Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở việt nam hiện nay...

Tài liệu Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở việt nam hiện nay

.PDF
99
1364
101

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN MẠNH QUÂN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2013 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN MẠNH QUÂN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số : 60 38 01 luận văn thạc sĩ luật học Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Hoàng Thị Kim Quế HÀ NỘI - 2013 2 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 8 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò và ý nghĩa thi hành án dân sự 8 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm thi hành án dân sự 8 1.1.2. Vai trò, ý nghĩa của thi hành án dân sự 21 1.2. Nội dung cơ bản của pháp luật thi hành án dân sự 25 1.2.1. Đối tượng điều chỉnh của luật thi hành án dân sự Việt Nam 25 1.2.2. Phương pháp điều chỉnh 28 1.2.3. Phạm vi điều chỉnh 29 1.3. Các tiêu chí đánh giá sự hoàn thiện của pháp luật thi hành án dân sự 30 1.4. Lịch sử hình thành và phát triển của thi hành án dân sự Việt Nam 37 1.4.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1989 37 1.4.2. Giai đoạn từ 01/01/1990 đến 30/6/1993 41 1.4.3. Giai đoạn từ 1993 đến đến trước khi có Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 42 1.4.4. Giai đoạn từ khi ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 đến trước khi có Luật Thi hành án dân sự năm 2008 43 4 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 51 HIỆN HÀNH VÀ TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI HỆ THỐNG PHÁP LUẬT NÓI CHUNG 2.1. Thực trạng pháp luật thi hành án dân sự 51 2.1.1. Về hệ thống tổ chức thi hành án dân sự 51 2.1.2. Ngạch, thi tuyển, nhiệm kỳ bổ nhiệm Chấp hành viên (Điều 17, Điều 18) 52 2.1.3. Về thời hiệu yêu cầu thi hành án (Điều 30) 52 2.1.4. Về điều kiện xem xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp Ngân sách nhà nước (Điều 61) 53 2.1.5. Về các biện pháp bảo đảm thi hành án (từ Điều 66 đến Điều 69) 53 2.1.6. Về biện pháp và thủ tục cưỡng chế thi hành án (Chương IV) 54 2.1.7. Về định giá, định giá lại, bán đấu giá tài sản kê biên (Điều 98, 99 và Điều 101) 54 2.1.8. Về thi hành nghĩa vụ buộc nhận người lao động trở lại làm việc (Điều 121) 55 2.1.9. Về thi hành án đối với một số trường hợp cụ thể (từ Điều 122 đến Điều 149) 55 2.1.10. Về nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan, tổ chức trong thi hành án dân sự (Chương VIII) 55 2.2. Pháp luật thi hành án dân sự hiện hành trong mối quan hệ với hệ thống pháp luật nói chung 58 2.2.1. Mô hình quản lý nhà nước về công tác thi hành án chưa hoàn chỉnh 60 2.2.2. Các văn bản pháp luật về thi hành án và các văn bản pháp luật thuộc các lĩnh vực khác trong hệ thống pháp luật còn mâu thuẫn, thiếu đồng bộ, thống nhất 62 2.2.3. Hệ thống pháp luật còn có những "khoảng trống" làm ảnh hưởng đến hiệu quả công tác thi hành án 69 Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP VÀ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ NHẰM 74 5 HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VIỆT NAM 3.1. Giải pháp hoàn thiện 74 3.1.1. Tăng cường việc nghiên cứu, triển khai chủ trương của Đảng về xây dựng văn bản pháp luật chung điều chỉnh hoạt động Thi hành án và chủ trương thống nhất đầu mối quản lý công tác thi hành án 74 3.1.2. Hoàn thiện việc thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành 75 3.2. Những đề xuất, kiến nghị 81 KẾT LUẬN 88 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 90 6 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Thi hành án dân sự có vai trò quan trọng trong hoạt động tư pháp nói chung và quá trình giải quyết vụ án nói riêng. Bản án, quyết định của Tòa án chỉ thực sự có giá trị khi được thi hành trên thực tế. Hoạt động thi hành án có ý nghĩa vô cùng quan trọng và là công đoạn cuối cùng bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa án được chấp hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, củng cố pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước. Chính vì vậy, Hiến pháp năm 1992 đã quy định rõ: "Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành" [36]. Nhận thức tầm quan trọng của công tác thi hành án, từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách về thi hành án dân sự, như: Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (1995), Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (1997), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX (2004) và nhất là trong Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, Hội đồng nhà 7 nước trước đây, nay là Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989, Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 và gần đây là Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004. Kết quả sau hơn ba năm thực hiện Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 cho thấy, nhiều quy định về thủ tục thi hành án đã thể hiện được quan điểm cải cách tư pháp, cải cách hành chính, phù hợp với sự chuyển đổi từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường, tháo gỡ kịp thời một số tồn tại, vướng mắc trong công tác thi hành án dân sự, góp phần từng bước nâng cao hiệu quả của công tác thi hành án. Tuy nhiên, so với đòi hỏi của thực tiễn và yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới thì Pháp lệnh năm 2004 đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, nhất là quy định về trình tự, thủ tục; trách nhiệm, cơ chế phối hợp của các cơ quan, tổ chức có liên quan trong thi hành án; cơ chế quản lý, mô hình tổ chức cơ quan thi hành án chưa ngang tầm với chức năng, nhiệm vụ, tính chất công việc được giao; quyền hạn của cơ quan thi hành án, của Chấp hành viên chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ; chưa có cơ chế phối hợp hiệu quả giữa thi hành án dân sự với thi hành án phạt tù, đặc biệt là các vụ án hình sự có bồi thường thiệt hại; chưa tạo ra cơ sở pháp lý để thực hiện xã hội hóa hoạt động thi hành án dân sự, v.v... Các hạn chế, bất cập này là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng án dân sự tồn đọng, tuy có giảm dần, nhưng hiện nay vẫn còn lớn (năm 2005 có 327.658 vụ việc tồn đọng chiếm 58.38%; năm 2006 có 331.092 vụ việc tồn đọng chiếm 54.99%; năm 2007 có 311.443 vụ việc tồn đọng chiếm 48.04%; năm 2008 có 313.428 vụ việc tồn đọng), làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, tính nghiêm minh của pháp luật; quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và Nhà nước theo bản án, quyết định của Tòa án chưa được bảo đảm, nhiều việc gây bức xúc trong xã hội. Từ những vấn đề trên cho thấy Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế, vì vậy cần phải tiếp tục hoàn thiện các quy định về thi hành án dân sự. Ngày 14/11/2008, Quốc hội khóa XII tại kỳ 8 họp thứ tư đã thông qua Luật Thi hành án dân sự số 26/2008/QH12 và Nghị quyết về việc thi hành Luật Thi hành án dân sự số 24/2008/QH12. Đây là hai văn bản pháp lý có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Để thi hành Luật Thi hành án dân sự, Chính phủ, các Bộ, ngành đã ban hành hơn 20 văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành, một số văn bản quan trọng như: Nghị định 58/2009/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự; Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 27 tháng 4 năm 2009 quy định về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm ở Thành phố Hồ Chí Minh; Nghị định số 74/2009/NĐ-CP ngày 09 tháng 9 năm 2009 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và công chức làm công tác thi hành án dân sự… Luật Thi hành án dân sự có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2009, đến nay qua hơn hai năm thực hiện đã có sự chuyển biến tích cực, công tác thi hành án dân sự đã đạt được một số kết quả đáng kể, cụ thể: Kết quả thi hành án dân sự từ ngày 01/10/2010 đến ngày 30/9/2011 của cả nước như sau: - Tổng số việc phải thi hành là 632.545 việc, tăng 17.134 việc (2,78%) so với năm 2010. Qua phân loại thì có: 431.979 việc có điều kiện thi hành (chiếm 68,29%); chưa có điều kiện thi hành là 200.566 việc (chiếm 31,71%). Đã thi hành xong 379.990 việc đạt tỷ lệ 88% (vượt chỉ tiêu 7%), tăng 28.617 việc (1,65%) so với năm 2010 [9, tr. 3]. - Tổng số tiền phải thi hành là 35.416 tỷ 341 triệu 736 nghìn đồng, tăng 4.718 tỷ 241 triệu 624 nghìn đồng (16,14%) so với năm 2010. Kết quả phân loại số có điều kiện thi hành là 13.366 tỷ 290 triệu 661 nghìn đồng (chiếm 37,74%), số chưa có điều kiện thi hành là 22.050 tỷ 51 triệu 75 nghìn đồng (chiếm 62,26%). Đã thi hành được 10.167 tỷ 712 triệu 899 nghìn đồng, đạt tỷ lệ 76,1% so số tiền có điều kiện thi hành (vượt chỉ tiêu 15,1%), tăng 1.866 tỷ 392 triệu 338 nghìn đồng so với năm 2010 [9, tr. 3]. 9 Bên cạnh những chuyển biến tích cực, Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng bộc lộ nhiều khiếm khuyết ở chỗ các quy định "chưa cụ thể, chưa phù hợp với thực tế, thiếu thống nhất với pháp luật có liên quan" [8, tr. 13]. Đó cũng chính là những khó khăn vướng mắc trong thực tiễn thi hành án làm ảnh hưởng nhiều đến kết quả thi hành án, là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến lượng án tồn đọng. Công tác thi hành án dân sự hiện nay vẫn đang đứng trước những khó khăn, thử thách to lớn với nhiều vấn đề tồn tại, bất cập đang đặt ra cần được giải quyết. Hiệu quả công tác thi hành án dân sự chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, và sự quan tâm, mong mỏi của Đảng, Nhà nước và nhân dân; hoạt động thi hành án chưa thật sự đảm bảo được tính công bằng và nghiêm minh của pháp luật. Trước tình hình đó, việc tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện các quy định pháp luật thi hành án dân sự là hết sức cần thiết nhằm khắc phục những hạn chế trong công tác ban hành văn bản pháp luật về thi hành án dân sự nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả thi hành án, đảm bảo quyền và nghĩa vụ hợp pháp của công dân. Với những lý do nêu trên, tôi đã chọn đề tài "Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay" làm luận văn thạc sĩ luật học, đây là một vấn đề cấp thiết và có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc đối với lĩnh vực thi hành án dân sự nhằm xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật thi hành án dân sự góp phần bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Những năm gần đây, trước những đòi hỏi khách quan của công tác thi hành án dân sự, đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề thi hành án dân sự, cụ thể là: Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ "Những cơ sở lý luận và thực tiễn về chế định Thừa phát lại", mã số 95-98-114/ĐT do Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh chủ trì 10 thực hiện; Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: "Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án", mã số 96-98- 027/ĐT do Cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện; Đề tài cấp Nhà nước đang thực hiện: "Luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới" do Bộ Tư pháp chủ trì; Đề tài: "Thi hành án dân sự, thực trạng và hướng hoàn thiện của Dự án VIE/98/001" do Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện dự án. Một số luận án và công trình nghiên cứu khác như: Luận văn thạc sĩ luật học: "Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện" của tác giả Nguyễn Công Long; Luận văn thạc sĩ luật học "Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự" của Nguyễn Thanh Thủy; Luận văn thạc sĩ luật học của Lê Xuân Hồng về "Xã hội hóa thi hành án dân sự ở Việt Nam"; Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Quang Thái về "Đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam"; Luận văn thạc sĩ luật học của Lê Anh Tuấn về "Đổi mới thủ tục thi hành án dân sự ở Việt Nam"... Bên cạnh đó là Giáo trình môn Luật tố tụng dân sự của Trường Đại học Luật Hà Nội và các trường đại học có chuyên ngành luật; một số bài viết đăng trên các tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Luật học, Tạp chí Nhà nước và pháp luật… Các công trình nêu trên đã có nội dung nghiên cứu về thi hành án dân sự ở những góc độ, khía cạnh và mức độ khác nhau. Ở một số công trình cũng đã đề cập đến vấn đề thực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về thi hành án dân sự, nhưng kể từ khi Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được ban hành cho tới nay thì chưa có công trình nghiên cứu vấn đề "Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay" một cách toàn diện, chuyên sâu. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích Trên cơ sở các vấn đề lý luận về thi hành án dân sự, tác giả đặt ra mục đích của đề tài là chỉ ra những bất cập, hạn chế của pháp luật thi hành án dân sự trong mối quan hệ với hệ thống pháp luật nói chung để đưa ra các giải 11 pháp nhằm hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ Để đạt được mục đích lớn đó cần phải thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau: - Làm rõ những cơ sở lý luận về thi hành án dân sự. - Đánh giá đúng đắn về thực trạng pháp luật thi hành án dân sự. - Đưa ra những giải pháp và kiến nghị để hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự. 4. Phạm vi nghiên cứu "Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay" là một đề tài có tính khái quát cao, nội dung phong phú và phức tạp. Vì vậy, trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ luật học, tác giả tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận về thi hành án dân sự; thực trạng pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam hiện nay; những bất cập của pháp luật thi hành án dân sự trong mối quan hệ với hệ thống pháp luật nói chung, từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự nước ta hiện nay. 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và phép biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. - Các phương pháp cụ thể được sử dụng kết hợp, đó là: Phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp. 6. Ý nghĩa và điểm mới của luận văn - Ý nghĩa của luận văn: + Luận văn đã đưa ra và luận giải được một số quan điểm cơ bản về khái niệm thi hành án dân sự, tìm hiểu đặc điểm, bản chất của thi hành án dân 12 sự, góp phần bổ sung, làm phong phú thêm cho hoạt động nghiên cứu khoa học về pháp luật thi hành án. + Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy trong lĩnh vực thi hành án dân sự ở bậc Đại học và Cao đẳng và tham khảo để xây dựng, hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự. - Điểm mới của luận văn: + Đưa ra một số tiêu chí đánh giá sự hoàn thiện của pháp luật thi hành án dân sự; + Chỉ ra được những điểm tồn tại bất cập, mâu thuẫn, thiếu đồng bộ của các văn bản pháp luật thi hành án dân sự kể từ khi Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được ban hành trong mối quan hệ với hệ thống pháp luật nói chung làm ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công tác thi hành án dân sự. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về thi hành án dân sự. Chương 2: Thực trạng pháp luật thi hành án dân sự hiện hành và trong mối quan hệ với hệ thống pháp luật nói chung. Chương 3: Những giải pháp và đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam. 13 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ VÀ Ý NGHĨA THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm thi hành án dân sự 1.1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự Kể từ khi hoạt động thi hành án dân sự được chuyển giao từ Tòa án nhân dân các cấp sang các cơ quan của Chính phủ thì khái niệm thi hành án (nhất là thi hành án dân sự) trở thành đề tài tranh luận sôi nổi trên diễn đàn khoa học pháp lý. Có nhiều quan điểm khác nhau dựa trên những lập luận và cách tiếp cận khác nhau về thi hành án nhưng trong đó nổi lên hai quan điểm cơ bản, đó là quan điểm coi thi hành án là giai đoạn tố tụng và quan điểm coi thi hành án là hoạt động hành chính - tư pháp. Quan điểm thứ nhất cho rằng, thi hành án là một giai đoạn tố tụng: Bởi nếu tách ra thì sẽ không thực hiện được mục tiêu chung của toàn bộ quá trình tố tụng. Khi chân lý được làm sáng tỏ thể hiện trong bản án, quyết định của Tòa án, thì mới dừng lại ở việc làm rõ đúng hay sai, phải hay trái trên văn bản giấy tờ. Muốn nó được thực hiện trên thực tế, cần phải chờ ở hiệu quả của công tác thi hành án. Vì vậy, thi hành án là giai đoạn tiếp theo của quá trình xét xử. Ở giai đoạn này, cơ quan thi hành án áp dụng các biện pháp được pháp luật quy định để đưa chân lý trở thành hiện thực trong đời sống thực tế. Hoạt động thi hành án gắn liền với quá trình xét xử, tiếp theo quá trình xét xử. Thi hành án là hoạt động bảo vệ pháp luật khác về bản chất với các hoạt động hành chính là tổ chức và quản 14 lý. Thi hành án là nhằm mục đích thực thi các phán quyết của Tòa án, đảm bảo các phán quyết của Tòa án được thi hành và thi hành có hiệu quả trên thực tế. Hoạt động thi hành án này gắn liền với quá trình xét xử, chịu sự chi phối của quá trình xét xử [54, tr. 8]. Theo quan điểm này thì thi hành án là giai đoạn nằm trong quá trình giải quyết vụ án, theo đó giai đoạn tố tụng trước của giai đoạn xét xử là giai đoạn chuẩn bị xét xử, còn thi hành án là giai đoạn kế tiếp của giai đoạn xét xử, giai đoạn thực thi các phán quyết của Tòa án trên thực tế. Căn cứ duy nhất để thi hành án là bản án, quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật. Tính lệ thuộc của thi hành án vào công tác xét xử được thể hiện ở việc khẳng định xét xử là tiền để của thi hành án. Trong quá trình thi hành án, vai trò và trách nhiệm của Tòa án gắn chặt với hoạt động thi hành án, thể hiện ở trách nhiệm của Tòa án trong việc "giải thích những điểm chưa rõ, có sai sót hoặc sai lầm về số liệu" trong bản án, quyết định khi cơ quan thi hành án yêu cầu, hoặc thẩm quyền của Tòa án trong việc hoãn thi hành án theo thời gian luật định, hay "xem xét, kháng nghị để xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án quyết định có vi phạm thủ tục tố tụng" khi cơ quan thi hành án kiến nghị. Hậu quả pháp lý của việc xem xét theo trình tự này có thể làm thay đổi kết quả thi hành án hay cách thức tiến hành thi hành án của cơ quan thi hành án. Với quan điểm này, thi hành án được hiểu là giai đoạn kết thúc trình tự tố tụng, là khâu cuối cùng kết thúc một vụ án được xét xử làm cho phán quyết của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Quan điểm thứ hai coi thi hành án là hoạt động hành chính - tư pháp. Theo quan điểm này, quá trình tố tụng mà trọng tâm là việc xét xử của Tòa án chấm dứt khi Tòa án ra phán quyết nhân danh Nhà nước, trong đó Tòa án đã xác định quyền, nghĩa vụ các bên, còn việc thi hành phán quyết đó là giai đoạn khác, không thuộc quá trình tố tụng. Thi hành án không phải là giai đoạn tố tụng, bởi vì: 15 Thi hành án có mục đích khác với mục đích tố tụng, tố tụng là quá trình đi tìm sự thật của các vụ việc đã diễn ra trên thực tế, trên cơ sở đó đưa ra phương án giải quyết vụ việc theo đúng quy định của pháp luật, còn thi hành án là quá trình tiến hành các hoạt động nhằm thực hiện các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật [38, tr. 21]. Cùng quan điểm trên PGS.TS Võ Khánh Vinh cho rằng: Không thể đồng nhất hoạt động thi hành án với hoạt động tố tụng, bởi lẽ hoạt động thi hành án có tính chất chính trị, pháp lý, xã hội của nó. Nghiên cứu hoạt động thi hành án hiện nay cần đặt trong vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền. Về bản chất, hoạt động thi hành án được thể hiện ở ba phương diện chủ yếu sau đây: - Xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quá trình thi hành án; - Tính đặc thù trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan thi hành án; - Đặc thù trong các quan hệ về thủ tục thi hành án (đây là một vấn đề có thể dẫn đến sự nhầm lẫn với quan hệ tố tụng). Quan hệ thủ tục thi hành án có thể bao gồm cả quan hệ tố tụng và quan hệ khác mang tính hành chính tư pháp. Nhưng cần khẳng định rằng, các quan hệ mang tính hành chính tư pháp chủ yếu hơn. Thi hành án là hoạt động của cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, ở một số lĩnh vực, một số công việc Nhà nước có thể xây dựng hành lang pháp lý để thực hiện xã hội hóa hoạt động này. Đây là điểm khác so với hoạt động tố tụng, hoạt động tố tụng mang tính quyền lực tư pháp, không thể xã hội hóa [54, tr. 10-11]. Cùng quan điểm, TS. Đinh Trung Tụng cũng cho rằng: Thi hành án không mang tính tố tụng thuần túy mà có nhiều tính chất của giai đoạn mang tính hành chính - tư pháp. Ở đây có nhiều điểm khác nhau giữa tố tụng và quá trình thực hiện thi hành án. Hoạt động thi hành án là hoạt động đặc thù mà chủ thể thực 16 thi không phải là Tòa án. Các thủ tục trong quá trình thi hành án mang nặng tính hành chính - tư pháp hơn (đặc biệt là trong thi hành án kinh tế, tuyên bố phá sản doanh nghiệp, lao động và một phần của thi hành án hình sự đối với loại hình phạt không phải là hình phạt tù...) [54, tr. 12]. Ngoài hai quan điểm cơ bản nêu trên, còn có quan điểm khác về thi hành án: Quan điểm thứ ba khẳng định, thi hành án là hoạt động tư pháp [43, tr. 8]. Bởi vì, gốc của hoạt động thi hành án là bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định theo quy định của pháp luật. Khi thực hiện nhiệm vụ, Cơ quan thi hành án phải thi hành theo đúng quyết định của Tòa án chứ không phải theo mệnh lệnh hành chính. Thi hành án phần lớn thông qua vai trò hoạt động của các cá nhân những người được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định như Chấp hành viên, Giám thị viên hoặc các cơ quan tổ chức và người có thẩm quyền khác. Hoạt động hành chính trong lĩnh vực thi hành án chẳng qua cũng chỉ để đảm bảo phục vụ cho chức năng chính của cơ quan thi hành án là tổ chức thi hành án theo quy định của pháp luật. Nếu cho rằng thi hành án (nhất là thi hành án dân sự) là giai đoạn độc lập có tính hành chính tư pháp vì hoạt động thi hành án được thực hiện chủ yếu bởi các cơ quan của Chính phủ là không hợp lý vì một hoạt động mang bản chất như thế nào không thể phụ thuộc nhiều vào chủ thể thực hiện nó. Quan điểm thứ tư, coi thi hành án là thủ tục tố tụng tư pháp. Quan điểm này cho rằng không nên hiểu "tố tụng" chỉ là "thưa kiện tại Tòa án nói chung", là hoạt động của cơ quan Tòa án xét xử để đi tìm "chân lý", mà cần xem xét đến bản chất của tố tụng. Đó là việc thực hiện các quy định của pháp luật hình thức theo thủ tục nhất định để giải quyết các quan hệ xã hội theo đúng sự điều chỉnh của pháp luật nội dung nhằm đảm bảo lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tố tụng được thực hiện bởi nhiều cơ quan, hoạt động nào tuân theo thủ tục do pháp luật hình thức quy định là hoạt 17 động tố tụng. Do đó có nhiều loại tố tụng: tố tụng dân sự, tố tụng hình sự, tố tụng hành chính, tố tụng thi hành án. Ngoài ra, khi xem xét về tính chất của việc thi hành án, thì tất cả các bản án, quyết định của Tòa án và của Trọng tài đều có tính chất tư pháp hiểu theo nghĩa rộng, tức không chỉ là việc xét xử mà bao gồm cả lĩnh vực bổ trợ tư pháp. Vì tất cả những lý do nêu trên thi hành án được hiểu theo nghĩa rộng là thủ tục tố tụng tư pháp. Để có thể xem xét thi hành án dân sự có phải là hoạt động tố tụng hay không, mang bản chất hành chính hay tư pháp, theo chúng tôi cần phải xem xét một số vấn đề sau: Thứ nhất, mục đích của thi hành án dân sự Trong quá trình tố tụng, cũng như sau khi đã kết thúc quá trình tố tụng, Tòa án đưa ra một bản án hoặc quyết định giải quyết một cách tổng thể về nội dung vụ án (trường hợp vụ án được đưa ra xét xử). Bằng bản án, quyết định của mình Tòa án nhân danh Nhà nước xác định rõ sự thật khách quan của vụ án; xác định rõ quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia vào quá trình tố tụng. Tuy nhiên, lúc này quyền và nghĩa vụ của các bên mới chỉ xác định được về mặt lý thuyết, trên cơ sở áp dụng các quy định của pháp luật có liên quan để giải quyết vụ việc và còn nằm trên giấy. Tương tự như vậy, khi giải quyết các tranh chấp, Trọng tài thương mại cũng mới chỉ vận dụng các quy định của pháp luật để giải quyết vụ việc và kết quả của quá trình giải quyết tranh chấp đó cũng vẫn chỉ nằm trên giấy. Để các quyền, nghĩa vụ này được thực thi trên thực tế, cần thiết phải có một hoạt động tiếp theo để tổ chức thực hiện các quyền và nghĩa vụ đã được xác định trong bản án, quyết định đó.Do đó, có thể thấy, mục đích của thi hành án dân sự là tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và Trọng tài thương mại, biến các quyền, nghĩa vụ về mặt lý thuyết thành các quyền, nghĩa vụ thực tế. Thông qua thi hành án dân sự, trật tự pháp luật, tình trạng ban đầu của cácquan hệ do bị hành vi vi phạm xâm hại được khôi phục. Như vậy, nếu coi mục đích 18 của tố tụng là khôi phục lại trật tự pháp luật đã bị xâm hại, đưa nó trở về trạng thái ban đầu như trước khi bị vi phạm, thì thi hành án dân sự là một giai đoạn của tố tụng. Có thể nói, mục đích của quá trình tố tụng bao trùm lên mục đích của thi hành án dân sự. Mục đích của thi hành án dân sự là nhằm củng cố thêm mục đích của tố tụng. Thứ hai, tính chất công việc mà cơ quan thi hành án phải thực hiện Theo quy định của Luật Thi hành án dân sự năm 2008, thì cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lựcpháp luật (bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm; quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án; bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài đã được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam; quyết định của Trọng tài thương mại Việt Nam có hiệu lực thi hành) và những bản án, quyết định của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay (bản án, quyết định sơ thẩm về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp mất việc làm, bảo hiểm xã hội hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe; nhận người lao động trở lại làm việc; quyết định khẩn cấp tạm thời để bảo đảm lợi ích cấp thiết của đương sự, bảo đảm cho việc xét xử và thi hành án...) đều là kết quả của quá trình giải quyết tranh chấp, nhưng tính chất lại khác nhau. Bản án, quyết định của Tòa án là kết quả của quá trình tố tụng, nên nó mang bản chất tư pháp. Còn quyết định của Trọng tài thương mại, là kết của quá trình giải quyết tranh chấp thông thường, nên nó không mang bản chất tư pháp. Thứ ba, tính chất các hoạt động cơ bản do cơ quan thi hành án tiến hành để tổ chức thi hành một bản án, quyết định về dân sự Nếu coi xét xử là giai đoạn cuối cùng của quá trình tố tụng và bản án, quyết định là điểm nút kết thúc giai đoạn đó và đồng thời kết thúc quá trình tố 19 tụng, thì thi hành án dân sự là một giai đoạn sau của giai đoạn xét xử, mang tính chấp hành. Lúc này sự thật khách quan về vụ án đã được sáng tỏ, các quyền và nghĩa vụ của các bên đã được xác định rõ, cơ quan thi hành án dân sự sẽ căn cứ vào đó để tổ chức thi hành theo đúng các trình tự đã được quyđịnh trong Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành. Cơ quan thi hành án dân sự phải tổ chức thi hành đúng nội dung phần quyết định của bản án (trường hợp chủ động thi hành án); thi hành đúng nội dung bản án và đơn yêu cầu thi hành án (trường hợp thi hành án theo đơn yêu cầu). Cơ quan thi hành án không được tổ chức thi hành án trái với nội dung quyết định của bản án. Đồng thời, trong quá trình tổ chức thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự, sử dụng quyền lực nhà nước trực tiếp tác động đến các bên có liên quan đến việc thi hành án. Mặc dù, trong quá trình thi hành án, quyền định đoạt của các bên đương sự vẫn được tôn trọng, người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận với nhau về cách thức thi hành án. Tuy nhiên, nếu như các bên không thỏa thuận được về phương thức thi hành án, hoặc đã thỏa thuận nhưng bên phải thi hành án không tự nguyện thực hiện đúng, thì cơ quan thi hành án dân sự sử dụng quyền lực nhà nước thông qua việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết để tổ chức thi hành dứt điểm bản án,quyết định của Tòa án, quyết định của Trọng tài thương mại. Đây là một trong những dấu hiệu rất đặc trưng thể hiện bản chất hành chính của thi hành án dân sự. Tất cả các trường hợp, nếu như đương sự có điều kiện thi hành án, nhưng không tự nguyện thi hành, đều dẫn tới việc áp dụng biện pháp cưỡng chế để thi hành dứt điểm bản án, quyết định của Tòa án và quyết định của Trọng tài thương mại. Mặt khác, mặc dù trong quá trình tổ chức thi hành bản án, quyết định, chấp hành viên - người được Nhà nước giao nhiệm vụ trực tiếp tổ chức thi hành án, chịu trách nhiệm trước pháp luật về toàn bộ hoạt động của mình. Tuy nhiên, với tư cách là người thừa hành nhiệm vụ, chấp hành viên vẫn phải tuân theo sự chỉ đạo về mặt nghiệp vụ của cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và của thủ trưởng cơ quan thi 20 hành án dân sự. Trong quá trình tổ chức thi hành án, nếu như chấp hành viên có vi phạm về mặt thủ tục thi hành án dẫn tới việc khiếu nại của đương sự, thì việc giải quyết khiếu nại được thực hiện thông qua thủ tục hành chính. Người có thẩm quyền sẽ giải quyết khiếu nại bằng một quyết định giải quyết khiếu nại. Trong quyết định giải quyết khiếu nại sẽ chấp nhận, không chấp nhận, chấp nhận một phần hay chấp nhận toàn bộ khiếu nại của đương sự. Trường hợp chấp nhận khiếu nại của đương sự, người có thẩm quyền sẽ hủy bỏ các quyết định có vi phạm của chấp hành viên và yêu cầu chấp hành viên tổ chức thi hành lại theo đúng trình tự thủ tục đã được quy định trong pháp luật thi hành án dân sự mà không trực tiếp rút lên để giải quyết theo một trình tự, thủ tục khác như trong tố tụng. Như vậy, có thể thấy rằng, thi hành án dân sự là hoạt động mang đậm tính chấp hành và điều hành. Thứ tư, mối quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự với các cơ quan khác trong quá trình tổ chức thi hành bản án, quyết định về dân sự Khác với các hoạt động tố tụng khác như hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, mối quan hệ giữa cơ quan điều tra, truy tố, xét xử được quy định chặt chẽ trong luật tố tụng, quan hệ trên cơ sở luật tố tụng, thì trong hoạt động thi hành án dân sự, mối quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự với các cơ quan chức năng khác chủ yếu dựa trên cơ sở của Pháp lệnh Thi hành án dân sự và các luật, pháp lệnh, nghị định quy định về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức có liên quan. Do đó, các quan hệ của cơ quan thi hành án với các cơ quan khác chủ yếu là các quan hệ mang bản chất hành chính, có tính chấp hành và điều hành. Thậm chí ngay cả các quan hệ với cơ quan tố tụng như Tòa án, Công an, thì các quan hệ này cũng hầu như không được quy định cụ thể trong luật tố tụng. Mỗi quan điểm trên đều có những lập luận và cơ sở khoa học riêng. Tuy nhiên từ những phân tích trên, theo tôi quan điểm thứ hai coi thi hành án là hoạt động hành chính- tư pháp là có nhiều điểm hợp lý hơn cả. Bởi vì, thi 21
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan