Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục...

Tài liệu Hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục

.PDF
82
301
123

Mô tả:

KHOA LUẬT ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI BÙI HUY TÙNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬTVỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC Người hướng dẫn PGS TS : PHẠM HỒNG THÁI Hà nội: 2007 CHỮ VIẾT TẮT NGHỊ ĐỊNH 49 NGHỊ ĐỊNH 49/2005/NĐ-CP NGÀY 11/4/2005 CỦA CHÍNH PHỦ VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC 3 PHẦN MỞ ĐẦU I. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam đang trong thời kỳ đổi mới toàn diện về mọi mặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Theo đó, công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn hiện nay đã và đang đặt ra yêu cầu tăng cường pháp luật và pháp chế trong quản lý xã hội trên những mức độ và sắc thái mới phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Quản lý xã hội bằng pháp luật đã trở thành một nhu cầu cấp thiết, là một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo thắng lợi công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân ở nước ta hiện nay, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Giáo dục là một lĩnh vực đặc biệt quan trọng, thông qua hoạt động giáo dục con người dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra. Ở Việt Nam, quan điểm “ phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu” vẫn được ghi nhận là quan điểm xuyên suốt trong quá trình lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX tiếp tục xác định những quan điểm và phương hướng cơ bản để tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục, thực hiện “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa”, thực hiện công bằng trong giáo dục. Luật Giáo dục 2005 khẳng định mục tiêu giáo dục là “ đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc”. Để thực hiện triệt để quan điểm chỉ đạo của Đảng, thực hiện thành công mục tiêu giáo dục, đảm bảo nguyên tắc pháp chế, ngoài cơ chế tổ chức 4 quản lý giáo dục nhất thiết cần phải có cơ chế xử lý vi phạm phù hợp, mà trong đó xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục là một nội dung đặc biệt quan trọng. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính được Ủy ban thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X thông qua ngày 02-72002, Nghị định số 49/2005/NĐ-CP ngày 11/4/2005định của Chính phủ quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực giáo dục và các văn bản pháp lý liên quan được ban hành đã đáp ứng một cách cơ bản yêu cầu về một hành lang pháp lý cần thiết cho việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục. Mặc dù vậy, qua nghiên cứu cho thấy, các quy định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục ở nước ta phần lớn mới được ban hành, còn tồn tại nhiều nội dung chưa phù hợp với thực tiễn, chưa thể đi vào thực tiễn, có những quy định chưa bắt nguồn từ thực tiễn. Xuất phát từ những tồn tại nêu trên, nhất thiết cần phải nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống nhằm từng bước hoàn thiện các quy định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục, đưa những quy định này trở thành công cụ pháp lý hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục. Cụ thể hơn, thông qua việc hoàn thiện các quy định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục sẽ góp phần đấu tranh phòng ngừa và chống vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục một cách có hiệu quả, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. II. Tình hình nghiên cứu của đề tài Trước hết, cần khẳng định rằng đã có nhiều đề tài nghiên cứu về lĩnh vực giáo dục của nhiều ngành khoa học khác nhau như Tâm lý học; Xã hội học; Quản lý giáo dục….Kết quả nghiên cứu của các ngành khoa học này phục vụ rất tốt cho hoạt động nghiên cứu đề tài đang lựa chọn. 5 Đối với ngành Luật học hiện có một số đề tài nghiên cứu về xử lý vi phạm hành chính hay các đề tài với nội dung nhằm hoàn thiện pháp luật về giáo dục, tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với các bậc đào tạo. Tuy nhiên các đề tài này nghiên cứu trên bình diện rộng, với hướng hoàn thiện chung, chưa đề tài nào phân tích một cách chi tiết nội dung hoàn thiện các quy định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục. Có thể nói, đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục. Đề tài nghiên cứu chi tiết về một vấn đề hẹp nhưng cụ thể, đảm bảo ý nghĩa khoa học và tính khác biệt so với các đề tài khác trong cùng ngành nghiên cứu. Mặc dù vậy, có thể nói, các công trình nghiên cứu trong cùng lĩnh vực đề cập ở trên đều là những tài liệu tham khảo có giá trị cao để tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. III. Phạm vi nghiên cứu Xử lý vi phạm hành chính nói chung và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục nói riêng là một vấn đề rộng lớn và phức tạp, trong khuôn khổ có giới hạn, luận văn chỉ tập trung vào một số khía cạnh pháp lý chủ yếu liên quan đến vấn đề xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục, đặc biệt là quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục. IV. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn a. Mục đích nghiên cứu của Luận văn: Đề tài tập trung phân tích toàn diện, có hệ thống các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục, thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục nhằm tìm ra hướng hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của nội dung quản lý nhà nước về giáo dục. b. Nhiệm vụ của Luận văn: - Tổng kết các cơ sở lý luận về xử lý vi phạm hành chính nói chung và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục nói riêng. 6 - Nghiên cứu thực trạng vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục. - Nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy phạm trong quá trình xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục. - Nghiên cứu và tìm ra những quy định chưa phù hợp, các chế định chưa được đề cập tới hoặc có đề cập nhưng chưa đầy đủ, thiếu khả thi trong văn bản pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục. V. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu a. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu lực của hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục. b. Phạm vi nghiên cứu: Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục bao gồm nhiều vấn đề lớn đặt ra cần quan tâm nghiên cứu. Đề tài nghiên cứu của Luận văn tập trung chú ý vào việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn để hoàn thiện các quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục. Là một đề tài nghiên cứu lý luận, luận văn không đi quá sâu ở từng nội dung trong hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục. Tuy nhiên, luận văn có phân tích và khái quát hóa các yêu cầu thực tế của từng nội dung để làm nổi bật vấn đề quan tâm chủ yếu là: Hoàn thiện các quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục. VI. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa MácLênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về xử lý vi phạm hành chính nói chung và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục nói riêng. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của Triết học MácLênin như Phương pháp biện chứng, lịch sử; Phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa; Phương pháp so sánh, thống kê; Phương pháp xã hội học, xin ý kiến chuyên gia… 7 VII. Đóng góp mới và giá trị khoa học của luận văn Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện, tập trung và trực tiếp về vấn đề xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục nhằm mục đích đưa ra phương hướng và đề xuất giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu, giảng dạy, học tập phục vụ việc hoàn thiện pháp luật về giáo dục nói chung và pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục nói riêng. VIII. Kết cấu của luận văn Luận văn gồm : Lời mở đầu, 3 chương, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo. 8 CHƢƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC 1. Khái niệm vi phạm hành chính và vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục; Các dấu hiệu của vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục; Cấu thành vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục 1.1. Khái niệm vi phạm hành chính và vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục. Vi phạm hành chính là hành vi được thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý bởi cá nhân, cơ quan, tổ chức, vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử lý vi phạm hành chính. Bản chất của vi phạm hành chính là hành vi vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước do cá nhân, tổ chức thực hiện và vi phạm này không phải là tội phạm, tức chưa đủ các yếu tố cấu thành tội phạm, trong đó yếu tố có tính chất quyết định là mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nói một cách khác, mức độ nguy hiểm của hành vi thấp hơn tội phạm. Về giáo dục, hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau. Theo Từ điển Tiếng Việt năm 1997 do Nhà xuất bản Đà Nẵng xuất bản thì giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra. Hiểu một cách rộng hơn, giáo dục là hoạt động có mục đích, có chương trình, tác động vào con người thông qua một hệ thống các biện pháp tác động nhằm truyền thụ tri thức và kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng và lối sống, chuẩn bị cho đối tượng của giáo dục tham gia lao động, đi vào đời sống xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống. Giáo dục là hoạt động tất yếu 9 của phát triển xã hội loài người, là một bộ phận cơ bản của quá trình tái sản xuất mở rộng lao động xã hội. Như vậy, hiểu một cách chung nhất, vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục chính là vi phạm các nội dung hoạt động nhằm truyền thụ tri thức và kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng và lối sống, chuẩn bị cho đối tượng của giáo dục tham gia lao động, đi vào đời sống xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống. Hiểu theo phương diện pháp lý, vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục là một dạng của vi phạm hành chính nói chung được thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý bởi cá nhân, tổ chức, vi phạm các quy định quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục mà không phải là tội phạm và theo quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và Nghị định của Chính phủ quy định về xử phạm vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục phải bị xử phạt vi phạm hành chính. Pháp luật hiện hành đã quy định những nội dung, đối tượng cụ thể thuộc lĩnh vực giáo dục là đối tượng bị xâm hại bởi hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục. Căn cứ Luật Giáo dục 2005 và Nghị định số 49/2005/NĐ-CP ngày 11/4/2005 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục ta có thể hiểu lĩnh vực giáo dục là đối tượng xâm hại của hành vi vi phạm hành chính ở 14 nội dung cơ bản. Thông qua 02 khái niệm về vi phạm hành chính và vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục nêu trên, chúng ta thấy vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục thống nhất với vi phạm hành chính nói chung ở các dấu hiệu pháp lý cơ bản của vi phạm hành chính: hành vi; tính trái pháp luật của hành vi; tính có lỗi và tính bị xử phạt hành chính. 1.2. Các dấu hiệu của vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục Vi phạm hành chính nói chung và vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục nói riêng đều có những dấu hiệu cụ thể như sau: 10 Thứ nhất, vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục là một hành vi. Theo Các-Mác thì “ con người chỉ tồn tại đối với pháp luật thông qua hành vi của mình”. Vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục cũng như mọi vi phạm khác, trước hết nó phải là hành vi, nó chỉ được thực hiện bởi hành vi. Những suy nghĩ, quan niệm, tư tưởng, khi chưa thể hiện thành hành vi thì dù xấu thế nào cũng chưa phải là vi phạm pháp luật. Hành vi có thể thực hiện dưới hình thức hành động hoặc không hành động. Hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục là loại hành vi xâm hại hoặc có nguy cơ xâm hại đến các quan hệ xã hội hình thành trong lĩnh vực quản lý nhà nước về giáo dục. Các quan hệ này được nhà nước tác động, điều chỉnh bằng pháp luật. Mặc dù có nội dung đa dạng nhưng các quan hệ xã hội trong quản lý nhà nước được sắp xếp, phân loại thành những nhóm nhất định do các quy phạm pháp luật hành chính điều chỉnh, tạo nên trật tự quản lý nhà nước. Tĩnh xâm hại đến các quy tắc quản lý nhà nước trong hoạt động giáo dục của hành vi vi phạm hành chính là việc làm tổn hại đến các trật tự quản lý nhà nước trong hoạt động giáo dục được pháp luật quy định và bảo vệ. Thứ hai, tính trái pháp luật của hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục thể hiện ở chỗ, những hành vi do chủ thể vi phạm hành chính thực hiện trái với quy định của pháp luật hành chính điểu chỉnh các quan hệ trong lĩnh vực quản lý nhà nước về giáo dục. Cụ thể hơn, đó là hành động bị pháp luật hành chính cấm, hoặc không thực hiện, hay thực hiện không đúng, hành động mà pháp luật hành chính buộc phải thực hiện. Ví dụ: Pháp luật quy định không được cấp văn bằng, chứng chỉ có nội dung sai gây trở ngại cho người sử dụng mà vẫn cấp văn bằng chứng chỉ có nội dung sai gây trở ngại cho người sử dụng, hoặc phải dạy đủ số tiết, nội dung kiến thức môn học nhưng không dạy đủ theo quy định…thì đều là hành vi (hành động và không hành động) trái pháp luật. 11 Tuy nhiên, một cá nhân, tổ chức khi thực hiện hành vi chưa được ngành luật hành chính và các văn bản pháp luật quy định về quản lý nhà nước ở lĩnh vực giáo dục quy định và bảo vệ (thể hiện trong các văn bản pháp luật quy định về hành vi vi phạm hành chính, xử phạt vi phạm hành chính) thì không bị coi là trái pháp luật hành chính trong lĩnh vực giáo dục. Trên cơ sở thừa nhận tính trái pháp luật hành chính là một dấu hiệu của vi phạm hành chính, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 quy định: “ Cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt hành chính khi có vi phạm hành chính do pháp luật quy định”. Không phải mọi hành vi có tính chất trái pháp luật hành chính đểu là vi phạm hành chính, nói cách khác, không phải mọi hành vi có tính trái các quy định quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục đều là vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục. Một số tội phạm cũng là hành vi trái pháp luật hành chính về giáo dục (tội chống người thi hành công vụ, tội kinh doanh trái phép…) nhưng phải xử lý hình sự. Để phân biệt tội phạm với vi phạm hành chính trong trường hợp hai loại vi phạm này cùng có chung khách thể, người ta lấy tiêu chí là mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi để phân biệt. Phạm vi của đề tài này không cho phép đi sâu vào phân tích, so sánh để phân biệt giữa tội phạm và vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục, tuy nhiên có thể thấy các tiêu chí để phân biệt giữa tội phạm và vi phạm hành chính là: - Loại khách thể bị xâm hại, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi là tiêu chí đầu tiên. - Hành vi đó đã bị xử lý hành chính hay chưa? Theo quy định của Bộ Luật Hình sự Việt Nam có rất nhiều tội danh có cấu thành “ đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà còn vi phạm”. - Phần lớn các cấu thành vi phạm hành chính không bắt buộc phải có dấu hiệu hậu quả thiệt hại của hành vi và quan hệ nhân quả giữa hành vi và 12 hậu quả của nó (chỉ cần hành động hay không hành động trái pháp luật là đủ căn cứ áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính). - Hành vi trái pháp luật và có lỗi phải được văn bản pháp luật quy định là vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục và phải chịu trách nhiệm hành chính (dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan của vi phạm hành chính). Có thể dễ dàng nhận thấy, tính nguy hiểm cho xã hội của các hành vi là tiêu chí cở bản để nhà làm luật tiến hành phân chia chúng thành các loại khác nhau: tội phạm, vi phạm pháp luật hành chính, vi phạm pháp luật dân sự… Thứ ba, tính có lỗi của vi phạm hành chính. Mặt chủ quan của vi phạm hành chính nói chung và vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục nói riêng thể hiện ở tính chất có lỗi của nó. Lỗi là dấu hiệu cơ bản, bắt buộc của vi phạm pháp luật, do các cá nhân thực hiện. Lỗi là trạng thái tâm lý, là thái độ của người vi phạm đối với hành vi vi phạm và hậu quả của hành vi đó tại thời điểm thực hiện hành vi của mình. Hành vi được thực hiện phải là kết quả của sự tự lựa chọn, tự quyết định của các cá nhân hoặc tổ chức. Nội dung của lỗi thể hiện sự nhận thức của người vi phạm. Do đó, nếu là người không nhận thức được tính xâm hại cho xã hội của hành vi thì coi như không có lỗi và không có vi phạm pháp luật nói chung và vi phạm hành chính nói riêng. Thứ tư, tính bị xử phạt vi phạm hành chính. Trong vi phạm hành chính nói chung và vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục nói riêng, tính bị xử phạt vi phạm hành chính được biểu hiện ở chỗ vi phạm hành chính là cơ sở để áp dụng hình thức xử phạt vi phạm hành chính tương ứng đối với chủ thể vi phạm. Vì vậy có thể coi tính bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục là một dấu hiệu của vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục. Đây là dấu hiệu bắt nguồn từ tính xâm hại và tính trái pháp luật hành chính, 13 có vi phạm hành chính thì phải có xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, không loại trừ khả năng áp dụng chế tài khác đối với chủ thể vi phạm hành chính, chẳng hạn như khi có vi phạm xảy ra mà không thể áp dụng biện pháp xử phạt nếu nó đã hết thời hiệu xử phạt. Do đó, tính bị xử phạt vi phạm hành chính của vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục có ý nghĩa chủ yếu chỉ ở chỗ nó là tiêu chí để phân biệt với các vi phạm pháp luật khác như: tội phạm, vi phạm kỷ luật…, khi chúng có chung khách thể với vi phạm hành chính. 1.3. CÊu thµnh vi ph¹m hµnh chÝnh trong lÜnh vùc gi¸o dôc Vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục là một dạng của vi phạm pháp luật, do đó, những vi phạm này cũng có các yếu tố cấu thành pháp lý gồm: Mặt khách quan; Mặt chủ quan; Chủ thể và Khách thể. Các yếu tố cấu thành vi phạm hành chính nói chung và vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục nói riêng nằm trong một thể thống nhất và được coi là điều kiện “cần và đủ” của một vi phạm hành chính, giữa các yếu tố này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Thứ nhất, mặt khách quan của vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục Mặt khách quan của vi phạm hành chính nói chung là tổng hợp các dấu hiệu bên ngoài của vi phạm hành chính, bao gồm: hành vi trái pháp luật, tính nguy hiểm cho xã hội; hậu quả và mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả; các dấu hiệu khác như công cụ, phương tiện, thời gian, địa điểm vi phạm. Vi phạm hành chính trước hết là hành vi trái pháp luật do cá nhân và tổ chức thực hiện. Hành vi đó chỉ được coi là trái pháp luật khi hành vi thực hiện những việc mà pháp luật ngăn cấm hay không thực hiện những việc mà pháp luật bắt buộc chủ thể phải làm. Vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục là hành vi trái pháp luật, đã xâm hại đến các quy định quản lý nhà nước về giáo dục, xâm hại đến các quan hệ xã hội và trật tự quản lý nhà nước được pháp luật bảo vệ. Vi phạm 14 hành chính trong lĩnh vực giáo dục thể hiện tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi do tính trái pháp luật của nó. Các hành vi vi phạm hành chính này có thể gây hậu quả không nghiêm trọng nhưng lại có thể xảy ra phổ biến, và như vậy nhiều hành vi cùng thực hiện sẽ gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội. Mặc dù vậy, tính nguy hiểm của hành vi vi phạm hành chính thấp hơn so với tội phạm hình sự. Như phần trên đã trình bày, phần lớn cấu thành vi phạm hành chính nói chung và vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục nói riêng không bắt buộc phải có dấu hiệu hậu qủa thiệt hại của hành vi. Tuy nhiên, đối với cấu thành pháp lý của một số hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục thì hậu quả thiệt hại cho xã hội là bắt buộc. Giữa hành vi vi phạm và hậu quả của vi phạm có mối quan hệ nhân quả, trong đó hậu quả của vi phạm hành chính có tiền đề xuất hiện từ hành vi khách quan của vi phạm hành chính. Quan hệ giữa hành vi vi phạm hành chính và thiệt hại mà nó gây ra nhất thiết phải được xác định khi hậu quả của hành vi được tính là cơ sở, là căn cứ để lựa chọn áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác nhằm khắc phục hậu quả gây ra của hành vi. Tuy nhiên để áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục một cách có hiệu quả, đúng người, đúng vi phạm trong nhiều trường hợp rất cần đến việc xác định các dấu hiệu về thời gian, địa điểm thực hiện hành vi. Nghiên cứu điều này tức là có thể xác định được điều kiện thực hiện hành vi vi phạm của cá nhân, tổ chức vi phạm. Thứ hai, mặt chủ quan của vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục: Mặt chủ quan của vi phạm là dấu hiệu bên trong của vi phạm hành chính. Một hành vi trái pháp luật không đồng nghĩa với vi phạm pháp luật, nếu chưa xác định yếu tố chủ quan là lỗi, thái độ và đông cơ, mục đích của người vi phạm đối với hành vi của mình. Lỗi là dấu hiệu cơ bản trong cấu thành của mọi vi phạm hành chính. Lỗi là quan hệ tâm lý bên trong của cá 15 nhân đối với vi phạm, hay nói cách khác, lỗi là thái độ tâm lý của người vi phạm, biểu hiện thái độ động cơ và mục đích của người đó đối với hành vi vi phạm của mình. Lỗi được quy định rõ Khoản 2, Điều 1 Nghị định của Chính Phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục gồm 02 hình thức: lỗi cố ý và lỗi vô ý. Lỗi cố ý, thể hiện ở chỗ người có hành vi vi phạm nhận thức được tính chất hành vi của mình nhưng vẫn thực hiện hoặc nhân thức được nghĩa vụ pháp lý bắt buộc và hoàn toàn có khả năng xử sự theo đúng nghĩa vụ đó nhưng lại có ý thức xem thường. Lỗi vô ý có hai hình thức thể hiện: Vô ý do cẩu thả là việc ngưòi có hành vi vi phạm không biết và không nhận thức được rằng hành vi của mình là trái pháp luật, mặc dù cần phải biết và nhận thức được điều đó. Vô ý do quá tự tin là việc ngưòi có hành vi vi phạm nhận thức được nhưng do khinh suất hoặc tự tin cho rằng có thể ngăn ngừa dễ dàng hậu quả của hành vi trái pháp luật đó của mình. Thứ ba, khách thể của vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục Khách thể của vi phạm hành chính là cái mà hành vi vi phạm xâm hại đến. Tại Khoản 2, Điều 1 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 quy định khách thể của vi phạm hành chính nói chung là “ quy định của pháp luật về quản lý nhà nước”. Khách thể của vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục cũng là “các quy định quản lý nhà nước” nhưng thuộc “lĩnh vực giáo dục”. Khách thể của vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục thực chất là các quan hệ xã hội được các quy định quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục bảo vệ. Nghiên cứu sâu hơn, cần khẳng rằng, không phải toàn bộ các quan hệ xã hội được các quy định quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục bảo vệ là khách thể của vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục, mà chỉ những quan hệ được bảo vệ bằng các biện pháp trách nhiệm hành chính trong số đó mà thôi. Nếu các quan hệ đó không được các quy phạm về trách nhiệm hành 16 chính bảo vệ thì đó không phải là khách thể của vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục, mà có thể là khách thể của tội phạm, vi phạm kỷ luật, vi phạm dân sự, lao động, hành chính, kinh tế… Thứ tư, chủ thể của vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục Theo quy định của pháp luật về vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục, chủ thể của vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục là cá nhân, tổ chức có năng lực chịu trách nhiệm hành chính. Cá nhân có thể chịu trách nhiệm hành chính khi có đủ năng lực pháp lý trách nhiệm hành chính và năng lực hành vi trách nhiệm hành chính, trừ những người mất khả năng điều khiển hành vi như không bị bệnh tâm thần và các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng tự điều khiển hành vi của mình; những người hành động trong các trường hợp thuộc tình thế cấp thiết, phòng vệ chính đáng, sự kiện bất ngờ. (Khoản 5, Điều 3, Nghị định Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục). Điều 7 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và Điều 2 Nghị định Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục quy định rõ: Người từ đủ 14 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hành chính về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra; Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi vi phạm hành chính thì bị phạt cảnh cáo; Người đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị áp dụng hình thức xử phạt vi phạm hành chính trong giáo dục như người đã thành niên nhưng mức phạt tiển không được quá một phần hai mức phạt đối với người thành niên; trong trường hợp họ không có tiền nộp phạt thi cha mẹ hoặc người giám hộ phải nộp thay; Người chưa thành niên vi phạm hành chính gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Ngoài các cá nhân thông thường, quân nhân tại ngũ, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện và những người thuộc lực lượng Công an nhân dân vi phạm hành chính thì bị xử lý như đối với các công dân khác. Với quy định của pháp luật hiện hành, cán bộ, công chức có hành vi vi phạm hành chính khi thi hành công vụ sẽ bị xác định trách nhiệm pháp lý sau khi 17 cơ quan, tổ chức nơi người đó công tác bị xử phạt hành chính về chính hành vi của cá nhân đó. Cá nhân, tổ chức nước ngoài vi phạm trong phạm vi lãnh thổ, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thi bị xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác. Khi tổ chức của Việt Nam là chủ thể của vi phạm hành chính sẽ bị xử phạt hành chính về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra. Việc xác định trách nhiệm pháp lý đối với tổ chức là vấn đề hết sức phức tạp và sẽ tiếp tục nghiên cứu ở phần sau. 2. Khái niệm xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục; Nguyên tắc, đặc điểm của xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục: 2.1. Khái niệm xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục: Vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục cũng giống như vi phạm hành chính nói chung và mọi vi phạm pháp luật khác đều là những hành vi trái pháp luật, gây nguy hiểm cho xã hội ở mức độ thấp hơn tội phạm. Vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục xâm hại trực tiếp đến những quy định quản lý nhà nước ở riêng lĩnh vực giáo dục, làm ảnh hưởng đến những quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và cá nhân khác. Chúng ta có thể đưa ra khái niệm về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục như sau: “ Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục là một biện pháp cưỡng chế của Nhà nước áp dụng đối với cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục” 2.2. Nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục: Theo quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Nghị định của Chính phủ về Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực 18 giáo dục có thể thấy xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục cần đảm bảo các nguyên tắc sau: Thứ nhất, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Khoản 2, Điều 3 Nghị định 49 quy định “Cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục khi có hành vi vi phạm quy định tại Nghị định này và các Nghị định khác của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính có liên quan. Ngoài ra, theo Pháp lệnh về Xử lý vi phạm hành chính năm 2002, việc xử lý vi phạm hành chính phải do người có thẩm quyền tiến hành theo đúng quy định của pháp luật. Và nhiều quy định khác thể hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trọng hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục. Chủ thể có hành vi vi phạm chỉ bị xử phạt hành chính khi pháp luật quy định hành vi đó phải bị xử lý và người xử lý hành chính cũng phải tiến hành các trình tự theo đúng quy định về thẩm quyền và thủ tục luật định. Thứ hai, nguyên tắc kịp thời, nhanh chóng, triệt để. Mọi hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục phải được phát hiện kịp thời và phải bị đình chỉ ngay. Việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục phải được tiến hành nhanh chóng, triệt để, mọi hậu quả do hành vi vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật Thứ ba, nguyên tắc xử lý công minh. Pháp luật quy định mọi hoạt động xử lý vi phạm hành chính nói chung và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục nói riêng phải đảm bảo công minh. Xử lý phải đúng người, đúng với tính chất của hành vi, tính đến một cách toàn diện đầy đủ mọi tình tiết có liên quan đến hành vi (tình tiết tăng nặng giảm nhẹ), mức độ và hình thức lỗi, hậu quả của hành vi, các yếu tố nhân thân, nói chung tính công minh thể hiện sự thỏa đáng, công bằng và đúng pháp luật. Thứ tư, nguyên tắc bình đẳng, công khai, nhân đạo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, danh dự và nhân phẩm của công dân…Nguyên tắc này 19 được thể hiện ở hầu hết các văn bản pháp lý của Nhà nước ta. Trong quá trình xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục cần căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, nhân thân người vi phạm và những tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tặng nặng để quyết định hình thức, biện pháp xử lý thích hợp; Không xử lý vi phạm hành chính trong các trường hợp thuộc tình thế cấp thiết, phòng vệ chính đáng, sự kiện bất ngờ hoặc vi phạm hành chính của cá nhân mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác đã làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng tự điều khiển hành vi của mình. Thứ năm, các nguyên tắc kỹ thuật khác trong quá trình xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục, cụ thể: - Một hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính một lần… - Áp dụng biện pháp xử phạt đối với một hoặc nhiều chủ thể khi thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục… - Cá thể hoá trách nhiệm tập thể, cá nhân… Xử lý vi phạm hành chính nói chung và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục nói riêng là một trong những hoạt động quản lý nhà nước rất quan trọng. Theo quan điểm của Các- Mác thì: “ Hình phạt chằng qua là sự tự vệ của xã hội đối với những hành vi xâm phạm đến điều kiện tồn tại của nó”. Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục bao gồm nhiều hoạt động cụ thể khác nhau. Trong các hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục thì hoạt động xử phạt vi phạm hành chính là một trong những hoạt động quan trọng nhất, có ý nghĩa to lớn trong đấu tranh phòng chống vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục, có tác dụng trực tiếp củng cố, tăng cường trật tự quản lý nhà nước. Thực chất của việc xử phạt vi phạm hành chính nói chung và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục nói riêng là việc áp dụng các chế tài hành chính có tính chất răn đe do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành đối với cá nhân, tổ chức vi phạm 20 hành chính theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, việc áp dụng chế tài hành chính không phải tập trung vào mục đích răn đe mà chủ yếu hướng tới giáo dục người vi phạm và công dân nói chung. Chúng ta có thể đưa ra khái niệm về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục như sau: “ Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục là hoạt động áp dụng các chế tài hành chính do các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành theo thủ tục do pháp luật quy định nhằm mục đích giáo dục và răn đe các chủ thể vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục cũng như các công dân nói chung để bảo vệ trật tự quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục.”. 2.3. Đặc điểm của xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục: Hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục có những đặc điểm cơ bản sau đây: Thứ nhất, cơ sở để xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục trước hết là hành vi vi phạm hành chính mà theo quy định của pháp luật hành vi này vi phạm quy định quản lý nhà nước về giáo dục nhưng chưa phải là tội phạm. Điều này có nghĩa là xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục chỉ được tiến hành khi có hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục. Khoản 2, điều 3 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 quy định: “Cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt hành chính khi có vi phạm hành chính do pháp luật quy định.” Như vậy, để thực hiện xử lý vi phạm hành chính nói chung và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục nói riêng, trước hết đòi hỏi các chủ thể có thẩm quyền xử lý phải xem xét đã có hành vi vi phạm hành chính xảy ra hay chưa? Hành vi vi phạm đó đã được quy định trong các văn bản pháp luật về xử phạt hành chính hay không? 21
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan