Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hoàn thiện kế toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh tại công ty tnhh thư...

Tài liệu Hoàn thiện kế toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh tại công ty tnhh thương mại tân á châu

.DOC
86
81
114

Mô tả:

Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 LỜI NÓI ĐẦU Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp được coi như là những tế bào của xã hội mà sự tồn tại và phát triển của chúng đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân. Đối với các doanh nghiệp nói chung và công ty cổ phần vật liệu xây dựng Thái Bình nói riêng thì sự phát triển của nó phụ thuộc rất lớn vào hoạt động tài chính của bản thân doanh nghiệp hay nói cách khác là phụ thuộc vào hiệu quả quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp mình. Bởi vậy, trên cơ sở thực hiện các biện pháp chủ yếu về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của nhà nước, đảm bảo quyền tự chủ và độc lập về mặt tài chính đòi hỏi tất cả các doanh nghiệp phải có các biện pháp hợp lý sử dụng nguồn vốn của mình một cách có hiệu quả nhất. Hiệu quả sử dụng vốn cao hay thấp sẽ quyết định đến sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp trong môt trường cạnh tranh quyết liệt hiện nay. Cũng như nhiều doanh nghiệp khác, công ty cổ phần vật liệu xây dựng Thái Bình đang phải đương đầu với những khó khăn về sản xuất, về quản lý vốn và các nguồn lực khác. Vốn đầu tư của công ty tăng lên nhưng lợi nhuận lại không tăng, thậm chí còn bị giảm. Sau thời gian thực tập tại công ty cổ phần vật liệu xây dựng Thái Bình, xuất phát từ tình hình thực tế của công ty, tôi đã chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty cổ phần vật liệu xây dựng Thái Bình” làm nội dung nghiên cứu của mình. Với phương pháp nghiên cứu kết hợp giữa lý luận với thực tiễn trên cơ sở phân tích các hoạt động tài chính của công ty, bản luận văn này nhằm nêu rõ bản chất và vai trò của vốn trong nền kinh tế thị trường, nguyên tắc và nội Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 dung trong công tác sử dụng vốn của doanh nghiệp, đồng thời đưa ra các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty cổ phần vật liệu xây dựng Thái Bình. Luận văn được xây dựng thành 3 chương: Chương I: Vốn và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Chương II: Thực trạng về tình hình sử dụng vốn tại công ty cổ phần vật liệu xây dựng Thái Bình. Chương III: Giải pháp nâ ng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty cổ phần vật liệu xây dựng Thái Bình. Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 CHƯƠNG I VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN CỦA DOANH NGHIỆP 1.1. Vốn trong hoạt động của doanh nghiệp 1.1.1. Vốn của doanh nghiệp 1.1.1.1. Khái niệm và phân loại A. Khái niệm: Vốn luôn đóng một vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp. Để định nghĩa “vốn là gì?” các nhà kinh tế đã tốn rất nhiều công sức và mỗi người đều có những định nghĩa riêng, theo quan điểm riêng của mình. Theo quan điểm của Marx, dưới giác độ các yếu tố sản xuất, vốn đã được khái quát hóa thành phạm trù tư bản trong đó nó đem lại giá trị thặng dư và là “một đầu vào của quá trình sản xuất”. Định nghĩa về vốn của Marx có một tầm khái quát lớn vì nó bao hàm đầy đủ cả bản chất và vai trò của vốn. Bản chất của vốn chính là giá trị cho dù nó có thể được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: nhà cửa, tiền của…Vốn là giá trị đem lại giá trị thặng dư vì nó tạo ra sự sinh sôi về giá trị thông qua các hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, do hạn chế về trình độ kinh tế lúc bấy giờ, Marx đã chỉ bó hẹp khái niệm về vốn trong khu vực sản xuất vật chất và cho rằng chỉ có kinh doanh sản xuất vật chất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế. Theo David Begg, tác giả cuốn “kinh tế học”, thì vốn bao gồm: vốn hiện vật và vốn tài chính doanh nghiệp. Vốn hiện vật là dự trữ hàng hóa đã sản xuất Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 để sản xuất ra các hàng hóa khác, vốn tài chính là các tiền và các giấy tờ có giá của doanh ngiệp. Trong định nghĩa của mình, tác giả đã đồng nhất vốn với tài sản của doanh nghiệp. Tuy nhiên, thực chất vốn của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tất cả tài sản của doanh nghiệp dùng trong sản xuất kinh doanh. Vốn của doanh nghiệp được phản ánh trong bảng cân đối tài sản của doanh nghiệp. Bất cứ doanh nghiệp nào cũng cần phải có một lượng vốn nhất định để thực hiện những khoản đầu tư cần thiết như chi phí thành lập doanh nghiệp, mua sắm nguyên vật liệu, trả lãi vay, nộp thuế… đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được liên tục, chi phí mua công nghệ và máy móc thiết bị mới… để tái sản xuất mở rộng. Do vậy vốn đưa vào sản xuất kinh doanh có nhiều hình thái vật chất khác nhau để từ đó tạo ra sản phẩm hàng hóa, dịch vụ tiêu thụ trên thị trường. Số tiền mà doanh nghiệp thu về sau quá trình tiêu thụ phải bù đắp được chi phí đã bỏ ra và có lãi. Số tiền ban đầu đã được tăng thêm nhờ hoạt động sản xuất kinh doanh. Quá trình này diễn ra liên tục bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Còn trong nền kinh tế thị trường, vốn được coi là một loại hàng hóa. Nó giống các hàng hóa khác ở chỗ có chủ sở hữu đích thực, song nó có đặc điểm khác vì người sở hữu vốn có thể bán quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định. Giá của quyền sử dụng vốn chính là lãi suất. Chính nhờ có sự tách rời quyền sở hữu và quyền sử dụng nên vốn có thể lưu chuyển trong đầu tư kinh doanh và sinh lời. Dưới góc độ của doanh nghiệp, vốn là một trong những điều kiện vật chất cơ bản kết hợp với sức lao động và các yếu tố khác làm đầu vào cho quá trình sản xuất kinh doanh. Sự tham gia của vốn không chỉ bó hẹp trong quá trình sản xuất riêng biệt mà trong toàn bộ quá trình sản xuất và tái sản xuất Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 liên tục, suốt thời gian tồn tại của doanh nghiệp, từ khi bắt đầu quá trình sản xuất dầu tiên đến chu kỳ sản xuất cuối cùng. Tóm lại, do có rất nhiều quan niệm về vốn nên rất khó đưa ra được một định nghĩa chính xác và hoàn chỉnh về vốn. Tuy nhiên có thể hiểu mọt cách khái quát về vốn như sau: Vốn của doanh nghiệp là toàn bộ những giá trị ứng ra ban đầu, tham gia liên tục vào quá trình sản xuất kinh doanh với mục đích đem lại giá trị thặng dư. B. Phân loại vốn: Để có thể quản lý, sử dụng vốn có hiệu quả bước đầu tiên mà người quản lí doanh nghiệp phải thực hiện là phân loại vốn. Đây là công việc được các doanh nghiệp ở các nước có nền kinh tế phát triển rất quan tâm vì nó ảnh hưởng rất nhiều tới chi phí vốn và cơ cấu huy động vốn. ở các nước đang phát triển, các nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh chưa nhiều nên việc phân loại vốn chưa được mọi người quan tâm. - Căn cứ vào cơ cấu vốn trong sản xuất kinh doanh: phân thành hai loại là Vốn sản xuất và vốn đầu tư. - Vốn sản xuất: Là loại vốn sử dụng trong quá khứ và hiện tại phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Đó là số tiền, tài sản hữu hình, vô hình... dùng trong việc hình thành công việc sản xuất, duy trì và phát triển hoạt động của doanh nhgiệp. Hiệu quả của nó được đánh giá thông qua sự phát triển của doanh nghiệp và uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. - Vốn đầu tư: Là loại vốn phục cho mục đích sản xuát kinh doanh trong tương lai. Số lượng vốn đầu tư phụ thuộc vào kế hoạch, các dự án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn đầu tư sẽ quyết định sự tồn tại và phát triển Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 của doanh nghiệp trong tương lai do sự cạnh tranh ngày càng khóc liệt của các đối thủ cạnh tranh và do tính phức tạp của nhu cầu ngày càng tăng. Việc huy động đủ số lượng, kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh là một vấn đề mà mọi doanh nghiệp luôn luôn quan tâm và dốc sức để hoàn thiện công việc đó. - Căn cứ vào nguồn hình thành vốn Căn cứ vào nguồn hình thành vốn thì toàn bộ vốn của doanh nghiệp được chia thành nợ vay và vốn của chủ sở hữu. Đây là cách phân loại cơ bản và phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Hai loại vốn này có mối quan hệ đặc biệt với nhau khi chúng ta xem xét cơ cấu vốn tối ưu của doanh nghiệp. - Vốn của chủ sở hữu: Là loại vốn do các chủ sở hữu của doanh nghiệp tài trợ và giữ lại phần lợi nhuận chưa phân phối. Đối với các loại vốn này doanh nghiệp không phải hoàn trả những khoản tiền đã huy động được trừ khi doanh nghiệp đóng cửa. Tuy nhiên các chủ sở hữu có thể giảm vốn bằng cách giảm vốn ngân sách nhà nước hay mua lại cổ phiêú... Chi phí vốn chủ sở hữu là chi phí cơ hội cho việc sử dụng vốn. Trong trường hơp huy động vốn cổ phần, chi phí vốn là lợi tức yêu cầu của các cỏ đông. Do tính dài hạn và gần như không hoàn trả, vốn chủ sở hữu có độ an toàn rất cao. - Vốn vay: Những tài trợ cho doanh nghiệp loại vốn này không phải là chủ sở hữu doanh nghiệp. Đặc trưng của loại vốn này là doanh nghiệp phải tiến hành hoàn trả vốn vay trong một thời gian nhất định. Chi phí vốn là lãi phải trả cho các khoản nợ vay. Mức lãi xuất hay chi phí phải trả cho nợ vay thường ổn định và được thoả thuận trước khi vay. Huy động nợ vay rủi ro hơn huy động vốn chủ sờ hữu song đôi khi các doanh nghiệp lại thích sử dụng nợ vay do một đặc điểm hết sức quan trọng. Chi phí nợ vay được tính vào chi phí Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 hợp lí hợp lệ không phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp. Trong khi, lợi tức dành cho chủ sở hữu được trả từ lợi nhuận sau thuế không được tính vào chi phí hợp lí hợp lệ như nợ vay. Đăc điểm này hết sức quan trọng ảnh hưởng tới việc hình thành cơ cấu vốn tối ưu với mục đích tối đa hoá giá trị vốn chủ sở hữu. Nhìn chung đây là hai cách phân loại rất cơ bản và phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Nó giúp cho người sử dụng có thể thấy được thực trạng tài chính của doanh nghiệp khi xem xét về măt kinh tế. Về mặt pháp lí, người sử dụng có thể thấy được trách nhiệm của doanh nghiệp về tổng số vốn đã đăng kí kinh doanh với nhà nước, về số tài sản đã hình thành từ vốn vay ngân hàng... Còn nhiều cách phân loại vốn khác như thành vốn cố định và vốn lưu động, phân chia theo khoản mục. Mỗi cách phân loại sẽ phục vụ những mục đích nhất định. - Căn cứ vào vai trò và đặc điểm chu trình giá trị của vốn khi tham gia vào quá trình kinh doanh có thể chia vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thành 2 bộ phận: vốn cố định và vốn lưu động. + Vốn cố định của doanh nghiệp. Vốn cố định của doanh nghiệp là giá trị ứng trước về tài sản cố định (bao gồm cả tài sản cố định vô hình và tài sản cố định hữu hình). Hay nói cách khác vốn cố định của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp. Đặc điểm của vốn cố định là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm giá trị được luân chuyển dần dần từng phần trong các chu kỳ sản xuất, hoàn thành vòng luân chuyển khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng. Vốn cố định là một thành phần quan trọng của vốn kinh doanh. Để quản lý vốn cố định cần Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 phải hiểu những đặc điểm về hiện vật của vốn cố định và các tài sản cố định của doanh nghiệp. Tài sản cố định của doanh nghiệp là những tài sản có giá trị lớn, thời gian sử dụng dài, có chức năng là tư liệu lao động. Trong khi tham gia vào quá trình sản xuất tài sản cố định được cụ thể hoá như sau: Về mặt hiện vật: Tài sản cố định tham gia hoàn toàn và nhiều lần vào quá trình sản xuất nhưng giá trị thì giảm dần cho đến khi hư hỏng hoàn toàn phải loại khỏi quá trình sản xuất. Về mặt giá trị: TSCĐ được biểu hiện dưới hai hình thái: - Một bộ phận tồn tại dưới hình thái ban đầu gắn với hiện vật là tài sản cố định. - Một bộ phận giá trị chuyển vào sản phẩm mà tài sản cố định sản xuất ra và bộ phận này sẽ chuyển hoá khi bán được sản phẩm. Bộ phận thứ nhất ngày càng giảm, bộ phận thứ hai ngày càng tăng cho đến khi bằng giá trị ban đầu của tài sản cố định thì kết thúc quá trình vận động. Như vậy khi tham gia vào quá trình sản xuất nói chung tài sản cố định không bị thay đổi hình thái hiện vật nhưng tính năng công suất thì bị giảm dần, tức là bị hao mòn và cùng với sự giảm dần về giá trị sử dụng thì giá trị của nó cũng giảm đi. Bộ phận giá trị hao mòn đó đã chuyển vào giá trị sản phẩm sản xuất ra và được tính vào chi phí khấu hao. Quỹ khấu hao dùng để tái sản xuất tài sản cố định khi chúng bị hư hỏng hoàn toàn phải loại ra khỏi quá trình sản xuất đó nhằm duy trì năng lực sản xuất bình thường của doanh nghiệp. Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Chính đặc điểm vận động về hiện vật và giá trị tài sản cố định đã quyết định đặc điểm lưu thông và chu chuyển của vốn cố định, đó là khi tham gia vào quá trình sản xuất, vốn cố định đã bao gồm hai bộ phận. - Một bộ phận tương ứng với giá trị hao mòn sẽ gia nhập vào giá thành sản phẩm và được tích luỹ lại khi sản phẩm được tiêu thụ. - Bộ phận thứ hai là phần giá trị còn lại của tài sản cố định chính từ đặc điểm này của vốn cố định cũng như tài sản cố định mà khi đánh giá tài sản cố định cần có các đại lượng như giá trị ban đầu (nguyên giá), giá trị còn lại của tài sản cố định. Để quản lý và sử dụng vốn cố định có hiệu quả cần nghiên cứu các phương pháp phân loại và kết cấu tài sản cố định. Thông thường có các cách phân loại sau: - Phân loại tài sản cố định theo hình thức thái biểu hiện, theo phương pháp này toàn bộ tài sản của doanh nghiệp được chia thành hai loại: + Tài sản cố định dùng trong sản xuất kinh doanh cơ bản: Là những tài sản cố định vô hình và hữu hình trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất và kinh doanh cơ bản cuả doanh nghiệp như, nhà xưởng, phương tiện vận tải, vật kiến trúc... + Tài sản cố định dùng ngoài sản xuất kinh doanh cơ bản: Là các tài sản dùng cho sản xuất kinh doanh phụ trợ, nhà cửa máy móc thiết bị phục vụ sản xuất phụ trợ và tài sản cố định cho thuê. Phân loại tài sản cố định theo tình hình sử dụng: Theo phương pháp này, căn cứ vào tình hình sử dụng của từng thời kỳ, tài sản cố định phân thành các loại: Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 + Tài sản cố định đang dùng + Tài sản cố định chưa cần dùng + Tài sản cố định không cần dùng và chờ thanh toán Tuỳ theo từng yêu cầu quản lý mà sử dụng từng phân cách phân loại tài sản cố định cho phù hợp, từ đó có các biện pháp quản lý và bảo toàn vốn cố định hiệu quả. - Vốn lưu động của doanh nghiệp: là số vốn được ứng ra để hình thành các tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp được diễn ra liên tục thường xuyên. Vốn lưu động luân chuyển toàn bộ giá trị ngay trong một lần tuần hoàn liên tục và hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ sản xuất. Vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình tái sản xuất kinh doanh. Vốn lưu động của doanh nghiệp dựa theo vai trò của nó trong quá trình tái sản xuất được chia làm ba loại: - Vốn lưu động nằm trong quá trình dự trữ sản xuất, bao gồm, vốn nguyên vật liệu chính vật liệu phụ, phụ tùng thay thế công cụ nhỏ... - Vốn lưu động nằm trong quá trình trực tiếp sản xuất, bao gồm: vốn sản phẩm đang chế tạo, vốn bán thành phẩm tự chế. - Vốn lưu động nằm trong quá trình lưu thông, bao gồm: Vốn tiền tệ vốn trong thanh toán... Dựa vào hình thái biểu hiện và theo chức năng của các thành phần vốn lưu động có thể chia thành: - Vốn vật tư hàng hoá, vốn nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ - Vốn tiền tệ: Gồm vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán. Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 - Căn cứ vào thời gian hoạt động và sử dụng vốn có thể chia nguồn vốn của doanh nghiệp thành hai loại: + Nguồn vốn thường xuyên: là tổng thể các nguồn vốn có tính chất ổn định và dài hạn mà doanh nghiệp có thể sử dụng. Nguồn vốn này được dành cho việc hình thành các tài sản cố định và một bộ phận tài sản lưu động tối thiểu cần thiết cho hoạt động kinh doanh. Nguồn vốn thường xuyên bao gồm chủ sở hữu và các khoản vay dài hạn. + Nguồn vốn tạm thời: là các nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (dưới 1 năm) doanh nghiệp có thể sử dụng nhằm đáp ứng các nhu cầu có tính chất tạm thời, bất thường phát sinh trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn này bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Các khoản nợ ngắn hạn. Việc phân loại này giúp cho người quản lý xem xét huy động các nguồn vốn phù hợp với thời gian sử dụng của các yếu tố trong quá trình kinh doanh. - Căn cứ vào phạm vi hoạt động có thể chia làm hai nguồn: + Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp: Là nguồn vốn có thể huy động từ hoạt động của bản thân doanh nghiệp bao gồm tiền khấu hao tài sản cố định, lợi nhuận để lại và các khoản dự trữ dự phòng, các khoản thu từ nhượng bán thanh lý tài sản cố định. + Nguồn vốn bên ngoài: là nguồn vốn có thể huy động như vay vốn của ngân hàng và các tổ chức kinh tế khác, phát hành trái phiếu nợ người cung cấp và các khoản nợ khác. Cách phân loại này chủ yếu giúp cho sự xem xét huy động nguồn vốn của doanh nghiệp đang hoạt động. 1.1.1.2. Vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có một lượng vốn nhất định đủ lớn như là một tiền đề quyết định, không có vốn sẽ không có bất cứ hoạt động sản xuất kinh doanh nào. Sẽ là không tưởng nếu nghĩ rằng có thể tiến hành bất cứ hoạt động sản xuất kinh doanh nào mà không có vốn hoặc không đủ vốn. Nói một cách khác vốn có vai trò đặc biệt quan trọng để bắt đầu, duy trì và phát triển hoạt động của doanh nghiệp. Vốn là điều kiện không thể thiếu được để thành lập doanh nghiệp. Để bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh, trước hết doanh nghiệp cần mua sắm máy móc, trang thiết bị, xây dựng nhà xưởng hay thuê công sở, mướn nhân công... Vì vậy trong giai đoạn này, doanh nghiệp cần tới một lượng vốn rất lớn và phải huy động vốn. Vốn là điều kiện cần thiết để doanh nghiệp chủ động thực hiện các dự án mang lại lợi nhuận. Không có vốn thì các dự án sản xuất kinh doanh, các cơ hội kinh doanh mang nhiều lợi nhuận sẽ bị bỏ lỡ và sẽ chỉ là dự định, kế hoạch. Mỗi doanh nghiệp cần có chiến lược duy trì và phát triển trên thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt. Vốn vẫn là yếu tố quan trọng hàng đầu giúp doanh nghiệp có khả năng đầu tư, đổi mới công nghệ, đầu tư cho quảng cáo..., nhằm tăng cường cạnh tranh trước các đối thủ. Trong cơ chế bao cấp, mọi nhu cầu về vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước đều được bao cấp qua nguồn cấp phát của ngân sách Nhà nước và qua nguồn tín dụng lãi suất thấp của ngân hàng. Có thể nói trong thời bao cấp vốn của doanh nghiệp Nhà nước hầu như được bao cấp “cho không”. Khi sử dụng đồng vốn doanh nghiệp chỉ lo sao cho làm được kế hoạch Nhà nước giao còn thực tế lãi lỗ không cần quan tâm, nếu thiếu Nhà nước sẽ bù lỗ. Chính vì vậy vấn đề khai thác thu hút vốn không được đặt ra như một yêu cầu cấp bách, có tính sống còn đối với doanh nghiệp. Việc khai Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 thác đảm bảo vốn kinh doanh của doanh nghiệp trở lên hết sức thụ động. Điều này đã một mặt thủ tiêu tính chủ động của một doanh nghiệp, mặt khác tạo ra sự cân đối giả tạo về cung cầu vốn trong nền kinh tế. Đây là lý do chủ yếu để giải thích tại sao trong thời kỳ bao cấp lại vắng mặt và không cần thiết có thị trường vốn. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, các khoản bao cấp về vốn qua cấp phát của ngân sách Nhà nước không còn nữa, doanh nghiệp Nhà nước phải tự trang trải mọi chi phí và đảm bảo kinh doanh có lãi, phải tổ chức và sử dụng đồng vốn có hiệu quả. Mặt khác doanh nghiệp phải bảo toàn số vốn được giao kể cả khi có trượt giá, phải chủ động tìm kiếm bạn hàng, đầu tư đổi mới trong hoạt động kinh doanh. Nếu không làm cho vốn sinh sôi nảy nở, không bảo toàn và phát triển vốn tất yếu sẽ ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, nguy cơ phá sản là khó tránh khỏi. Với vai trò quan trọng to lớn như vậy nên việc bảo tồn và tăng trưởng vốn là một nguyên lí, là điều kiện đảm bảo cho sự phát triển lành mạnh của doanh nghiệp. Chính vì vậy mà một trong những vấn đề mà các doanh nghiệp luôn trăn trở là: Doanh nghiệp nên tạo vốn bằng cách nào? Làm thế nào doanh nghiệp có thể huy động vốn tối đa từ mọi nguồn với một chi phí thấp nhất và một cơ cấu tối ưu?. 1.2. Nguồn vốn và quản lý sử dụng vốn trong doanh nghiệp 1.2.1. Nguồn vốn của doanh nghiệp 1.2.2. Chi phí vốn và cơ cấu vốn của doanh nghiệp 1.2.2.1. Chi phí vốn. Chi phí vốn là yếu tố đầu tiên có tác động quan trọng tới việc tạo lập vốn của doanh nghiệp. Vốn là yếu tố cần thiết cho sản xuất. Cũng như bất Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 kỳ một yếu tố nào khác để sử dụng vốn, doanh nghiệp cần bỏ ra một chi phí nhất định. Để tạo vốn, doanh nghiệp có thể huy động vốn từ các nguồn khác nhau. Với mỗi một loại vốn cụ thể thì chi phí vốn chính là chi phí trả cho nguồn vốn huy động. Nó được tính bằng số lợi nhuận cần phải đạt được trên nguồn vốn huy động để giữ không làm thay đổi số lợi nhuận dành cho chủ sở hữu. Với mỗi nguồn huy động khác nhau lại có cách tính chi phí riêng. Vì vậy, trên thực tế, người ta phân loại chi phí vốn theo những nguồn cụ thể. Thông thường, khi tính toán chi phí vốn, doanh nghiệp thường phần chia vốn thành vốn chủ sở hữu và nợ vay. - Chi phí nợ vay. Chi phí nợ vay là chi phí trả cho nguồn vay nợ của doanh nghiệp. Nó được phân ra thành chi phí nợ trước thuế và chi phí nợ sau thuế. Chi phí nợ trước thuế (K d) được tính toán trên cơ sở lãi suất nợ vay. Lãi suất này được ấn định trong hợp đồng tiền vay. Trên thực tế khoản chi phí nợ vay trước thuế còn bao gồm cả các chi phí khác ngoài lãi tiền vay như chi phí làm hồ sơ xin vay, chi phí đi lại... Những khoản chi phí này đôi khi là rất lớn. Tuy nhiên về cơ bản, người ta vẫn hiểu chi phí nợ vay trước thuế là lãi tiền vay trả cho chủ nợ. Chi phí nợ sau thuế K d (1-T) được sử dụng để tính chi phí trung bình của vốn. Nó được xác định bằng chi phí nợ trước thuế K d trừ đi khoản tiết kiệm nhờ thuế bởi vì lãi tiền vay được tính vào chi phí trước thuế của doanh nghiệp. Sở dĩ, các doanh nghiệp thường tính chi phí nợ sau thuế là để có thể so sánh chi phí các loại vốn khác nhau. Hơn nữa các doanh nghiệp luôn quan tâm đến luồng tiền sau thuế vì đây mới là phần mà doanh nghiệp được hưởng. Do vậy, tất cả các chi phí vốn cần được tính quy về chi phí sau thuế. Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 - Chi phí vốn chủ sở hữu. Chi phí vốn chủ sở hữu bao gồm chi phí cổ phiếu ưu tiên,chi phí cổ phiếu thường và chi phí của lợi nhuận không chia. Chi phí của cổ phiếu ưu tiên được xác định bằng cách lấy cổ tức ưu tiên chia cho giá phát hành thuần, phần mà công ty nhận được sau khi đã trừ chi phí phát hành. Kp = Dp Pn Trong đó: KP- Chi phí của cổ phiếu ưu tiên DP- Cổ tức ưu tiên Pn- Gía phát hành thuần Chi phí của lợi nhuận không chia: Nó chính là tỷ lệ đổi tức mà người nắm giữ cổ phiếu thông thường yêu cầu đối với cổ phần mà công ty đạt được bằng lợi nhuận không chia được xác định bằng công thức K s = D1/P0 + g. Trong đó: Ks: Chi phí của lợi nhuận không chia. D1/P0: Mức sinh lời của cổ phiếu. g: Tỷ lệ tăng trưởng mong đợi. Chi phí của cổ phiếu thường mới (K e). Để các cổ đông cũ không bị giảm lợi nhuận do phát hành cổ phiếu mới vì giãn lợi nhuận các khoản đầu tư mới của doanh nghiệp phải mang lại một tỷ suất lợi nhuận sao cho cổ tức của các cổ đông cũ ít nhất không bị giảm. Với: Pn: là giá thuần của một cổ phiếu. Ke: là chi phí của cổ phiếu mới. Dt: là cổ tức trong thời gian t (t = 1, 2, 3...) Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Dt t t 1 (1  K ) e  thì Pn =  Do đó : Ke = D1 P0 (1 - F) +g Thông thường, các doanh nghiệp đặt tiêu chí chi phí vốn lên hàng đầu, tận dụng triệt để các nguồn vốn có chi phí thấp sau đó mới xét đến khả năng cung ứng các nguồn vốn, thời gian sử dụng... Vì vậy tính toán chi phí vốn sẽ giúp cho doanh nghiệp thấy được cách thức huy động nào có chi phí thấp hơn, từ đó xác định chiến lược khai thác nguồn vốn của doanh nghiệp. Ngoài ra các doanh nghiệp còn tính toán chi phí vốn trung bình dựa trên cơ cấu vốn và chi phí từng nguồn vốn. Chẳng hạn một doanh nghiệp tạo lập vốn từ ba nguồn: vay nợ, phát hành cổ phiếu thường từ lợi nhuận không chia và phát hành cổ phiếu ưu tiên với tỷ trọng từng nguồn là W d, Ws và Wp thì chi phí vốn trung bình của doanh nghiệp (WACC) được tính theo công thức: WACC = W dKd (1-T) + WpKp+ WsKs Trong đó: Wd, Wp,Ws : lần lượt là tỉ trọng của từng nguồn là vay nợ, phát hành cổ phiếu từ lợi nhuận không chia, phát hành cổ phiếu ưu tiên K d, Kp, Ks :Lần lượt là chi phí của từng nguồn Như vậy, với cơ cấu vốn khác nhau, mặc dù chi phí từng nguồn huy động là giống nhau thì chi phí vốn trung bình là khác nhau. Việc tính toán chi phí vốn trung bình rất quan trọng khi doanh nghiệp đứng trước quyết định phải chấp nhận hay từ chối một dự án đầu tư. Nếu dự án có tỷ lệ hoàn vốn nội bộ thấp hơn chi phí trung bình của vốn thì cần phải từ chối vì điều đó có nghĩa là tỷ lệ thu nhập do đầu tư mang lại sẽ thấp hơn chi phí tài trợ Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 của nó. Như thế, chi phí vốn có vai trò rất quan trọng, được sử dụng làm căn cứ khi quyết định đầu tư. Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 1.2.2.2. Cơ cấu vốn. Các doanh nghiệp không thể huy động vốn theo ý muốn chủ quan mà cần xét tới nhu cầu vốn của doanh nghiệp, khả năng trả nợ và tỷ lệ hợp lý giữa các loại vốn. Vì vậy cơ cấu vốn có một vai trò hết sức quan trọng. Thuật ngữ này được dùng để chỉ cách thức một doanh nghiệp sử dụng các nguồn vốn khác nhau với một tỷ lệ nào đó của mỗi người để tài trợ cho các tài sản. Trong quản trị tài chính, các nhà quản lý phải xây dựng được cơ cấu vốn tối ưu, đảm bảo một tỷ lệ hợp lý giữa vốn chủ sở hữu và nợ vay sao cho lợi ích thu được là cao nhất. Đó là cơ cấu hướng tới sự cân bằng giữa rủi ro và lãi suất, bằng cách đó tối đa hóa giá trị của doanh nghiệp. Trong điều kiện nền kinh tế phát triển, sử dụng một tỷ lệ vốn chủ sở hữu cao sẽ là không linh hoạt. Huy động vốn từ nợ vay sẽ giúp cho doanh nghiệp khuếch đại giá trị vốn chủ sở hữu do nợ vay không phải chịu thuế thu nhập. Ngược lại, trong trường hợp nền kinh tế đi xuống, sử dụng quá nhiều nợ với tỷ lệ nợ của cơ cấu vốn tối ưu sẽ khiến cho doanh nghiệp rơi vào tình trạng hiệu ứng đòn bẩy âm: sử dụng nợ sẽ làm giảm giá trị tài sản thuộc chủ sở hữu. Vì vậy, khi tiến hành huy động tạo lập vốn, các doanh nghiệp luôn chú ý xây dựng một cơ cấu vốn tối ưu. Tiêu chuẩn để đánh giá nên tăng hay giảm sử dụng nợ là tương quan so sánh giữa doanh lợi vốn và lãi suất nợ vay trước thuế. Doanh lợi vốn được xác định bằng công thức như sau: Lợi nhuận trước thuế và lã vay/ Tổng tài sản Doanh lợi vốn = Hay ( ebit / Tổng tài sản) ebit Nếu > Lãi suất nợ vay: Hiệu ứng đòn bẩy dương. Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Tổng tài sản Doanh nghiệp sử dụng nợ sẽ có tác dụng khuếch đại giá trị vốn chủ sở hữu. Vì vậy, doanh nghiệp nên tiếp tục sử dụng nợ vay. ebit Nếu < Lãi suất nợ vay: Hiệu ứng đòn bẩy âm. Tổng tài sản Doanh nghiệp cần có biện pháp giảm tỷ lệ nợ vay vì sử dụng nợ lúc này sẽ làm giảm giá trị vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên, quản trị tài chính là một lĩnh vực quản trị hết sức linh hoạt. Vấn đề cơ cấu vốn tối ưu cũng là một vấn đề rất linh hoạt. Với mỗi một doanh nghiệp sẽ có một cơ cấu vốn tối ưu riêng phục vụ những mục tiêu riêng của từng doanh nghiệp và mỗi doanh nghiệp tùy theo điều kiện hoàn cảnh của mình mà theo đuổi cơ cấu vốn tối ưu đó. Vì thế cơ cấu vốn đã trở thành một yếu tố quan trọng tác động tới quá trình tạo lập vốn của mỗi doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần phải quan tâm đến bốn yếu tố tác động đến những quyết định về cơ cấu vốn khi tạo lập vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Trước hết là rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp, đó là rủi ro cố hữu trong tài sản của công ty nếu công ty không sử dụng nợ. Rủi ro kinh doanh càng lớn, tỷ lệ nợ tối ưu càng thấp. - Yếu tố chính yếu thứ hai là vấn đề thuế của doanh nghiệp. Một lý do cơ bản cho việc sử dụng nợ là ở chỗ lãi vay được tính trong chi phí hợp lý hợp lệ khi tính thuế thu nhập. Trong trường hợp thuế suất thuế thu nhập cao thì công ty có lợi hơn khi sử dụng nợ. - Khả năng linh hoạt tài chính hay khả năng tăng vốn một cách hợp lý trong điều kiện có tác động xấu. Những người quản lý tài chính biết rằng một Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 sự cung cấp vốn vững chắc là cần thiết cho những hoạt động ổn định và đến lượt nó, đây là sự sống còn cho sự thành công dài hạn. Họ cũng biết rằng khi một doanh nghiệp đang trải qua những khó khăn trong hoạt động, những nhà cung cấp vốn muốn tăng cường tài trợ cho những doanh nghiệp có bảng cân đối kế toán vững chắc. Như vậy, nhu cầu vốn tương lai và những hậu quả thiếu vốn có một ảnh hưởng quan trọng đối với mục tiêu cơ cấu vốn. - Yếu tố cuối cùng là sự "bảo thủ" hay "phóng khoáng" của nhà quản lý. Có thể có một số giám đốc doanh nghiệp sẵn sàng sử dụng nợ hơn để làm tăng lợi nhuận còn một số khác lại không. Yếu tố này không tác động đến cơ cấu vốn tối ưu, nhưng nó tác động đến mục tiêu cơ cấu vốn mà doanh nghiệp thực tế thiết lập. 1.2.3. Quản lý vốn trong doanh nghiệp 1.2.3.1. Quản lý vốn cố định Quản lý việc sử dụng vốn cố định là một trong những nội dung quan trọng của công tác quản lý doanh nghiệp. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, sự vận động của vốn cố định gắn liền với hình thái vật chất của nó. Vì vậy để quản lý sử dụng có hiệu quả vốn cố định có một số hình thức quản lý sau: + Hao mòn và khấu hao tài sản cố định: Trong quá trình sử dụng, tài sản cố định có thể bị hao mòn dưới hai hình thức: Hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Hao mòn hữu hình: là sự hao mòn về mặt vật chất tức là tổn thất dần về mặt chất lượng và tính năng kỹ thuật của tài sản cố định cuối cùng tài sản cố định đó không sử dụng được nữa và phải thanh lý. Thực chất về mặt kinh tế của hao mòn hữu hình là giá trị của tài sản cố định giảm dần và giá trị của nó được Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan