Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hoàn thiện công tác quản lý sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm của công ...

Tài liệu Hoàn thiện công tác quản lý sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm của công ty dong yun

.PDF
49
89
136

Mô tả:

LUẬN VĂN: Hoàn thiện công tác quản lý sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm của công ty Dong Yun Lời mở đầu Bất kỳ doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển bền vững cũng đều phải tiến hành quản lý đối với những phân hệ và lĩnh vực hoạt động của mình. Sản xuất là một những phân hệ và lĩnh vực hoạt động cơ bản để nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm của nhà doanh nghiệp. Có vai trò trực tiếp và quyết định trong việc tạo ra và cung cấp sản phẩm. Dịch vụ cho xã hội đem lại những khoản lợi nhuận nhất định cho doanh nghiệp. Cũng như các phân hệ khác. Phân hệ sản xuất cũng cần được quản lý và như vậy công tác quản lý sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm chính là chức năng cơ bản của doanh nghiệp. Ngày nay do sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường và nhịp độ ngày càng khẩn trương của quá trình hội nhập kinh tế. Mỗi doanh nghiệp muốn khẳng định vị trí không còn cách nào khác là phải đổi mới, hoàn thiện bản thân trong đó trọng tâm là hoàn thiện các mặt hoạt động của công tác quản lý đặc biệt là công tác quản lý sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm. Qua thời gian thực tập ở công ty Dong Yun, em đã nhận thấy rằng các mặt hoạt động của công tác quản lý ở công ty có nhiều thành tích và chuyển biến đáng kể nhưng cũng còng không ít hạn chế, yếu kém cần xem xét, nhanh chóng khác phục để công ty luôn xứng đáng với vị trí là một trong những doanh nghiệp đứng đầu ngành. Chính vì vậy, sau quá trình nghiên cứu tìm hiểu tình hình hoạt động của công ty em đã mạnh dạn chọn đề tài "Hoàn thiện công tác quản lý sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm của công ty Dong Yun cho luận văn của mình. Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn tốt nghiệp của em được gồm 3 chương. Chương I: Cơ sở lý luận và quản lý sản xuất và chất lượng của sản phẩm. Chương II: Thực trạng công tác quản lý và chất lượng sản phẩm của công ty Dong Yun. Chương III: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm của công ty Dong Yun. Chương I: Cơ sở lý luận về quản lý sản xuất và chất lượng sản phẩm I. Quản lý sản xuất. 1.Các khái niệm. 1.1. Sản xuất và các yếu tố của nó. a. Khái niệm sản xuất. Mỗi một tổ chức, một doanh nghiệp đều là một hệ thống có cấu trúc bên trong gồm nhiều phân hệ, nhiều bộ phận gắn kết chặt chẽ và có mối quan hệ tương tác với nhau để thực hiện những mục tiêu chung của hệ thống. Mỗi một doanh nghiệp đều có những sản phẩm của mình, đó là các đầu ra mong muốn cung cấp cho xã hội. Quá trình hoạt động trực tiếp tạo ra các sản phẩm của doanh nghiệp chính là quá trình sản xuất. Phân hệ trực tiếp để tạo ra các sản phẩm ấy là sản phẩm sản xuất. Đây là phan hệ chính của cấu trúc doanh nghiệp có ý nghĩa quyết định đến việc tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ của doanh nghiệp để cung cấp cho xã hội. Như vậy, theo nghĩa rộng, quá trình sản xuất và phân hệ sản xuất không phải chỉ tồn tại ở doanh nghiệp, mà còn tồn tại ở nhiều loại hình tổ chức khác. Và muốn tạo ra sản phẩm, dịch vụ đầu ra phục vụ cho xã hội thì quá trình sản xuất phải sử dụng các yếu tố con người, nguyên vật liệu, tài chính… Gọi là các yếu tố đầu vào và chế biến nó theo một quy trình nhất định. Vậy, qua phân tích ở trên, có thể coi sản xuất là quá trình sử dụng, chế biến các yếu tố đầu vào (con người, vật chất, tài chính, thông tin…) để tạo thành các đầu ra mong muốn (sản phẩm dịch vụ) cung cấp cho xã hội. b. Các yếu tố của sản xuất. Cũng giống như các phân hệ khác, hệ thống sản xuất bao gồm nhiều yếu tố cấu thành có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Toàn bộ phân hệ sản xuất được thể hiện bằng sơ đồ sau: Hình + Các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất rất đa dạng, gồm có: - Con người. - Đất đai, tài nguyên thiên nhiên - Nguyên nhiên vật liệu - Máy móc thiết bị, công nghệ - Vốn - Kỹ năng quản lý - Nguồn thông tin Chúng là những điều kiện, phương tiện cần thiết cho bất ký quá trình sản xuất sản phẩm hoặc dịch vụ nào. Muốn quá trình sản xuất có hiệu quả, cần phải tổ chức khai thác, sử dụng, quản lý các yếu tố đầu vào một cách hợp lý, tiết kiệm nhất. + Các đầu ra chủ yếu của sản xuất gồm 2 loại là sản phẩm và dịch vụ. Đối với hoạt động cung cấp dịch vụ, các đầu ra được thể hiện dưới nhiều dạng khó nhận biết một cách cụ thể không như trong sản xuất sản phẩm. Ngoài ra còn có những phụ phẩm khác tạo ra sau quá trình sản xuất là phế phẩm, chất thải… có thể có lợi hoặc không có lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh, đôi khi đòi hỏi phải có chi phí rất lớn cho việc giải quyết xử lý chúng. + Thông tin phản hồi; là một bộ phận không thể thiếu trong hệ thống sản xuất, đó là những thông tin ngược cho biết tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất trong thực tế của tổ chức. + Nhiễu: là những yếu tố làm rối loạn hoạt động của toàn bộ hệ thống sản xuất dẫn đến không thực hiện được các mục tiêu dự kiến ban đầu. Chẳng hạn như: thiên tai, lũ lụt, chiến tranh, khủng hoảng, sự cố máy móc, thiết bị. 1.2. Quản lý sản xuất. Sản xuất là một trong những phân hệ và lĩnh vực hoạt động cơ bản của tổ chức, có vai trò trực tiếp và quyết định trong việc tạo ra và cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho xã hội. Cũng như các phân hệ và lĩnh vực hoạt động khác, sản xuất cũng cần được quản lý, để sản xuất đi theo đúng kế hoạch, đúng quy trình và mục tiêu của tổ chức đã đặt ra. Như vậy quản lý sản xuất là quản lý một lĩnh vực hoạt động thiết yếu trong các tổ chức, đặc biệt là trong doanh nghiệp. Quản lý hệ thống sản xuất sản phẩm dịch vụ, được coi là một chức năng cơ bản trong doanh nghiệp. Ta có thể hiểu quản lý sản xuất một cách khái quát nhất như sau: Quản lý sản xuất là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, điều hành và kiểm tra hệ thống sản xuất nhằm thực hiện tốt nhất những mục tiêu sản xuất đã đề ra. Vì sản xuất là lĩnh vực hoạt động tồn tại trong tất cả các tổ chức, ênhà nước chức năng quản lý sản xuất cũng có ở tất cả các tổ chức. Nhưng chức năng quản lý sản xuất là một chức năng chủ yếu, quan trọng nhất trong các doanh nghiệp - một loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh điển hình. Yếu tố trung tâm của quản lý sản xuất là tác động lên quá trình sử dụng, biến đổi, chuyển hóa các yếu tố đầu vào để tạo ra các sản phẩm, dịch vụ mong muốn đáp ứng nhu cầu của xã hội. Kết quả hoạt động của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào việc thiết kế, tổ chức và quản lý quá trình biến đổi này. Nhiệm vụ của quản lý sản xuất là thiết kế và tổ chức hệ thống sản xuất nhằm biến đổi các đầu vào thành các đẩua sau mỗi quá trình biến đổi, nhưng với một số lượng lớn hơn số lượng đầu tư ban đầu. Giá trị gia tăng là yếu tố quan trọng nhất, là động cơ hoạt động của các doanh nghiệp và mọi tổ chức, cá nhân có liên quan trực tiếp đến quá trình sản xuất của doanh nghiệp giá trị gia tăng là nguồn gốc tạo ra thu nhập cho các đối tượng có tham gia đóng góp vào doanh nghiệp, cũng là nguồn tái đầu tư để mở rộng sản xuất kinh doanh nhằm đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Quản lý sản xuất có hiệu quả là yêu cầu thiết yếu đối với quản lý một tổ chức. 2. Mục tiêu của quản lý sản xuất. Doanh nghiệp là một tổ chức bằng nguồn lực, các phương tiện vật chất và tài chính của mình có thể thỏa mãn những nhu cầu của khách hàng người tiêu dùng, người sử dụng) bằng cách sản xuất sản phẩm và cung cấp các dịch vụ nói đến doanh nghiệp, người ta thường nghĩ đến các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, thực tế còn có các doanh nghiệp và các tổ chức cung cấp dịch vụ khác (dịch vụ, vận tải…). Một doanh nghiệp không phải là một đơn vị độc lập màn nó sống trong mt của nó: Trong mt sống của mình các doanh nghiệp thực hiện quá trình trao đổi vật chất và thông tin. Các doanh nghiệp mua yếu tố sản xuất từ phía các nhà cung cấp và tiêu thụ (bán) sản phẩm của mình cho người tiêu dùng (khách hàng). Giữa 2 quá trình đó cần thiết phải có một quá trình chế biến các đầu vào để tạo ra các đầu ra, là quá trình sản xuất. Các doanh nghiệp khi tiền hàng hoạt động sản xuất kinh doanh đều nhằm mục đích sinh lợi. Và để đạt được mục tiêu này một yếu tố không thể thiếu và vô cùng quan trọng đối với cả hệ thống tổ chức doanh nghiệp là quản lý. Quản lý sản xuất một doanh nghiệp bắt đầu ngay từ khi doanh nghiệp đó ra đời. Và quản lý sản xuất có mục tiêu tổng quát là đảm bảo thỏa mãn tối đa nhu cầu của khách trên cơ sở sử dụng hiệu quả nhất các yếu tố sản xuất để tạo ra các đầu ra mong muốn. Nhằm thực hiện mục tiêu tổng thể này, quản lý sản xuất đặt ra các mục tiêu cụ thể sau: - Đảm bảo chất lượng, tăng cường đọ tin cậy bằng chất lượng sản phẩm. Sản phẩm chế tạo ra phải phù hợp với những tiêu chuẩn được đặt ra khi thiết kế, nghĩa là phải phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Chất lượng có thể được đánh giá với những tiêu chuẩn đặt ra từ bên ngoài doanh nghiệp (ví dụ tiêu chuẩn về vệ sinh do Nhà nước áp đặt đối với lương thực, thực phẩm hay tiêu chuẩn về an toàn trong ngành xe cộ), chất lượng cũng có thể được đánh giá với những tiêu chuẩn nội bộ mà chính doanh nghiệp đặt ra. Mức chất lượng cũng có thể đánh giá so với sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh. - Đảm bảo thời hạn, có thể rút ngắn thời gian cung cấp sản phẩm. Nhưng thời hạn được xác định bởi tính chất của sản phẩm và các thị trường, và cũng tùy thuộc vào công nghệ sản xuất. Luôn phải đảm bảo tiến độ sản xuất cũng như thời hạn cung cấp sản phẩm cho khách hàng theo nhu cầu và theo đơn đặt hàng và kế hoạch sản xuất. Có thể rút ngắn thời gian cung cấp sản phẩm nhưng vẫn phải đảm bảo về chất lượng. - Giảm chi phí sản xuất. Giảm chi phí nhằm giảm giá bán để giành được thị trường, hoặc nhằm tối đa hóa lợi nhuận của doanh nghiệp. Điều đầu tiên là doanh nghiệp phải có một hệ thống kế tóan có hiệu lực để nắm được các thông tin chính xác về các loại chi phí. Bộ phận sản xuất không làm chủ được lợi nhuận vì không có thẩm quyền để định đoạt giá bán, nhưng có trách nhiệm giảm tới mức tối thiểu chi phí đối với một mức chất lượng nhất định. - Linh hoạt trong tổ chức. Có nghĩa là hệ thống sản xuất của doanh nghiệp phải có khả năng phản ứng nhanh đối với mọi biến đổi trong hoạt động (biến đổi trong thị trường, biến đổi trong sản phẩm). Những phương pháp để đạt được mục tiêu này là đào tạo nhân sự, có dự trữ năng lực sản xuất (năng lực sản xuất lớn hơn nhu cầu). - Ngoài ra quản lý sản xuất còn có mục tiêu góp phần động viên, khuyến khích người lao động để họ quan tâm đến kết quả chung của doanh nghiệp và có 1 tinh thần làm việc say mê, sáng tạo, có hiệu quả và trách nhiệm cao. - Cũng như các mục tiêu chung của doanh nghiệp, những mục tiêu về quản lý sản xuất cũng phải được ấn định theo cấp bậc. Tùy theo thời điểm, tình hình, chiến lược của doanh nghiệp thì mức độ ưu tiên và tầm quan trọng tương đối của mỗi mục tiêu được ấn định hoặc điều chỉnh sao cho phù hợp. Giữa các mục tiêu của quản lý sản xuất có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế. II. Chất lượng sản phẩm. 1. Khái niệm và các chỉ tiêu đánh giá chất lượng sản phẩm. 1.1. Khái niệm chất lượng sản phẩm. Hiện đang tồn tại rất nhiều quan niệm khác nhau về chất lượng sản phẩm, mỗi quan điểm lại có những căn cứ khoa học và thực tiễn khác nhau. Đối với những sản phẩm thông thường các quan điểm thường gặp là: - Theo tính chất công nghệ của sản xuất: chất lượng sản phẩm là tổng hợp những đặc tính bên trong của sản phẩm có thể đo được hoặc so sánh được, phản ánh giá trị sử dụng và chức năng của sản phẩm đó. Đáp ứng cho những nhu cầu cho trước trong những điều kiện xác định về kinh tế - xã hội. - Theo hướng phục vụ khách hàng: chất lượng sản phẩm chính là mức độ thỏa mãn nhu cầu hay là sự phù hợp với những đòi hỏi của người tiêu dùng. - Theo quan niệm thị trường: chất lượng là sự kết hợp giữa các đặc tính của sản phẩm thỏa mãn được nhu cầu của khách hàng trong giới hạn chi phí nhất định. - Các nhà kinh tế triết học Mác cho rằng: Người mua và vì hàng có giá sử dụng và giá trị sử dụng ấy biểu hiện bằng thông số có thể đo đếm, đánh giá biểu thị được chất lượng của hàng hóa đó. Như vậy chất lượng là giá trị sử dụng đồng nghĩa chất lượng, là mức độ hoàn thiện mà sản phẩm đó thỏa mãn yêu cầu của người tiêu dùng. - Từ điển tiếng Việt phổ thông thì cho: Chất lượng là tổng thể những tính chất, thuộc tính của sự vật (sự việc)… lên cho sự vật việc) này phân biệt với sự vật (sự việc khác). - Còn từ điển Oxford Pocket Dictonary lại cho: chất lượng là mức hoàn thiện, là đặc trưng so sánh hay đặc trưng tuyệt đối, dấu hiệu đặc thù, các dữ kiện, các thông số cơ bản. - Theo tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa ở Pháp NFX 50 - 109: chất lượng là tiềm năng của một sản phẩm hay dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu người sử dụng. - Theo TCVN ISO 8402: Chất lượng là tập hợp các đặc tính của một thực tế (đối tượng) tạo cho thực thể (đối tượng) đó khả năng thỏa mãn những nhu cầu đã nêu ra hoặc nhu cầu tiềm ẩn. Đối với các quyết định, chất lượng được hiểu là tính hiệu quả, tính khoa học và tính hiện thực mà quyết định đem lại cho nhà quản lý và cho những ai bị nó tác động. Từ những điểm hội tụ chung của các cách hiểu không giống nhau, có thể đưa ra định nghĩa sau về chất lượng sản phẩm: chất lượng sản phẩm là các thuộc tính có giá trị của sản phẩm mà nhờ đó sản phẩm được ưa thích, đắt giá và ngược lại. Như vậy với các hiểu trên thì các thuộc tính của sản phẩm phải là các thuộc tính có giá trị theo nghĩa: + Sản phẩm có ích cho người sử dụng nó. + Sản phẩm phải là loại khan hiếm. + Sản phẩm phải là loại có nhu cầu của người tiêu dùng. + Sản phẩm có khả năng chuyển giao được. + Sản phẩm phải đắt giá. 1.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng sản phẩm. Có rất nhiều các chỉ tiêu đánh giá chất lượng sản phẩm và mỗi một tổ chức, mỗi một doanh nghiệp sản xuất những sản phẩm khác nhau thì có hệ thống các chỉ tiêu khác nhau. Theo nhà quản lý chất lượng nổi tiếng người Mỹ Joesph M. Juran: "Chất lượng là tính thích ứng". Thích ứng tức là mức độ đáp ứng nhu cầu đối với khách hàng của sản phẩm hoặc dịch vụ. Có 8 phương diện cũng là 8 chỉ tiêu chúng nhất để đánh giá chất lượng sản phẩm dưới đây: 1. Tính năng: là trình độ kỹ thuật và đẳng cấp mà chức năng chính của sản phẩm đạt được. Đó chính là tác dụng chính mà sản phẩm đem lại cho người sử dụng nó. 2. Chức năng kèm theo: là chức năng của sản phẩm khiến cho khách hàng cảm thấy thuận tiện hơn khi sử dụng. 3. Tính tin cậy: sản phẩm hoặc dịch vụ hoàn thành đảm bảo tính chuẩn xác và hiệu quả của chức năng. 4. Tính nhất quán: sản phẩm hoặc dịch vụ phải phù hợp với bản hướng dẫn hoặc tiêu chuẩn đã quy định của dịch vụ. 5. Độ bền: sản phẩm hoặc dịch vụ đạt đến xác suất độ bền sử dụng tiêu chuẩn, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. 6. Sự bảo vệ: sản phẩm có dễ bảo quản và sửa chữa hay không? 7. Tính thẩm mỹ: bề ngoài của sản phẩm có tính nghệ thuật và có hấp dẫn hay không, có đáp ứng được thị hiếu của khách hàng hay không? 8. Tính cảm quan: sản phẩm hoặc dịch vụ có khiến cho khách hàng có được những sự liên tưởng tốt đẹp hay không? Chất lượng sản phẩm quyết định bởi rất nhiều yếu tố, xét từ góc độ quản lý sản xuất, tính ổn định của chất lượng sản phẩm được quyết định chủ yếu dựa vào tính ổn định của sản xuất và quá trình tác nghiệp. Kế hoạch thực hiện luôn thay đổi, thiết bị luôn có sự cố, công nhân thao tác luôn vắng mặt, hoạt động tác nghiệp thiếu đi trình tự và tiêu chuẩn đều là những nguyên nhân quan trọng dẫn đến chất lượng sản phẩm không ổn định. Do vậy quản lý sản xuất để ổn định và nâng cao chất lượng sản phẩm là điều rất quan trọng. 2. Vai trò của chất lượng sản phẩm. Trong nền kinh tế thị trường, chất lượng sản phẩm đặt lên hàng đầu và là vấn đề sống còn của doanh nghiệp. Một sản phẩm dù đã được tung ra thị trường được thị trường chấp nhận nhưng cũng không có ai không có gì để đảm bảo chắc chắn rằng sản phẩm đó sẽ tiếp tục thành công nếu doanh nghiệp không duy trì và cải tiến nâng cao chất lượng cho sản phẩm của mình. Vì thế, giữ vững và nâng cao uy tín của sản phẩm để chiếm một vị trí đáng kể trên thị trường, để đạt được hiệu quả về sản xuất kinh doanh của loại sản phẩm nào đó trên thị trường bắt buộc các nhà kinh doanh luôn phải tìm cách nâng cao chất lượng sản phẩm của mình về mọi mặt. Vậy ta có thể khẳng định được một điều là: "Nâng cao chất lượng sản phẩm, có tầm quan trọng sống còn đối với các doanh nghiệp". Điều này thể hiện ở chỗ: - Chất lượng luôn là một trong những nhân tố quan trọng quyết định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. - Nâng cao chất lượng sẽ tạo được uy tín, danh tiếng, cơ sở cho sự tồn tại, phát triển lâu dài của doanh nghiệp. - Tăng cường sản phẩm tương đương với tăng năng suất ld xã hội tức sẽ tạo điều kiện cho việc tiêu thụ và nâng cao chất lượng chu chuyển trên thị trường. - Nâng cao chất lượng sản phẩm còn là biện pháp hữu hiệu kết hợp các loại lợi ích của doanh nghiệp, người tiêu dùng và người ld. - Nâng cao chất lượng sẽ góp phần quan trọng cho việc tiết kiệm nguyên vật liệu, vật tư, năng lượng và thời gian lao động. Bên cạnh đó nâng cao chất lượng sản phẩm còn có ý nghĩa to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế - chính trị - xã hội của đất nước: - Nâng cao chất lượng sản phẩm là nâng cao vị trí và uy tín của doanh nghiệp trên thương trường, mang lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp, do đó nâng cao thu nhập cho nhà quản lý cũng như người lao động,… Như vậy nâng cao chất lượng sản phẩm đồng nghĩa với sự phát triển kinh tế nhanh chóng và ổn định trong doanh nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. - Chất lượng sản phẩm còn có ý nghĩa chính trị tư tưởng và xã hội to lớn. Xã hội của chúng ta ngày càng phát triển, bảo đảm sản xuất được ra những sản phẩm có chất lượng cao tức là đã đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu ngày càng cao của các thành viên trong xã hội, khơi dậy niềm tin, sự nhiệt tình, sáng tạo và tâm huyết đối với công việc, đối với doanh nghiệp, đối với sự phát triển của nền kinh tế của người lao động cũng như của mọi tầng lớp thanh niên trong xã hội. Họ sẽ tin tưởng vào khả năng tăng trưởng của nền kinh tế của dân tộc mình trên toàn thế giới, sẽ tự hào khi nói về sản phẩm và hàng hóa của Việt Nam. - Bên cạnh ý nghĩa trên, nâng cao chất lượng sản phẩm còn có vai trò quan trọng với quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta. Nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ tạo cơ hội và tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh và chỗ đứng của doanh nghiệp trên trường quốc tế. Làm được điều này cũng có nghĩa là chúng ta đã tham gia sâu hơn và mở rộng hơn vào sự phân công lao động quốc tế. Như vậy nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ tăng thêm giá trị sử dụng cho sản phẩm và tiết kiệm hao phí cho xã hội. Chất lượng sản phẩm chính là yêu cầu quan trọng đối với mọi doanh nghiệp và cũng chính là vấn đề tối quan trọng cho nền kinh tế đất nước. Nâng cao chất lượng sản phẩm có vai trò to lớn trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội nói chung và sự tồn tại, phát triển của mỗi doanh nghiệp nói riêng. 3. Các nhân tố của quá trình sản xuất ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm và vai trò của quản lý sản xuất trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm. 3.1. Các nhân tố của quá trình sản xuất ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau, chỉ trên cơ sở xác định đầy đủ các yếu tố thì mới có thể đề xuất được những biện pháp để không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm và tổ chức quản lý chặt chẽ quá trình sản xuất kinh doanh. Mỗi một ngành sản xuất kinh doanh có những đặc điểm riêng tuy nhiên ta chỉ xét các yếu tố của quá trình sản xuất ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Có thể phân loại thành một số nhóm yếu tố sau: 3.1.1. Phương thức và công nghệ sản xuất. Phương thức sản xuất chính là những cách thức sử dụng nguyên vật liệu đầu vào của quá trình sản xuất cùng với những máy móc, thiết bị, công nghệ sản xuất để tạo được những đầu ra mong muốn. Dù một doanh nghiệp có máy móc, công nghệ hiện đại nhưng nếu không có phương thức sản xuất hợp lý thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình sản xuất cũng như việc hoàn thành chất lượng sản phẩm. Quá trình công nghệ cũng có ảnh hưởng lớn, quyết định đến chất lượng sản phẩm. Đây là quá trình phức tạp, có thể làm thay đổi, bổ sung hoặc cải thiện tính chất ban đầu của nguyên vật liệu theo hướng sao cho phù hợp với công dụng của sản phẩm. Công nghệ hiện đại với những yếu tố kỹ thuật hiện đại, máy móc thiết bị hiện đại sẽ tạo được sự thuận lợi cao cho sản xuất, có tính chất quyết định đến chất lượng sản phẩm. Đúng như vậy, trong sản xuất hàng hóa, người ta sử dụng phối hợp nhiều loại nguyên vật liệu khác nhau về thành phần, tính chất, công dụng. Nắm vững được đặc tính của nguyên vật liệu để thiết kế sản phẩm là điều cần thiết. Song quá trình chế tạo, việc theo dõi khảo sát chất lượng sản phẩm theo tỷ lệ phối trộn cũng là vấn đề cần được chú trọng để mở rộng mặt hàng, thay thế nguyên vật liệu, xác định đúng đắn chế độ gia công. Điều đó thuộc về yếu tố kỹ thuật trong dây chuyền sản xuất. Ngoài ra cần phải chú ý đến thiết bị, máy móc sản xuất, bởi vì nếu chỉ có kỹ thuật và công nghệ hiện đại nhưng thiết bị cũ kỹ, lạc hậu thì không thể nâng cao được chất lượng sản phẩm, do không đạt được sự phối hợp đồng bộ theo yêu cầu. 3.1.2. Kế hoạch sản xuất. Mỗi một hệ thống, mỗi một quá trình đều phải có một kế hoạch, một chiến lược phát triển cụ thể trong từng thời kỳ, từng giai đoạn. Quá trình sản xuất cũng vậy, nó cần có kế hoạch sản xuất, chiến lược sản xuất đối với từng sản phẩm, từng thị trường và từng thời kỳ để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Nếu như quá trình sản xuất có kế hoạch, có chiến lược cụ thể thì sẽ đảm bảo hơn về chất lượng sản phẩm cũng như tiến độ cung cấp sản phẩm ra thị trường. Thực tế đều có sự sai khác giữa dự báo và thị trường nơi mà một doanh nghiệp muốn thâm nhập. Vì vậy kế hoạch sản xuất phải được xây dựng trên cơ sở năng lực sản xuất có tính đến thời gian chờ đợi, thời gian máy hỏng… và phân tích, đánh giá, dự báo nhu cầu sản phẩm trên thị trường. Việc vận hành dây chuyền sản xuất, tiến độ sản xuất nếu như theo đúng kế hoạch thì chất lượng sản phẩm sẽ được đảm bảo đúng như nhu cầu của khách hàng và theo mẫu mã thiết kế. 3.1.3. Nguyên vật liệu đầu vào của quá trình sản xuất. Đây là yếu tố cơ bản của đầu vào, có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng sản phẩm. Muốn có sản phẩm đạt các chỉ tiêu chất lượng, chất lượng của nguyên vật liệu đầu vào phải được đảm bảo. Mặt khác phải đảm bảo cung cấp cho cơ sở sản xuất những nguyên vật liệu đúng số lượng, đúng kỳ hạn như vậy cơ sở sản xuất mới chủ động ổn định quá trình sản xuất và thực hiện đúng kế hoạch chất lượng. 3.1.4. Việc đảm bảo tiến độ và các công đoạn của quá trình sản xuất. Một quá trình sản xuất ra sản phẩm bao gồm nhiều công đoạn khác nhau và phải đi theo một tiến độ nhất định. Các sản phẩm khác nhau với chất lượng và mẫu mã được thiết kế trước đó, các nhà hoạch định chiến lược, kế hoạch sản xuất đã lập ra một quy trình sản xuất với các giai đoạn và tiến độ đảm bảo để có thể sản xuất ra sản phẩm theo đúng kế hoạch chất lượng. Chính vì thế việc sản xuất theo đúng tiến độ và các giai đoạn là một yêu cầu quan trọng để ổn định và nâng cao chất lượng sản phẩm. 3.1.5. Công tác kiểm tra giám sát các giai đoạn sản xuất và phương pháp tổ chức quản lý sản xuất. Để đảm bảo đúng tiến độ sản xuất cũng như đảm bảo chất lượng sản phẩm thì phải có một ban chỉ đạo kiểm tra giám sát chịu trách nhiệm quản lý toàn bộ quá trình sản xuất. Một doanh nghiệp có nguyên vật liệu tốt, kỹ thuật, công nghệ, thiết bị hiện đại nhưng không biết tổ chức lao động, tổ chức sản xuất, tổ chức thực hiện tiêu chuẩn, tổ chức kiểm tra giám sát quá trình sản xuất, kiểm tra chất lượng sản phẩm, tổ chức tiêu thụ, vận chuyển dự trữ, bảo quản sản phẩm, hàng hóa, tổ chức sửa chữa,… nói tóm lại, không biết tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh thì không thể nâng cao được chất lượng sản phẩm. 3.1.6. Yếu tố con người. Yếu tố con người ở đây bao gồm cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp, cán bộ công nhân viên trong từng đơn vị, đặc biệt là đơn vị sản xuất và người tiêu dùng. Nhân tố con người có vai trò vô cùng quan trọng trong việc quản lý các yếu tố còn lại của quá trình sản xuất và đảm bảo chất lượng sản phẩm. Các cán bộ lãnh đạo có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng sản phẩm trong môi trường cạnh tranh khắc nghiệt, thì họ sẽ có những chủ trương, chính sách đúng đắn về chất lượng sản phẩm thể hiện trong mối quan hệ sản xuất và tiêu dùng, các biện pháp khuyến khích tinh thần vật chất… cho công nhân viên và người lao động,… từ đó cán bộ, công nhân viên và người lao động sẽ hiểu rõ hơn về quyền lợi và trách nhiệm của mình trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, đây sẽ là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. 3.2. Vai trò của quản lý sản xuất trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Doanh nghiệp là một hệ thống thống nhất bao gồm 3 phân hệ cơ bản là phân hệ tài chính, phân hệ sản xuất và phân hệ marketing. Trong các hoạt động trên, sản xuất được coi là khâu quyết định tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ và giá trị gia tăng. Chỉ có hoạt động sản xuất hay dịch vụ mới là nguồn gốc của mọi sản phẩm và dịch vụ được tạo ra cho doanh nghiệp. Sự phát triển sản xuất và dịch vụ là cơ sở làm tăng giá trị gia tăng cho doanh nghiệp, tăng trưởng kinh tế cho nền kinh tế quốc dân tạo cơ sở vật chất thúc đẩy xã hội phát triển. Quá trình sản xuất được quản lý tốt góp phần tiết kiệm được các nguồn lực cho sản xuất, giảm giá thành, tăng năng suất và hiệu quả của doanh nghiệp nói chung; bảo đảm chất lượng sản phẩm hoặc dịch vụ do khâu sản xuất tạo ra nói riêng. Vì vậy hoàn thiện quản lý sản xuất chính là hoạt động tạo tiềm năng to lớn cho việc nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Nhưng quản lý sản xuất chỉ có thể thực hiện được vai trò của mình trong mối quan hệ ràng buộc hữu cơ với các chức năng quản lý khác như quản lý marketing, quản lý tài chính, quản lý nhân sự… Trong mối quan hệ đó mâu thuẫn giữa chức năng thương mại và chức năng năng sản xuất: - Mâu thuẫn về thời gian: + Thương mại: càng nhanh càng tốt. + Sản xuất: càng chậm sản xuất càng rẻ. - Mâu thuẫn về chất lượng: + Thương mại: một sản phẩm dễ bán nếu chất lượng tốt. + Sản xuất: một sản phẩm càng tốt thì càng khó sản xuất. - Mâu thuẫn về giá: + Thương mại: một sản phẩm càng dễ bán nếu giá rẻ. + Sản xuất: giới hạn về chi phí sản xuất sẽ gây ra không ít khó khăn cho bộ phận sản xuất. Đứng trước ngã ba của mâu thuẫn, quản lý sản xuất phải đảm bảo các quan hệ hài hòa với các chức năng quản lý khác nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất diễn ra đúng kế hoạch và đảm bảo chất lượng sản phẩm. Như vậy quản lý sản xuất đóng vai trò vô cùng quan trọng vừa đảm bảo tiến độ sản xuất, vừa đảm bảo giá thành và chất lượng sản phẩm. II. nội dung của quản lý sản xuất 1. Nghiên cứu và dự báo nhu cầu sản xuất sản phẩm 1.1 Vai trò của nghiên cứu dự báo Vai trò của nghiên cứu dự báo trong quản lý sản xuất : nó giúp doanh nghiệp trả lời câu hỏi : Để đáp ứng nhu cầu, doanh nghiệp cần sản xuất sản phẩm gì ? bao nhiêu ? vào thời gian nào những đặc điểm kinh té kỹ thuật cần có là gì Mục đích của nghiên cứu và dự báo là tạo ra cơ sở thông tin cho việc xây dựng các kế hoạch sản xuất sản phẩm và xác định năng lực sản xuất mà doanh nghiệp cần có Kết quả của nghiên cứu và dự báo nhu cầu sản phẩm sẽ là căn cứ để xác định có nên sản xuất nữa hay không nên sản xuất. Nếu tiến hành sản xuất thì cần thiết kế hệ thống sản xuất như thế nào để đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu đã dự báo 1.2 Phân loại các loại hình dự báo Có rất nhiều cách loại hình dự báo tuỳ theo các cách phan loại khác nhau như; Phân loại dự báo theo thời gian : cách phân loại này là rất cần thiết và thích hợp nhất trong quản lý sản xuất nó bao gồm; Dự báo ngắn hạn :Thường để sử dụng trong ké hoạch mua hàng, điều độ phân chia công việc, cân bằng nhân lực Dự báo trung hạn : loại dự báo này cần thiết cho việc lập ké hoạch sản xuất, kế hoạch bán hàng lập ngân quỹ tiền mặt , huy động các nguồn lực và tổ chức hoạt động tác nghiệp Phân loại theo phương pháp phân tích dự báo có thể chia như sau Dự báo định tính dựa vào suy đoán, cảm nhận chủ yếu bằng trực giác, kinh nghiệm và sự nhạy cảm của nhà quản lý. Các phương pháp dự báo định tính thường sử dụng là: + Lấy ý kiến của Ban quản lý điều hành + Lấy ý kiến của những người bán hàng + Lấy ý kiến của khách hàng + Lấy ý kiến của các chuyên gia ở những vùng địa lý khác nhau để xây dựng dự báo (phương pháp delphi). Dự báo định lượng: Là dự báo lượng hoá, dựa chủ yếu vào các mô hình toán học và mô hình thống kê có nhiều phưong pháp dự báo định lượng, nhưng dù là phương pháp nào thì cũng cần thực hiện các bước sau đây: + Xác định mục đích của dự báo + Lựa chon những sản phẩm cầc dự báo + Chọn mô hình dự báo + Phê chuẩn + Tiến hành dự báo + áp dụng những kết quả dự báo Trên thực tế có nhiều phương pháp dự báo khác nhau, mỗi phương pháp đều có ưu và nhược điểm của nó, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà ta chọn phương pháp thích hợp. Và trong quản lý sản xuất việc lựa chọn sử dụng loại hình dự báo nào đòi hỏi phải tính đến nhiều nhân tố ảnh hưởng như: chu kì sống cuả sản phẩm, tốc độ tăng trưởng của thị trường, đặc điểm và điều kiện cụ thể của doanh nghiệp, số lượng và chất lượng của dữ liệu v .v… Chẳng hạn nhân tố chu kỳ sống của sản phẩm trên thị trưòng từ lúc xuất hiện đến lúc bị huỷ diệt thường trải qua 4 giai đoạn. - Giai đoạn 1: Giới thiệu sản phẩm ra thị trưòng - Giai đoạn 2: Tăng trưởng phát triển - Giai đoạn 3: Chín muồi - Giai đoạn 4: Suy thoái Sản phẩm nào đang làm trong giai đoạn 1,2 của chu kỳ sống thì cần được dự báo dài hạn hơn khi chúng ta đang ở giai đoạn 3. Trong giai đoạn 1: Thường có rất ít hoặc hầu như không có sẵn số liệu, người ta sử dụng dự báo định tính nhiều hơn là định lượng. Đến giai đoạn 2: Tính ổn định và tính dự báo được của doanh nghiệp là lớn nhất, nên loại dự báo dài hạn và dự báo định lượng lại tỏ ra thích hợp. Trong giai đoạn suy thoái: Dự báo nên chuyển từ dài hạn sang ngắn hạn từ định lượng sang định tính. 2. Thiết kế sản phẩm và công nghệ. Trên cơ sở những thông tin thu được từ dự báo, doanh nghiệp sẽ lựa chọn thiết kế sản phẩm và công nghệ nhằm đảm bảo đúng những đặc tính kính tế – kỹ thuật của sản phẩm mà thị trường yêu cầu và phù hợp với khả năng sản xuất của doanh nghiệp. Thông thường có nhiều phương án thiết kế sản phẩm và công nghệ, do đó phải đưa ra những tiêu chuẩn để lựa chọn. 2.1. Thiết kế sản phẩm Công việc thiết kế sản phẩm được tiến hành theo một trình tự lô gic nhất định với sự tham gia phối hợp của nhiều cán bộ quản lý, chuyên gia và kỹ sư trong lĩnh vực khác nhau. Kết quả của thiết kế sản phẩm là những bản vẽ kỹ thuật, thuyết minh về câú trúc, thành phần và những đặc điểm kinh tế kỹ thuật của sản phẩm. Nguyên tắc cơ bản của thiết kế sản phẩm là phải thiết kế sao cho người sử dụng có thể nhận biết sử dụng sản phẩm. Quá trình xem xét, lựa chọn và phát triển một ý tưởng thiết kế sản phẩm thành một dự án thành một sản phẩm cụ thể thường dựa vào 4 tiêu thức sau: Khả năng tiềm tàng của sản phẩm: Sản phẩm mới có tạo được ưu thế cạnh tranh hoặc đáp ứng tốt hơn yêu cầu tốt hơn của khách hàng. Tốc độ phát triển của sản phẩm: Cần bao lâu kể từ lúc nghiên cứu thiết kế sản phẩm đến sản xuất thử đại trà và cho đến lúc đưa sản phẩm ra tiêu thụ trên thị trường? Điều quan trọng nhất ở đây không phải là thời gian dài hay ngắn mà là sản phẩm có thể đưa ra sớm hơn so với đối thủ cạnh tranh hay không? Chi phí cho sản phẩm: Có đảm bảo là chi phí trên một đơn vị sản phẩm là thấp nhất đến mức có thể hay không. Chi phí cho quá trình phát triển sản phẩm: về nguyên tắc, c hi phí này không được lớn hơn lợi ích mà nó tạo ra. Trên thực tế, chi phí này thường được so sánh với mức dự kiến trong ngân sách dành cho nghiên cứu. 2.2. Thiết kế công nghệ Khái niệm: Thiết kế công nghệ là lựa chọn và xác định quy trình và phương pháp công nghệ chế tạo sản phẩm. Nó giúp doanh nghiệp trả lời câu hỏi phải sản xuất với cách thức như thế nào. Mỗi loại sản phẩm đều đòi hỏi phương pháp và quy trình công nghệ sản xuất tường ứng, cho nên những đặc điểm của sản phẩm sẽ là căn cứ quan trọng cho thiết kế quy trình công nghệ. Trong giai đoạn này, bộ phận phụ trách phải xác định máy móc thiết bị nào sẽ được sử dụng, trình tự các bước công nghệ chế tạo và những yêu cầu kỹ thuật để có khả năng tạo ra những đặc điểm sản phẩm theo thiết kế. Căn cứ lựa trọn công nghệ: Doanh nghiệp thường lựa chọn công nghệ trên cơ sở cân nhắc 4 yếu tố cạnh tranh chủ yếu: - Chi phí - Tốc độ cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho thị trường - Chất lượng sản phẩm dịch vu do công nghệ tạo ra - Tính linh hoạt của công nghệ Ngoài ra, các tổ chức còn phải chú ý đến các tiêu chuẩn quản lý môi trường khi lựa chọn công nghệ. Việc thiết kế công nghệ bao gồm cả việc cải tiến các công nghệ hiện có lẫn công nghệ mới. Vì việc thiết kế công nghệ mới rất phức tạp và tốn kém do vậy nó chỉ được thực hiện ở các công ty. Tập đoàn có năng lực nghiên cứu mạnh. Một số hình thức thiết kế sản phẩm và công nghệ: Trong cơ chế thị trường, để đảm bảo tính hiệu quả, công tác thiết kế sản phẩm và công nghệ có thể được thực hiện dưới một số hình thức sau đây: Liên kết hợp tác và hợp đồng mua bán giữa một bên là doanh nghiệp có nhu cầu mua các bản thiết kế sản phẩm mới nhưng khả năng nghiên cứu bị hạn chế, với một bên là cơ sở nghiên cứu như viện nghiên cứu, trường đại học có khả năng nghiên cứu và cung cấp các thiết kế sản phẩm và công nghệ nhưng khả năng trực tiếp khai thác và sử dụng công nghệ, sản phẩm đó bị hạn chế . Thành lập dự án trong công ty để nghiên cứu thiết kế sản phẩm công nghệ mới Thành lập viện nghiên cứu, trung tâm nghiên cứu, phòng nghiên cứu trong các công ty lớn, các tập đoàn. Đây là mô hình tổ chức kết hợp nghiên cứu với sản xuất . 3. Hoạch định năng lực sản xuất và lựa chọn kế hoạch sản xuất phù hợp 3.1 Hoạch định năng lực sản xuất Năng lực sản xuất chính là công suất máu móc thiết bị và dây chuyền công nghệ của doanh nghiệp trong một đơn vị thời gian. Nó thường được đo bằng sản lượng đầu ra của một doanh nghiệp, hoặc số lượng đơn vị đầu vào được sử dụng để tiến hành sản xuất trong một khoảng thời gian nhất định Công suất thiết kế là công suất tối đa mà doanh nghiệp có thể đạt đựơc trong những điều kiện cụ thể Công suất hiệu quả : là tổng đầu ra tối đa mà doanh nghiệp mong muốn có thể đạt được trong những điều kiện cụ thể về cơ cấu sản phẩm dịch vụ tuân thủ các tiêu chuẩn các qui trình công nghệ, khả năng điều hành sản xuất, kế hoạch duy trì bảo hành sửa chữa định kỳ Công suất thực tế : là khối lượng sản phẩm doanh nghiệp đạt được trong thực tế Trình tự hoạch định năng lực sản xuất: Đánh giá công suất hiện có trên cơ sở phân tích của loại hình sản xuất, doanh nghiệp sẽ xác định nâng suất hiện có và chỉ rõ những nguyen nhan dẫn đến biến động của công suất Ước tính nhu cầu công suất, căn cứ vào nhu cầu các loại sản phẩm và dịch vụ khác nhau. Tiến hành so sánh giữa nhu cầu công suất với công suất hiện có để xác định công suất cần bổ sung . Xây dựng các kế hoạch công suất khác nhau Đánh giá các chỉ tiêu tài chính, kinh tế xã hộivà công nghệ của từng phương án đưa ra Lựa chọn kế hoạch công suất phù hợp nhất đối với tình hình thực tế của doanh nghiệp và đảm bảo thực hiện được mục tiêu chiến lược được đề ra. 3.1 Lựa chọn quá trình sản xuất Khi lựa chọn được sản phẩm và công nghệ thì cần tiến hành lựa chọn quá trình sản xuất phù hợp để có được hiệu quả cao nhất đối với doanh nghịêp Theo khả năng liên tục sản xuất của sản phẩm : - Quá trình sản xuất liên tục : tạo ra khối lượng sản phẩm lớn chủng loại ít mang tính chuyên môn hoá cao Máy móc thiết bị được bố trí theo dây chuyền Sản phẩm di chuyển trong doanh nghiệp thành các dòng liên tục Sử dụng máy móc thiết bị chuyên dùng Lao động chuyên môn hoá cao ưu điểm : Tạo ra năng suất lao động cao Chi phí trên đơn vị sản phẩm thấp nên giá thành của snr phẩm hạ Khả năng tự động hoá sản xuất cao Quá trình điều hành sản xuất liên tục đơn giản Dễ kiểm tra kiểm soát được chất lượng sản phẩm và hàng dự trữ Nhược điểm: Tính linh hoạt kém Khó thích ứng với thay đổi của môi trường - Quá trình sản xuất gián đoạn : Khối lượng snả phẩm sản xuất ra là nhỏ, thậm chí là đơn chiếc Chủng loại sản phẩm nhiều đa dạng và hay thay đổi Nơi làm việc thực hiện nhiều bước công việc khác nhau Máy móc thiết bị đa năng Ưu điểm : hệ thống sản xuất dựa vào quá trình này thì khá linh hoạt, có khả năng thích ứng cao hoà nhập với thay đổi của công nghệ, đáp ứng kịp thời những đơn hàng thường xuyên thay đổi và rất đa dạng của khách hàng Nhược điểm: Việc điều hành qua trình này khá phức tạp bởi nhiều công đoạn khác nhau nhiều sản phẩm cần nhiều nguêoì mới có thể kiểm soát đựoc chất lượng sản phẩm dẫn đến khó cân bằng nhiệm vụ của mỗi nhân công Chi phí sản xuất trên đơn vị sản phẩm cao nên giá thành sản phẩm cao khó cạnh tranh trên thị trường
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan