyện dân gian” Nxb Giáo dục, Hà Nội 2001). Như vậy, thể loại truyên cười trong SGK Ngữ văn 10 được các tác giả cuốn sách khai thác đã có sự tuân thủ theo nguyên tắc tích cực giúp người đọc nắm được khai thác truyện cười luôn gắn với đặc trưng thể loại. Tuy nhiên, vấn đề tích hợp các tác giả có đề cập tới, song vẫn chưa thật rõ. 2.2.2. Cuốn SGV Ngữ văn 10 tập một do GS Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên), Nxb Giáo dục, 2006. Để giúp HS chiếm lĩnh phần nội dung và 8 Viết thuê luận văn thạc sĩ [email protected] - 0972.162.399 trọng tâm bài học đã được xác định, GV sẽ nêu ra những câu hỏi để HS tự phân tích, cách khai thác truyện cười trong cuốn này cũng đi theo hướng thể loại. Thế nhưng chưa thực sự tích cực bởi trong quá trình dẫn dắt cũng chưa thật triệt để, sâu sắc giúp HS nắm rõ được những đặc điểm riêng biệt của thể loại truyện cười. Nói một cách khác, cách khai thác ấy sẽ làm giảm yếu tố tích cực của HS, đồng thời vấn đề tích hợp cũng chưa thật triệt để. 2.2.3. Cuốn Phân tích tác phẩm Ngữ văn 10, Trần Nho Thìn (Chủ biên) Nxb Giáo dục, 2006. Trong bài truyện cười Tam đại con gà và Nhưng nó phải bằng hai mày. So với những cuốn kể trên dường như cách thức đã tuân thủ nguyên tắc tích hợp, tích cực triệt để hơn cả. Tác giả cung cấp cho người đọc một số tri thức bổ trợ và một số điều cần lưu ý về thể loại truyện cười như: “Cái cười”; “Cái đáng cười”; “Tiếng cười hài hước và tiếng cười phê phán”, … Tác giả còn nêu rõ: “Căn cứ vào ý nghĩa và chức năng của cái cưòi và cái đáng cười nêu trên” mà có thể phân loại truyên cười. Đến phần “Một số điểm cần lưu ý”, tác giả tiếp tục giúp người đọc nắm rõ hơn về thể loại này với những thông tin về: nhân vật truyện cười, nghệ thuật truyện cười, kết cấu truyện cười, ngôn ngữ truyện cười… Từ đó tiến hành phân tích hai tác phẩm nhằm làm sáng tỏ những vấn đề cần khai thác trong tác phẩm. Như vậy, ở đây qua những tri thức cụ thể về thể loại truyện cười HS có thể tự tổng hợp rồi chiếm lĩnh tác phẩm. Nói khác đi cách khai thác này sẽ giúp các em nắm vững thể loại và nội dung tác phẩm đồng thời biết só sánh với các thể loại khác đã học và sẽ học để hiểu rõ hơn dụng ý của tác giả dân gian khi xây dựng tác phẩm. Bên cạnh đó việc cho HS tập kể truyện cười một cách nghệ thuật, giải nghĩa từ, … Nghĩa là giúp HS tích hợp với Tiếng Việt, Làm văn,… để hiểu rõ hơn về thể loại. 9 Viết thuê luận văn thạc sĩ [email protected] - 0972.162.399 Cách khai thác này của tác giả sẽ là những gợi ý quý báu giúp chúng tôi trong quá trình nghiên cứu đề tài. 2.2.4. Cuốn Thiết kế bài học ngữ văn 10, Phan Trọng Luân (Chủ biên) Nxb Giáo dục 2006. Ở thể loại này với hai tác phẩm đã nêu, tác giả thiết kế tiến hành các bước hết sức chặt chẽ. a) Tìm hiểu phần tiểu dẫn: Khơi gợi HS bằng câu hỏi b) Học văn bản: - Đọc: GV yêu cầu HS đọc, nhận xét giọng đọc, kể hoặc diễn hoạt cảnh, … Tính tích cực được cụ thể hoá từ cách đọc – giúp HS dễ nhận thấy vấn đề cần khai thác HS được sống với thế giới trong truyện (nếu được diễn hoạt cảnh, …). - Tìm hiểu mâu thuẫn trong tình huống gây cười. HS nắm vấn đề theo câu hỏi của GV dẫn dắt theo vấn đề của tác phẩm, kích thích HS suy nghĩ, khái quát nội dung phát biểu và lập bảng hệ thống so sánh … c) Tổng kết: Nêu những vấn đề cho HS tổng kết nhất là về nghệ thuật truyện cười. Mô hình thiết kê bài học của tác giả khá cụ thể, chi tiết. Nguyên tắc tích hợp, tích cực được bám sát. Do vậy mà mọi vấn đề trong tác phẩm sáng rõ hơn. Qua đó HS sẽ nắm chắc hơn về thể loại này. Hướng dạy - học này sẽ là một gợi ý giúp chúng tôi trong qúa trình nghiên cứu đề tài. Tóm lại, đề tài nghiên cứu Dạy - học truyện cười trong SGK Ngữ văn 10 theo hướng tích hợp và tích cực của chúng tôi nhằm tổng kết, hệ thống lại những thành tựu của những người đi trước và vận dụng một cách sáng tạo vào 10 Viết thuê luận văn thạc sĩ [email protected] - 0972.162.399 việc đề xuất một phương án dạy học cụ thể cho những truyện cười trong SGK Ngữ văn 10 hiện đang được giảng dạy. 3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Đề tài của chúng tôi có mục đích: Tìm một phương án dạy - học có hiệu quả các tác phẩm truyện cười trong SGK Ngữ văn 10 theo yêu cầu đổi mới của chương trình: tích hợp và tích cực. 4. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU Cách dạy - học truyện cười trong SGK ngữ văn 10 theo hướng tích hợp và tích cực. Cụ thể là: Hoạt động của GV và HS trong giờ học phần truyện cười ở lớp 10 THPT. 5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 5.1. Nghiên cứu trên bình diện lý thuyết về truyện cười: tìm hiểu khái niệm về truyện cười, đặc điểm thi pháp truyện cười, cách tiếp cận truyện cười. 5.2. Nghiên cứu trên bình diện lý thuyết về đổi mới phương pháp dạy học Văn theo hướng tích hợp, tích cực. 5.3. Tìm hiểu thực tiễn dạy - học phần truyện cười trong SGK Ngữ văn 10 trường phổ thông trong năm đầu tiên thực thi (chú trong nghiên cứu giờ học). 5.4. Đề xuất một phương án có tính khả thi, nhằm nâng cao giờ học truyện cười theo hướng tích hợp và tích cực (thể hiện qua thiết kế hai bài học truyện cười trong SGK Ngữ văn 10). 6. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 6.1. Phương pháp nghiên cứu tổng hợp lí luận: Tổng hợp các bài viết, các công trình nghiên cứu về truyện cười, về phương pháp dạy - học truyện cười trong SGK Ngữ văn 10. 6.2. Phương pháp khảo sát: 11 Viết thuê luận văn thạc sĩ [email protected] - 0972.162.399 Khảo sát các giờ dạy - học truyện cười ở lớp 10 THPT ở hai trường THPT Yên Dũng số II và trường THPT Lạng Giang số I - Bắc Giang để tìm ra vấn đề cần giải quyết nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy. 6.3. Thiết kế bài học hai truyện cười trong sách Ngữ văn 10 theo hướng tích hợp và tích cực. 7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận luận văn của chúng tôi gồm ba chương: Chương 1: Cơ sở lí luận của việc dạy - học truyện cười theo hướng tích hợp và tích cực. Chương 2: Tổ chức giờ học truyện cười theo hướng tích hợp và tích cực. Chương 3: Thiết kế bài học về hai truyện cười trong sách Ngữ văn 10 theo hướng tích hợp và tích cực. 12 Viết thuê luận văn thạc sĩ [email protected] - 0972.162.399 B. PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC DẠY - HỌC TRUYỆN CƢỜI THEO HƢỚNG TÍCH HỢP VÀ TÍCH CỰC Ở chương này, luận văn sẽ dựa trên những thành tựu nghiên cứu về thi pháp truyện cười, và lý thuyết về nguyên tắc tích hợp của chương trình môn học Ngữ văn ở trường phổ thông, để xây dựng thành cơ sở lý luận cho đề tài. Do vậy, chương I gồm các nội dung sau: - Thi pháp truyện cười và việc tiếp cận, phân tích truyện cười trong nhà trường. - Lý thuyết về nguyên tắc tích hợp và nguyên tắc tích cực của chương trình Giáo dục phổ thông – môn Ngữ văn. 1.1. Đặc điểm của thể loại truyện cƣời. Muốn dễ dàng nhận diện truyện cười, từ đó xác đinh được hướng tiếp cận, phân tích các tác phẩm truyện cười, người dạy cần phải có những hiểu biết về thể loại này. Cụ thể, phải xác định được nội dung cơ bản của khái niệm truyện cười, các đặc điểm về thi pháp của chúng, ... Phần trình bày của chúng tôi chủ yếu dựa trên thành tựu nghiên cứu về truyện cười đã được công bố: Giáo trình văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục – Đinh Gia Khánh (Chủ biên); Lịch sử văn học Việt Nam, tập 1 phần Văn học dân gian (Nxb Giáo dục - nhiều tác giả 1978); Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân gian (Đỗ Bình Trị - 1999) 1.1.1. Khái niệm truyện cƣời: Điều cần thiết đầu tiên khi đi vào tìm hiểu, học tập và giảng dạy truyện cười là phải xác định được nội dung cơ bản của khái niệm truyện cười, nhận 13 Viết thuê luận văn thạc sĩ [email protected] - 0972.162.399 ra được những đặc điểm chủ yếu nhất của thể loại này để phân biệt với các thể loại truyện dân gian khác. - Cuốn Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân gian (Đỗ Bình Trị, 1999) có viết: “Truyện cười là truyện kể về hiện tượng buồn cười, thể hiện ở hành vi của nhân vật (bao gồm cả hành động nói năng), nhằm gây cười”. - Giáo trình Văn học dân gian Việt Nam, (Nxb Giáo dục – Đinh Gia Khánh (Chủ biên) in lần thứ 10 – 2006) cho rằng: “Truyện cười nói một cách đơn giản là những truyện làm cho người ta cười, có thể là cười mỉm, nhưng thường là cười giòn giã. Có thể là cười một cách vui vẻ, nhẹ nhàng, nhưng thường là cười mà phẫn nộ, khinh ghét”. - SGK Ngữ văn 6 tập một (Nxb Giáo dục – Nguyễn Khắc Phi (Chủ biên), 2002) viết: “Truyện cười là loại truyện kể về những hiện tượng đáng cười trong cuộc sống, nhằm tạo ra những tiếng cười mua vui hoặc phê phán những thói hư, tật xấu trong xã hội”. - SGK Ngữ văn 10 tập một: (Nxb Giáo dục – 2006 - Phan Trọng Luận (Chủ biên) viết: “Truyện cười : tác phẩm tự sự dân gian ngắn, có kết cấu chặt chẽ, kết thúc bất ngờ, kể về những sự việc xấu, trái tự nhiên trong cuộc sống, có tác dụng gây cười, nhằm mục đích giải trí, phê phán”. - Từ điển thuật ngữ văn học (Nxb Giáo dục 1997 - Trần Đình Sử, Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi) cho rằng: “Truyện cười dân gian là một thể loại truyện dân gian chứa đựng cái hài, dùng tiếng cười làm phương tiện chủ yếu để thực hiện chức năng phê phán, châm biếm, đả kích cái xấu và mua vui giải trí”. Từ một số định nghĩa về truyện cười nêu ở trên, ta có thể thấy được một số điểm của thể loại truyện cười như sau: - Đặc điểm về nội dung: 14 Viết thuê luận văn thạc sĩ [email protected] - 0972.162.399 + Có tiếng cười vui vẻ, nhẹ nhàng: Đó là tiếng cười đối với bà lão ngủ say đến nỗi kẻ trộm khiêng cả chõng bà đang nằm mà bà vẫn ngủ chẳng biết gì, mồm vẫn lảm nhảm nói mê “Đêm năm canh bà nằm chẳng nhắp” trong truyện Tôi khiêng bà; đó là tiếng cười đối với ba anh chàng nọ mê ngủ đến quên hết mọi cảm giác về thực tế Ba anh mê ngủ; đối với anh chàng nghiện thấy người ta đi đại tiện dễ mà thèm truyện Thấy dễ mà thèm; đối với anh chàng vô tâm, tính hay quên đến nỗi ỉa vào nón mà không biết, trông thấy co dao của mình mà lại tưởng là ai bỏ quên; đó là tiếng cười anh chàng vừa buông miệng nói một câu rất hùng với người láng giềng, thì liền sau đó lại nói một câu rất nhũn với vợ Chẳng phải tay ông, … + Bên cạnh tiếng cười vui vẻ nhẹ nhàng có tiếng cười phê phán, chê trách. Chẳng hạn, người ta cười tính keo kiệt quái gở Đi học hà tiện; Anh keo kiệt ngã sông; Cười những thói kén rể kì quặc Vừa buồn cười vừa sợ; Tài ăn cứt chó …Người ta chế giễu sâu cay anh dốt đặc mà lại lên mặt hay chữ Tràng cảnh tắc đại thanh … Tiếng cười phê phán còn bao hàm thái độ khinh bỉ, chê trách một sự sút kém trong nhân cách (truyện: Con vịt hai chân; Thơm rồi lại thối … ). Truyện Trả nợ tiền kiếp mỉa mai bọn chuyên sống bằng tô, tức; truyện Truyện mượn ngựa vạch trần cái dốt của lão phú ông làm ra vẻ biết chữ … - Đặc điểm về hình thức: Truyện rất ngắn gọn, ít tình tiết nhưng tình tiết nào cũng nhằm gây cười; kết cấu chặt chẽ, kết thúc bất ngờ, hay dùng biện pháp phóng đại … - Từ đó rút ra kết luận sư phạm về dạy truyện cười, khi dạy bất cứ truyện cười nào cũng làm cho HS nắm chắc được: + Truyện đó cười cái gì? + Nghệ thuật gây cười độc đáo ở truyện đó là gì? 15 Viết thuê luận văn thạc sĩ [email protected] - 0972.162.399 1.1.2. Phân loại truyện cƣời: Xem xét truyện cười dân gian, ta đều có thể dễ dàng nhận thấy những điểm sau đây: Có truyện dài, nhiều sự việc, nhiều nhân vật, có truyện ngắn, ít nhân vật, có truyện có khả năng gây cười manh mẽ, có truyện chỉ vừa đủ gây cười một cách nhẹ nhàng, thậm chí có truyện khiến người ta vừa cười xong liền phải suy nghĩ, có truyện nhằm đạt yêu cầu giải trí là chính, có truyện lại kết hợp tác dụng giải trí với ý nghĩa phê phán, có truyện ít vận dụng nghệ thuật cường điệu; có truyện, trái lại triệt để vận dụng nghệ thuật đó. Có truyện lấy đề tài trong sinh hoạt bình thường của người nông dân, có truyện lấy đề tài trong sinh hoạt của các tầng lớp khác: nho sinh, thầy đồ, nhà sư, lý trưởng, thầy bói, …Có truyện ít yếu tố tục, có truyện lại khiến tiếng cười nổ ra mạnh mẽ nhờ vận dụng yếu tố tục đúng chỗ, có truyện có kết luận hẳn hoi, có truyện chỉ buông lửng để người ta suy nghĩ về vận dụng ý bao hàm ở trong. Như vậy, với một loại hình bao gồm nhiều dạng như trên tất nhiên vấn đề phân loại phải đặt ra. Ở Việt Nam vấn đề này còn thiếu sự thống nhất trong các nhà nghiên cứu. Đến nay tuy đã có một số các phân loại truyện cười được nêu nhưng chưa có bảng phân loại nào được giải quyết đầy đủ trên cơ sở những tiêu chí rõ ràng và nhất quán. Văn Tân trong Tiếng cười Việt Nam và Nguyễn Hồng Phong trong Truyện tiếu lâm thì cho rằng: “Có thể chia truyện cười thành hai loại" và họ: “Có chú ý phân biệt truyện tiếu lâm và truyện khôi hài mà Nguyễn Hồng Phong gọi là truyện cổ thế sự [32,165]. Cách phân loại này của họ dựa trên căn cứ về cách cấu tạo về mục đích và nội dung của truyện cười”. Theo Từ điển thuật ngữ văn học (Trần Đình Sử, Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi, Nxb Giáo dục) “Có thể chia truyện cười dân gian ra thành hai loại chính: Truyện cười kết chuỗi và truyện cười không kết chuỗi.” [25;251]. Nguyên nhân của sự thiếu thống nhất trong phân loại cũng như trong định 16 Viết thuê luận văn thạc sĩ [email protected] - 0972.162.399 nghĩa truyện cười là do sự phức tạp của đối tượng (truyện cười) và do sự thiếu thống nhất về quan niệm và phương pháp của các nhà nghiên cứu. Một trong những cách phân loại truyện cười được nhiều người tán thành và vận dụng hiện nay là “Chia truyện cười thành hai loại: truyện khôi hài và truyện trào phúng” [18;78]. Cách phân loại này đã căn cứ vào ý nghĩa, chức năng của cái cười và cái đáng cười. Đây cũng là cách phân loại mà đề tài của chúng tôi lấy làm cơ sở cho việc giải quyết các vấn đề dạy học truyện cười ở các phần sau. 1.1.2.1. Truyện khôi hài: Đặc điểm thi pháp của truyện cười dân gian bao gồm: nhân vật, kết cấu, ngôn ngữ, … Những đặc điểm này làm thành thi pháp đặc trưng của truyện cười … và, đều phục vụ mục đích gây cười. Tuy nhiên một đặc điểm thi pháp có sự khác biệt rõ ràng trong tiểu loại truyện khôi hài và truyện trào phúng ta cần phân biệt đó là nhân vật. Truyện khôi hài (hài hước) là tiểu loại của thể loại truyện cười, có mục đích chủ yếu nhằm giải trí, mua vui là chính. Nói theo Ăng-ghen tác dụng chính của loại truyện khôi hài là: “giải trí người nông dân sau một ngày lao động mệt nhọc”[32;167]. - Nhân vật của truyện hài hước Nhà nghiên cứu Đỗ Bình Trị cho rằng: “Có những trường hợp khi ta cười, ta chú ý đến cái đáng cười hơn là người gây ra cái đáng cười; nói cách khác, ta cười cái đáng cười hơn là người gây ra cái đáng cười ấy – đó là cái cười hài hước”. Chẳng hạn trong các truyện Treo biển, Bốn cẳng, Sáu cẳng …. (Phân tích tác phẩm VHDG, Nxb Giáo dục 1995, tr.118). Nhìn chung, nhân vật của truyện hài hước và nhân vật của truyện châm biếm đều được đặt vào cùng một loại tình huống, đó là tình huống sinh hoạt 17 Viết thuê luận văn thạc sĩ [email protected] - 0972.162.399 đời thường. Thế nhưng, chỗ khác nhau của hai loại nhân vật này là ở tính chất của hành vi ứng xử của chúng. Chẳng hạn, ở truyện hài hước Phương pháp nào tốt hơn. Ta không cười nhân vật tằn tiện mà chỉ cười cái “phương pháp” kì quặc của anh ta theo phương châm của dân tằn tiện không bao giờ để cái gì thừa. Vì vậy, khi chi và dùng anh ta luôn có sự “tối ưu hoá”. Hay trong truyện: Có nuôi được không do lỡ mồm mà gây cười. Nghĩa là một nhân vật của truyện hài hước có hành vi buồn cười do lầm lỡ thường tình, vô hại: “anh có con trai bị đẻ non, có lẽ do quá lo lắng “sợ không nuôi được” mà quên rằng đứa bé mà mình hỏi “rồi có nuôi được không?” ấy là . bố của bạn!” [30;110]. - Hành vi của một nhân vật truyện hài hước thường không gắn với cái xấu. Vì thế cái cười hài hước thưòng chỉ dừng lại ở hành vi của nhân vật. Nói khác đi, nhân vận của truyện hài hước chỉ bị phê phán đơn thuần về hành vi. - Trong truyện hài hước, nhân vật của truyện hài hước là đối tượng của cái cười hài hước. - Nhân vật - đối tượng của cái cười hài hước (nhân vật phụ) có chức năng làm lộ ra cái đáng cười tiềm ẩn nơi hành vi của nhân vật chính. Chẳng hạn truyện Đậu phụ có hai nhân vật: Sư cụ và chú tiểu. Trước hết ta cười chú tiểu vì chú gọi con chó bằng “đậu phụ”. Nhưng nghĩ lại ta sẽ thấy chỗ trái khoáy thì làm gì có “đậu phụ làng” và “đậu phụ chùa” và làm gì có “con đậu phụ” để mà cắn nhau. Rõ ràng thực chất hành vi buồn cười ở đây là cái cười hài hước. Do đó ta có thể nói: “Nhân vật của truyện hài hước chỉ bị phê phán đơn thuần về hành vi” [30;112] 1.1.2.2. Truyện trào phúng (châm biếm) Nếu như, nhân vật của truyện hài hước là đối tượng của cái hài hước thì nhân vật của truyện châm biếm là đối tượng của cái cười châm biếm. - Nhân vật truyện châm biếm 18 Viết thuê luận văn thạc sĩ [email protected] - 0972.162.399
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan