tailieuonthi
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhân tố con người luôn giữ vai trò quyết định trong mọi công việc.
Nhận thức rõ điều đó, Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước
giai đoạn 2001 - 2010, bên cạnh các nội dung cải cách về thể chế, tổ chức bộ
máy, tài chính công, đã đề ra những mục tiêu thúc đẩy, phát huy vai trò nhân
tố con người trong quá trình thực hiện các nội dung cải cách hành chính, tạo
động lực để thực hiện thắng lợi chương trình cải cách hành chính nhà nước.
Tiền lương là một chính sách lớn, tác động trực tiếp đến đời sống của
người hưởng lương và có tầm quan trọng đặc biệt trong việc tạo động lực phát
triển kinh tế - xã hội, góp phần làm trong sạch và nâng cao hiệu lực, hiệu quả
hoạt động của bộ máy nhà nước. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI của Đảng đã xác định: “Đổi mới quan hệ phân phối, chính sách tiền
lương, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động; khắc phục
tình trạng bất hợp lý và tác động tiêu cực của quan hệ phân phối, chính sách
tiền lương, thu nhập hiện nay” [9].
Cải cách chính sách tiền lương luôn là vấn đề phức tạp, nhạy cảm, ảnh
hưởng sâu rộng đến kinh tế - xã hội của đất nước, đòi hỏi phải được cân nhắc
kỹ nhiều mặt, cả về nội dung cải cách và lộ trình triển khai với những bước đi
phù hợp, ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển đất
nước, bảo đảm an sinh xã hội.
Trả lương đúng cho công chức tức là bảo đảm cho họ đủ sống bằng
lương, toàn tâm toàn ý nâng cao trách nhiệm, hoàn thành nhiệm vụ được giao
với chất lượng cao, để họ yên tâm làm việc và thăng tiến bằng năng lực thực
sự của họ, không phải lo về đời sống gia đình, không phải tìm kiếm thêm các
khoản thu nhập không chính đáng ngoài lương, nảy sinh tệ nạn tham nhũng.
Đồng thời, chính sách tiền lương đối với công chức hợp lý còn góp phần thu
1
tailieuonthi
hút được người tài vào bộ máy nhà nước, xây dựng đội ngũ công chức liêm
khiết, tận tuỵ xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân.
Việc trả lương cho công chức hành chính phải tính đến giá trị hàng hoá
- sức lao động của người công chức hành chính và mối tương quan với tiền
lương, tiền công lao động của khu vực ngoài nhà nước (khu vực kinh tế tư
nhân và khu vực có vốn đầu tư ngước ngoài) và ở các nước trên thế giới khi
thị trường lao động quốc tế đã bắt đầu hình thành. Lương của công chức phải
được trả tương xứng với vị trí công việc được giao, để họ tập trung vào hoạt
động công vụ, không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác. Như
vậy, vấn đề tiền lương của công chức không chỉ là việc thu nhập của riêng
công chức mà chính là vấn đề uy tín của bộ máy nhà nước, là phục vụ yêu cầu
xây dựng nền công vụ chuyên nghiệp, hiện đại, tương thích với công vụ các
nước trong khu vực và trên thế giới.
Tiền lương công chức hiện nay ở nước ta chưa phản ánh đúng giá trị
sức lao động của họ - một loại lao động đặc biệt - lao động quyền lực. Điều
đó góp phần làm cho các giá trị xã hội của người công chức bị giảm sút, dễ bị
tổn thương và là mảnh đất nảy sinh tình trạng quan liêu, tham nhũng ảnh
hưởng đến hiệu lực, hiệu quả thực thi công vụ. Từ năm 1985 đến nay, Việt
Nam đã thực hiện 2 lần cải cách tiền lương và hệ thống chính sách tiền lương
đã từng bước chuyển biến theo hướng tích cực. Từ tháng 01 năm 2003 đến
tháng 5 năm 2012, Chính phủ đã 8 lần điều chỉnh tăng lương tối thiểu chung
áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức từ mức 210.000 đồng/tháng lên
1.050.000 đồng/tháng, bình quân tăng 20% năm. Tuy nhiên, đây chỉ là giải
pháp tạm thời, đội ngũ cán bộ, công chức vẫn chưa thể sống được bằng lương
do Nhà nước chi trả do tiền lương thực tế mới chỉ bảo đảm khoảng 40% nhu
cầu của cán bộ, công chức. Rõ ràng, mục tiêu đưa tiền lương trở thành nguồn
thu nhập chính đảm bảo cho cán bộ, công chức nuôi được gia đình và có tích
luỹ đã không đạt được.
2
tailieuonthi
Vì vậy, Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 8 tháng 11 năm 2011 của
Chính phủ, ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai
đoạn 2011 - 2020 đã xác định: “Trọng tâm cải cách hành chính trong giai
đoạn 10 năm tới là: cải cách thể chế; xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức, viên chức, chú trọng cải cách chính sách tiền lương nhằm
tạo động lực thực sự để cán bộ, công chức, viên chức thực thi công vụ có chất
lượng và hiệu quả cao; nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính và chất lượng
dịch vụ công” [3]. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu xác định rõ các yếu tố
ảnh hưởng đến chính sách tiền lương công chức và đánh giá đúng thực trạng
chính sách tiền lương hiện hành để từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện
chính sách tiền lương đối với công chức hành chính ở nước ta hiện nay là rất
cần thiết và có ý nghĩa lý luận, thực tiễn sâu sắc
Do đó, tôi chọn vấn đề “Hoàn thiện chính sách tiền lương đối với
công chức hành chính nhà nước” làm đề tài luận văn thạc sĩ hành chính với
mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào công cuộc cải cách nền hành
chính nhà nước.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Các công trình về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức; cải cách hành
chính nhà nước; về đấu tranh phòng, chống tham nhũng đã đề cập đến vấn đề
cải cách chính sách tiền lương.
Sách “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” do PGS,TS.
Nguyễn Phú Trọng, PGS.TS. Trần Xuân Sầm đồng chủ biên (2001); “Cơ sở
lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức” do TS. Thang Văn
Phúc, TS. Nguyễn Minh Phương đồng chủ biên (2005); “Về chế độ công vụ
Việt Nam” của PGS.TS. Nguyễn Trọng Điều chủ biên (2007); “Hệ thống
công vụ và xu hướng cải cách của một số nước trên thế giới” của TS. Thang
Văn Phúc, TS. Nguyễn Minh Phương, Nguyễn Thu Huyền (2004); “Kinh
nghiệm công tác nhân sự của một số nước” của PGS.TS. Lê Minh Thông ,
3
tailieuonthi
TS. Nguyễn Danh Châu (2009) đã khái quát kinh nghiệm trả lương công
chức của một số nước trên thế giới; “Nhận diện tham nhũng và các giải pháp
phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay” do PGS.TSKH. Phan Xuân
Sơn, ThS. Phạm Thế Lực đồng chủ biên (2008)….
2.2. Các công trình, đề tài trực tiếp nghiên cứu về tiền lương và cải cách
chính sách tiền lương
- Đề tài cấp nhà nước “Những vấn đề cơ bản đổi mới chính sách tiền
lương ở Việt Nam” do PGS.TS. Trần Đình Hoan chủ nhiệm (1993) đã tổng
kết tương đối toàn diện những vấn đề lý luận cơ bản về tiền lương trong thời
kỳ xây dựng nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và bước đầu tiếp cận các khái
niệm, đặc trưng, bản chất, vai trò... của tiền lương trong nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, trong đó đặc biệt chú trọng đến vấn đề lương tối thiểu. Trên
cơ sở đó, đề tài đã xây dựng hệ thống thang, bảng lương cho khu vực hành
chính sự nghiệp, thang, bảng lương cho doanh nghiệp nhà nước [19].
- Đề tài cấp nhà nước KX.03.11“Luận cứ khoa học của việc đổi mới
chính sách và cơ chế quản lý lao động, tiền công, thu nhập trong nền kinh tế
hàng hoá ở nước ta’’ do GS.TS. Tống Văn Đường chủ nhiệm (1994) đã
nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về tiền lương, về phân phối thu nhập,
cơ chế quản lý lao động tiền lương và thu nhập trong nền kinh tế hàng hoá ở
nước ta [17].
- Đề tài cấp Nhà nước “Luận cứ khoa học cho việc xây dựng đề án tiền
lương mới” do TS. Lê Duy Đồng (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội) chủ
nhiệm (2001) đã phân tích, đánh giá khá toàn diện các khía cạnh của chính
sách, chế độ tiền lương trước thời điểm năm 2000; trên cơ sở đó hình thành
cơ sở lý luận, phương pháp luận khoa học về tiền lương ở Việt Nam, từ đó
đưa ra các khuyến nghị về quan điểm, nguyên tắc, phương hướng và giải pháp
cải cách chính sách tiền lương [15].
- Đề tài cấp Nhà nước “Xác định tiền lương tối thiểu trên cơ sở điều tra
nhu cầu mức sống dân cư làm căn cứ cải cách tiền lương ở Việt Nam trong
4
tailieuonthi
giai đoạn 2001 - 2010” do GS.TS. Nguyễn Văn Thường - Đại học Kinh tế
quốc dân chủ nhiệm (2001) đã khái quát một số vấn đề lý luận cơ bản và thực
tiễn về cải cách tiền lương và tiền lương tối thiểu; phân tích thực trạng tiền
lương tối thiểu hiện nay trên cơ sở điều tra thu nhập và nhu cầu mức sống dân
cư ở các vùng và địa phương trong nước. Trên cơ sở đó, đề tài đề xuất quan
điểm cải cách tiền lương tối thiểu và phương án xác định tiền lương tối thiểu
của cán bộ, công chức giai đoạn 2001- 2010 [31].
- Đề tài độc lập cấp nhà nước “Cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây
dựng hệ thống, thang, bảng lương và phụ cấp mới” do PGS. TS. Nguyễn
Trọng Điều - Bộ Nội vụ chủ nhiệm (2005) đã bước đầu làm rõ những vấn đề
liên quan đến cơ sở lý luận cũng như thực tiễn hệ thống thang lương, bảng
lương, phụ cấp ở Việt Nam và đề xuất một số khuyến nghị về việc xây dựng
hệ thống thang lương, bảng lương mới [10].
- Bên cạnh các đề tài lớn nói trên, thời gian qua còn có một số đề tài cấp
Bộ, các đề án nghiên cứu về những vấn đề cụ thể của chính sách tiền lương
như: tiền lương tối thiểu; thang lương, bảng lương, cơ chế tạo nguồn cải cách
chính sách tiền lương. Trong đó, đáng chú ý là Đề tài nghiên cứu cấp Bộ của
Bộ Nội vụ “Cơ sở khoa học cho cải cách chính sách tiền lương nhà nước giai
đoạn 2001 - 2010” PGS.TS Nguyễn Trọng Điều chủ nhiệm (2005); Đề tài
“Cơ sở khoa học cho cải cách chính sách tiền lương Nhà nước giai đoạn
2001-2010” và Đề tài “Hoàn thiện cơ chế hình thành tiền lương tối thiểu và
đảm bảo nguồn thực hiện cải cách tiền lương trong khu vực hành chính sự
nghiệp giai đoạn 2008-2010” do ông Nguyễn Trọng Nghĩa chủ nhiệm năm
2007. Những nghiên cứu này đã khái quát, phân tích được khá nhiều thành tố
trong hệ thống chính sách tiền lương cũng như thực trạng quản lý và sử dụng
nguồn lực tài chính cho việc trả lương trong khu vực hành chính và sự nghiệp
và qua đó đã đưa ra một số giải pháp liên quan.
Thời gian gần đây, để phục vụ cho việc xây dựng các chính sách phát
triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn 10 năm tới (2011 - 2020), Diễn đàn khoa
5
tailieuonthi
học “Cải cách tiền lương công chức giai đoạn 2011-2020” do Viện Những
vấn đề phát triển và Tổ chức Phát triển Liên Hiệp quốc phối hợp tổ chức năm
2010 với sự tham gia của nhiều nhà khoa học, chuyên gia cải cách hành chính
và tiền lương trong cũng như ngoài nước. Các nghiên cứu này bước đầu đã
đánh giá tiến trình cải cách tiền lương giai đoạn 2001 - 2010, đề xuất, khuyến
nghị cách tiếp cận mới và một số phương pháp, bước đi về cải cách tiền lương
công chức trong 10 năm tới.
Hội thảo khoa học “Đa dạng hóa nguồn lực cải cách tiền lương cán bộ,
công chức, viên chức giai đoạn 2011-2020” do Viện Chiến lược và Chính
sách tài chính tổ chức tháng 2/2012 với sự tham gia của đông đảo các nhà
khoa học, các nhà quản lý về lĩnh vực tiền lương. Trong đó có những tham
luận đáng chú ý như: “Một số giải pháp tạo nguồn kinh phí cải cách tiền
lương khu vực hành chính và sự nghiệp giai đoạn 2011-2020” của TS. Trần
Thị Thu Hà, đã có những kiến nghị, đề xuất tạo nguồn kinh phí để cải cách
tiền lương đối với khu vực hành chính và sự nghiệp, trong đó để tạo nguồn
kinh phí cải cách tiền lương trong khu vực hành chính cần thực hiện các giải
pháp: giảm biên chế quản lý nhà nước, tiền tệ hóa lương cán bộ, công chức
[18]. “Cải cách căn bản tiền lương và cơ chế tạo nguồn cải cách tiền lương
cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2011-2020” của TS. Nguyễn Hữu
Dũng đã có cái nhìn tổng quát về quá trình cải cách tiền lương ở nước ta bắt
đầu từ việc nhận diện vấn đề tiền lương trong khu vực hành chính sự nghiệp
với những mặt được và những mâu thuẫn, tồn tại và bất cập tiến đến đề xuất
những mục tiêu và định hướng cải cách tiền lương cán bộ, công chức, viên
chức và đặt trọng tâm ở những kiến nghị đổi mới cơ bản cơ chế tạo nguồn cải
cách tiền lương cán bộ, công chức, viên chức: quản lý chặt và giảm đến mức
tối đa đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước; thực hiện nghiêm chủ
trương đầu tư vào tiền lương là đầu tư cho phát triển; tách dần tổng quỹ lương
từ ngân sách nhà nước và Quỹ Bảo hiểm xã hội; thiết kế lộ trình hợp lý cải
cách tiền lương cán bộ, công chức, viên chức phù hợp với khả năng tạo
6
tailieuonthi
nguồn, theo hướng tăng dần, tránh những đột biến gây sốc về nguồn và tác
động tiêu cực mạnh đến các quan hệ kinh tế - xã hội vĩ mô [5]…
Những công trình nghiên cứu này, trực tiếp hay gián tiếp, đã đề cập đến
những khía cạnh nhất định của đề tài “Hoàn thiện chính sách tiền lương đối
với công chức hành chính nhà nước”. Vì vậy những kết quả nghiên cứu rất có
giá trị đó cần được tiếp thu, kế thừa trong quá trình triển khai nghiên cứu đề tài
này. Tuy nhiên cũng còn rất nhiều những nội dung liên quan đến cải cách chính
sách tiền lương đối với công chức hành chính nhà nước cần được nghiên cứu
sâu thêm, từ đó kiến nghị, đề xuất nhằm tiếp tục hoàn thiện cải cách chính sách
tiền lương đối với công chức hành chính nhà nước với các nội dung và bước đi
cụ thể trong điều kiện Việt Nam hiện nay là hết sức cần thiết.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ của đê tài
3.1. Mục tiêu
Làm rõ các luận cứ khoa học và đề xuất quan điểm, giải pháp hoàn thiện
chính sách tiền lương công chức hành chính Việt Nam trong giai đoạn mới.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích cơ sở khoa học cải cách chính sách tiền lương đối với công
chức hành chính.
- Khái quát kinh nghiệm cải cách chính sách tiền lương đối với công
chức của một số nước trên thế giới.
- Đánh giá thực trạng tiến hành cải cách tiền lương công chức hành chính
giai đoạn 2001-2010.
- Đề xuất quan điểm, giải pháp hoàn thiện chính sách tiền lương đối với
công chức hành chính.
4. Đối tượng, phạm vi
4.1. Đối tượng: Nghiên cứu các quy định và việc tổ chức thực hiện chính
sách tiền lương đối với công chức làm việc trong các cơ quan hành chính nhà
nước từ trung ương đến cấp huyện.
4.2. Phạm vi: Khảo sát, đánh giá thực trạng chính sách tiền lương đối với
7
tailieuonthi
công chức trong các cơ quan hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010; đề
xuất quan điểm, giải pháp hoàn thiện chính sách tiền lương công chức hành
chính giai đoạn 2012-2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được tiến hành nghiên cứu trên cơ sở nền tảng nhận thức của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh
và các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta
về chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức nói chung và
đối với công chức hành chính nói riêng. Đồng thời trong quá trình nghiên
cứu, chúng tôi còn sử dụng những phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
- Phương pháp lô gích, lịch sử.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hóa.
- Phương pháp khảo sát, thống kê.
- Phương pháp so sánh.
6. Những điểm mới của luận văn
- Khái quát một số lý thuyết về tiền công, tiền lương làm cơ sở lý luận
hoàn thiện chính sách tiền lương đối với công chức hành chính ở nước ta.
- Nghiên cứu kinh nghiệm cải cách tiền lương của một số nước trên thế
giới, rút ra một số bài học kinh nghiệm có thể áp dụng vào điều kiện cụ thể
của Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng tiền lương và cải cách chính sách tiền lương công
chức hành chính ở nước ta trên các mặt: mức lương tối thiểu, quan hệ mức
lương tối thiểu - trung bình - tối đa, hệ thống thang, bảng lương, hệ thống phụ
cấp lương...
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp tổng thể để tiếp tục hoàn thiện chính
sách tiền lương đối với công chức hành chính ở nước ta.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đề tài góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cải cách chính sách
tiền lương đối với đội ngũ công chức hành chính ở nước ta, đồng thời đề xuất
8
tailieuonthi
các quan điểm, giải pháp tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền lương đối với
công chức hành chính ở nước ta.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học hoàn thiện chính sách tiền lương đối với
công chức hành chính nhà nước.
Chương 2: Thực trạng tiền lương và cải cách chính sách tiền lương
công chức hành chính ở nước ta.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp hoàn thiện chính sách tiền lương đối
với công chức hành chính ở nước ta.
9
tailieuonthi
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ KHOA HỌC HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG
CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH
1.1. Một số vấn đề lý luận về chính sách tiền lương công chức hành chính
1.1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Khái niệm tiền công, tiền lương
a. Tiền công
Theo nghĩa chung nhất, tiền công là tiền thù lao trả cho người lao động
do thực hiện một công việc nhất định. Tiền công là biểu hiện bằng tiền của
giá trị hàng hóa sức lao động, là giá cả của hàng hóa sức lao động. Có hai
hình thức tiền công chủ yếu: Tiền công tính theo thời gian là hình thức tiền
công tính theo thời gian lao động của người làm việc dài hay ngắn. Tiền công
tính theo sản phẩm là hình thức tiền công tính theo số lượng sản phẩm đã làm
ra hoặc số lượng công việc đã hoàn thành trong một thời gian nhất định.
b. Tiền lương
Có nhiều định nghĩa khác nhau về tiền lương. Tiền lương là tiền công
trả định kỳ, thường là hằng tháng cho công nhân, viên chức. Theo Tổ chức
Lao động quốc tế (ILO), tiền lương là số tiền mà người chủ sử dụng lao động
trả cho người lao động theo một số lượng nhất định không căn cứ vào số giờ
làm việc thực tế, thường được trả theo tháng hoặc nửa tháng.
Nhưng tiền lương không chỉ phản ánh quan hệ kinh tế giữa người sử
dụng lao động và người lao động, mà do tính chất đặc biệt của loại hàng hoá
sức lao động nên tiền lương còn là một vấn đề xã hội rất quan trọng liên quan
đến đời sống và trật tự xã hội.
Tiền lương là một bộ phận quan trọng trong chính sách kinh tế - xã hội,
tạo động lực tăng trưởng kinh tế và giải quyết công bằng, tiến bộ xã hội, nâng
cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước, khai thác tiềm năng sáng tạo của
người lao động.
10
tailieuonthi
Trong khu vực tư nhân, mặc dù nằm trong khuôn khổ pháp luật và theo
những chính sách của Chính phủ nhưng tiền lương chịu sự tác động và chi
phối rất lớn của thị trường và thị trường lao động.
Trong khu vực công, tiền lương là số tiền mà các cơ quan, tổ chức của
Nhà nước trả cho người lao động theo cơ chế, chính sách của Nhà nước và
được thể hiện trong hệ thống thang, bảng lương do Nhà nước quy định. Trong
hoạt động công vụ, tiền lương đóng giữ vai trò đặc biệt quan trọng, là một
trong những yếu tố tiên quyết thu hút và giữ được những người có tài năng
tham gia hoạt động trong khu vực công, tránh hiện tượng chảy máu chất xám
từ khu vực công sang khu vực tư.
Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, tiền lương phải tiếp cận
với giá trị sức lao động, phản ánh giá cả hàng hoá trên thị trường sức lao
động, ghi rõ trong những hợp đồng lao động (cá nhân và tập thể) dựa trên cơ
chế thị trường.
Các Mác cho rằng, giá trị của hàng hoá sức lao động do số lượng lao
động cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra nó quyết định. Nó được tính gián
tiếp thông qua lương lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra toàn bộ các tư
liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất và tái sản xuất lao động còn bao hàm cả
yếu tố tinh thần và yếu tố lịch sử. Nhu cầu của người lao động không chỉ có
những nhu cầu vật chất mà còn gồm cả những nhu cầu về tinh thần (giải trí,
sách, báo, đào tạo ...). Nhu cầu về tinh thần còn phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch
sử của từng nước, từng thời kỳ, phụ thuộc vào trình độ văn minh đạt được,
vào điều kiện lịch sử hình thành giai cấp công nhân và cả điều kiện địa lý, khí
hậu. Theo Các Mác: "Tiền lương công chức là biểu hiện bằng tiền của giá trị
hàng hoá sức lao động, là giá cả của hàng hoá sức lao động" và đưa ra công
thức tính giá trị hàng hoá sức lao động như sau:
11
tailieuonthi
Giá
trị
Giá trị các tư liệu
Chi phí đào
Giá
trị
sinh hoạt cần thiết đủ
tạo tùy theo
những
tư
hàng
hóa =
để duy trì sức lao +
tính chất phức +
liệu
sức
lao
động của công nhân
tạp của sức
hoạt để nuôi
ở trạng thái sinh hoạt
lao động
sống
động
bình thường
sinh
gia
đình họ
1.1.1.2. Khái niệm chính sách, chính sách tiền lương
a. Chính sách
Chính sách là hệ thống các thể chế, các định hướng, các quy định tạo
nên những thực hành của nhà nước vào một đối tượng quản lý nào đó. Công
cụ thực hành chính của các chính sách là luật pháp và các phương pháp hành
chính; ngân sách và hệ thống thuế. Các dạng tồn tại của chính sách gồm các
định hướng mang tính nguyên tắc, các văn bản thể chế, các chính sách đầu tư
và thuế, các phương pháp hành chính khác.
Như vậy trong chính sách, chúng ta sẽ thấy những điểm quan trọng sau:
Đó là hành động thực hành của nhà nước nhằm các mục tiêu phát triển
và quản lý;
Các chính sách được vận hành bởi các cơ quan chính phủ, được xây
dựng bởi các cơ quan luật pháp. Quá trình xây dựng chính sách được đặt trên
hướng tăng cường sự tham gia của các bên có liên quan vào quá trình xây
dựng chính sách;
Chính sách có những công cụ khác nhau, gồm: luật pháp và các phương
pháp hành chính; ngân sách và hệ thống thuế trong đó các bộ luật, luật, văn
bản pháp quy; cách thức đầu tư từ ngân sách.
b. Chính sách tiền lương
Chính sách tiền lương là một hệ thống các nguyên tắc, các thực hành
của nhà nước trong lĩnh vực tiền lương nhằm phát triển chính sách do Nhà
nước ban hành giải quyết các vấn đề tiền lương nhằm điều tiết những quan hệ
12
tailieuonthi
tiền lương, tiền thưởng và thu nhập, bảo đảm lợi ích của người lao động,
thường xuyên cải thiện mức sống cho người lao động và phát huy vai trò kích
thích của tiền lương đối với việc thúc đẩy các động lực phát triển.
Chính sách tiền lương dựa trên các nguyên tắc sau:
- Trả lương ngang bằng cho lao động như nhau nhằm đảm bảo được sự
công bằng, bình đẳng trong trả lương.
- Đảm bảo năng suất lao động tăng nhanh hơn tiền lương bình quân, tạo
khả năng nâng cao đời sống của người lao động và phát triển nền kinh tế.
- Đảm bảo mối quan hệ hợp lý về tiền lương giữa những người lao
động làm nghề khác nhau trong nền kinh tế quốc dân.
Trong xu thế phát triển chung của đất nước, quan hệ tiền lương ngày
càng trở nên phức tạp bởi nó chứa đựng nhiều nghịch lý không chỉ ở khu vực
sản xuất mà cả ở khu vực hành chính sự nghiệp, không chỉ ở tầm vi mô mà cả
ở tầm vĩ mô, không chỉ ở khu vực nhà nước mà cả ở khu vực ngoài quốc
doanh.
Hiện nay ở các nước, nguyên tắc để xây dựng lương cơ bản của công
chức là:
- Nguyên tắc cân bằng và ổn định xã hội. Khi xác định mức lương của
công chức không nên tạo ra sự chệnh lệch quá mức trong xã hội.
- Nguyên tắc làm việc ở ngạch nào, bậc nào thì hưởng lương ở ngạch
đó, bậc đó. Công chức có công việc giống nhau phải hưởng lương như nhau
không phân biệt giới tính, chủng tộc, chính trị, tôn giáo.
- Nguyên tắc lên lương theo định kỳ để thích ứng với giá cả. Nhà nước
phải căn cứ vào sự biến động của giá cả, định kỳ điều chỉnh tiền lương của
công chức sao cho tỷ lệ tiền lương cao hơn hoặc ngang bằng với tỉ lệ tăng của
giá cả.
13
tailieuonthi
1.1.1.3. Công chức và công chức hành chính nhà nước
a. Công chức
Theo khoản 2 Điều 4 của Luật Cán bộ, công chức, công chức là công
dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh
trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã
hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội
nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc
phòng; trong cơ quan đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan,
hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự
nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã
hội (gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn
vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự
nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
Nghị định số 06/2010/NĐ-CP ngày 25 -01-2010 của Chính phủ quy định
những người là công chức và Thông tư số 08/2011/TT-BNV ngày 02-6-2011
của Bội vụ đã hướng dẫn một số điều của Nghị định này.
b. Công chức hành chính nhà nước
Cho đến nay ở nước ta, khái niệm “công chức hành chính“ chưa được
quy định rõ trong các văn bản quy phạm pháp luật, tuy nhiên khái niệm này
thường được hiểu là chỉ những công chức làm việc trong các cơ quan hành
chính nhà nước từ Trung ương đến cấp huyện, tức là không bao gồm công
chức làm việc trong các cơ quan của Đảng, tổ chức, chính trị - xã hội, cơ quan
của Quốc hội, Tòa án, Viện Kiểm sát, Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị sự
nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước và các khu vực khác.
Nói chính xác hơn, công chức hành chính là những đối tượng được quy
định tại Điều 5. Công chức trong Bộ, cơ quan ngang Bộ và các tổ chức khác
do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thành lập và Điều 6. Công chức trong cơ
14
tailieuonthi
quan hành chính ở cấp tỉnh, cấp huyện của Nghị định số 06/2010/NĐ-CP của
Chính phủ.
Công chức hành chính, về nguyên tắc mang những nét đặc trưng, đặc
điểm chung của công chức. Tuy nhiên do tổ chức hành chính nhà nước là một
loại tổ chức sử dụng quyền lực của nhà nước để tiến hành các hoạt động quản
lý nhà nước đối với đời sống kinh tế - xã hội. Do đó, công chức hành chính
nhà nước ngoài những đặc điểm của công chức nói chung còn có những nét
riêng biệt, đó là:
- Có số lượng đông đảo, hoạt động trên phạm vi toàn quốc, trong các cơ
quan hành chính nhà nước từ trung ương đến cấp huyện do bộ máy hành
chính nhà nước có quy mô hoạt động rộng lớn, bao trùm cả lãnh thổ quốc gia
và đối ngoại, không tổ chức nào có quy mô hoạt động rộng lớn bằng.
- Công chức hành chính nhà nước thực thi công vụ để nhằm thực hiện
các mục tiêu chính trị của Đảng cầm quyền và của Nhà nước, vì vậy khi thực
thi công vụ, công chức hành chính nhà nước được sử dụng quyền lực nhà
nước, được trả lương và đảm bảo các điều kiện làm việc khác.
- Công chức hành chính nhà nước được đào tạo và hoạt động trên nhiều
ngành nghề, lĩnh vực khác nhau do quản lý hành chính nhà nước mang tính
toàn diện tức là quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Bộ máy hành chính nhà nước được thiết kế thành một hệ thống thứ
bậc chặt chẽ, cấp trên ra mệnh lệnh, cấp dưới tuân thủ mệnh lệnh và chịu sự
kiểm soát của cấp trên. Do đó, công chức hành chính làm việc trong hệ thống
này cũng chịu sự lãnh đạo, kiểm soát của các cơ quan quản lý chặt chẽ hơn so
với các hệ thống khác.
1.1.2. Nội dung của chính sách tiền lương công chức hành chính nhà nước
1.1.2.1. Đặc thù của tiền lương công chức hành chính nhà nước
Những đặc điểm riêng của công chức hành chính nhà nước làm cho tiền
lương của công chức hành chính nhà nước, ngoài những cách thức chung còn
có những cách thức riêng, phù hợp với đặc điểm riêng đó.
15
tailieuonthi
- Tiền lương công chức hành chính không chỉ có ý nghĩa kinh tế mà
còn có ý nghĩa chính trị và xã hội. Nó phản ánh sự ưu việt của bản chất chế
độ, sự quan tâm của nhà nước đối với người lao động, sự phát triển của xã hội
và mối tương quan giữa các tầng lớp xã hội.
- Công chức hành chính là một bộ phận của lực lượng lao động Việt
Nam nên tiền lương công chức hành chính cũng chịu sự chi phối của quy luật
tương đương giá trị hàng hoá sức lao động của những công chức này trong
bối cảnh thị trường lao động Việt Nam đang phát triển nhưng chưa đồng bộ
với các loại thị trường khác, theo đó, sức lao động nói chung, sức lao động
của công chức hành chính nói riêng chưa thật sự là hàng hoá và còn thiếu các
yếu tố cần thiết để tham gia vào thị trường lao động thật sự. Hơn nữa, hàng
hoá sức lao động của công chức hành chính cũng có những đặc điểm riêng,
vừa theo thông lệ quốc tế, vừa có đặc thù Việt Nam:
+ Người sử dụng lao động công chức hành chính là Nhà nước, các cơ
quan của Chính phủ, các cấp chính quyền từ Trung ương đến cơ sở.
+ Nguồn trả lương cho công chức hành chính là từ khoản chi ngân sách
nhà nước (thường là thuộc khoản chi thường xuyên) nên gần như hoàn toàn
không phải chịu thuế thu nhập cá nhân. Đồng thời công chức hưởng lương từ
những khoản đóng góp của người dân (dưới hình thức thuế và phi thuế) nên
hiệu quả công việc của họ phải được đánh giá từ hiệu quả phục vụ nhân dân,
phục vụ xã hội.
+ Lao động của công chức hành chính không phải là lao động giản đơn
mà thuộc lao động phức tạp liên quan đến quản lý nhà nước nên tiền lương và
thu nhập công chức hành chính không nằm ở đáy mà cũng không nằm ở đỉnh
của bậc thang thu nhập trong xã hội. Thông thường, tiền lương và thu nhập
công chức hành chính ở mức trung bình khá của xã hội.
+ Tuyệt đại đa số công chức là những lao động được đạo tạo, thường có
trình độ từ đại học trở lên nên tiền lương và thu nhập bình quân của họ cũng
phải ngang bằng với những người có trình độ đào tạo tương đương thuộc khu
16
tailieuonthi
vực ngoài quản lý nhà nước trong một quốc gia có thị trường lao động hoàn
hảo, nếu không nhất định sẽ có sự chuyển dịch công chức sang khu vực khác
có tiền lương và thu nhập hấp dẫn hơn.
+ Lao động của công chức hành chính gắn với quản lý nhà nước nên
việc tính toán định lượng năng suất lao động, hiệu quả làm việc, qua đó xác
định tiền lương cho công chức hành chính rất khó khăn. Hầu hết các quốc gia
đều xác định căn cứ trả lương và thu nhập cho công chức dựa trên mức độ
hoàn thành nhiệm vụ được giao (định tính là chủ yếu). Một số quốc gia thiết
kế được những chức năng nhiệm vụ cụ thể cho từng vị trí công chức hành
chính để làm căn cứ đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ. Tuy nhiên, hệ
thống thang bảng lương của công chức hành chính vẫn là điển hình cho hệ
thống trả lương theo thâm niên công tác và trọng trách được giao;
+ Ở đại đa số các quốc gia trên thế giới, tiền lương là nguồn thu nhập
chủ yếu của công chức, ít nhất chiếm trên 90% tổng thu nhập (ở Việt Nam
hiện nay, tiền lương công chức dao động từ 30 đến 100% thụ nhập của họ tuỳ
thuộc vào vị trí công tác) nên hệ thống tiền lương được thiết kế sao cho đủ
cho bản thân họ và gia đình của họ (thậm chí có tích luỹ) để công chức tận tuỵ
với công việc của họ (100% thời gian và công sức dành cho thực hiện nhiệm
vụ được giao), đồng thời không muốn tham nhũng hay nhận hối lộ (bên cạnh
cơ chế đảm bảo công chức không dám và không thể tham nhũng) hay lạm
dụng chức vụ, quyền hạn để kiếm lợi riêng cho bản thân, gia đình và người
thân quen.
+ Do đặc điểm của hệ thống quản lý nhà nước cả cấp trung ương và địa
phương nên về nguyên tắc là tiền lương của tất cả các công chức hành chính
có xuất phát điểm như nhau, sự khác biệt về tiền lương và thu nhập khi kết
thúc cuộc đời công chức hành chính phụ thuộc vào sự thăng tiến của họ trên
con đường chức nghiệp và vị trí công việc đảm nhiệm. Nói cách khác, tầng
lớp công chức hành chính điển hình cho quan hệ gắn bó giữa "danh" và "lợi",
do đó hệ thống thang bảng lương công chức hành chính thường đặt trên
17
tailieuonthi
nguyên tắc đảm bảo ổn định và hạn chế sự phân biệt quá lớn giữa các bậc
(trước thời kỳ đổi mới, mỗi khi lên chức đều gắn với việc lên bậc lương,
nhưng những năm gần đây Việt Nam đã chuyển sang tách rời lên lương với
việc lên chức mà chuyển sang chế độ phụ cấp lãnh đạo như một phần bổ sung
vào tiền lương cơ bản căn cứ mức lương tối thiểu do Nhà nước công bố;
+ Theo thông lệ, công chức được coi là một nghề đặc trưng bởi tính ổn
định rất cao thông qua cam kết bất thành văn hoặc thành văn là có thể làm công
chức suốt đời cho đến khi về hưu cho một "ông chủ" tương đối trừu tượng là
nhà nước. Do vậy một mặt, quyền lợi và trách nhiệm của công chức gắn liền
với vai trò và chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, mặt khác, trên thị trường lao
động thì "thị trường lao động của công chức" ít mang tính thị trường nhất do có
ít rủi ro nhất trong số những rủi ro trên thị trường lao động như thất nghiệp,
mất việc làm, bị cắt ngắn hay kéo dài quá mức thời gian lao động, bị cắt hoặc
giảm, chậm trả tiền lương và thu nhập do những biến động kinh tế, không được
hưởng lương hưu và bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong khi đương chức và
sau khi nghỉ hưu, thậm chí cả rủi ro chính trị khi công chức được xếp vào loại
chuyên nghiệp chứ không phải là nhà chính trị.
+ Hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá cũng tác động đến tiền
lương và thu nhập công chức, đặc biệt là đối với công chức ở những nước
đang phát triển có mức thu nhập trung bình thấp như Việt Nam khi công chức
có thêm sự lựa chọn làm việc cho các tổ chức quốc tế với những công việc
gần tương tự như cũ, phù hợp với khả năng và trình độ của một bộ phận công
chức nhưng lại có mức tiền lương và thu nhập cao hơn rất nhiều lần;
+ Tiền lương và thu nhập của một bộ phận công chức Việt Nam, nhất là
công chức cấp trung trở lên còn có liên quan tới tiến trình đổi mới các doanh
nghiệp nhà nước và xác định vai trò chủ đạo của khu vực nhà nước khi tiền
lương và thu nhập của những công chức được giao nhiệm vụ đại diện quản lý
phần vốn nhà nước của các doanh nghiệp nhà nước đã chuyển đổi (cổ phần
hoá) gấp nhiều lần so với tiền lương và thu nhập của họ khi còn làm ở vị trí
18
tailieuonthi
công chức cũ trong khi các điều kiện làm việc, yêu cấu về trình độ và trách
nhiệm lại hầu như không thay đổi.
Tóm lại, tiền lương công chức và thu nhập công chức là quyền lợi dành
cho một bộ phận người lao động đặt mục tiêu ổn định công ăn việc làm lên
hàng đầu nên tiền lương và thu nhập công chức luôn phản ánh mức bình quân
chung về tiền lương và thu nhập của toàn xã hội về mặt định lượng và phản
ánh trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.
1.1.2.2. Các thành tố của chính sách tiền lương công chức hành chính nhà nước
Chính sách tiền lương đối với công chức hành chính nhà nước là một bộ
phận của chính sách tiền lương nói chung, nhằm điều tiết quan hệ tiền lương,
tiền thưởng và thu nhập của công chức hành chính nhà nước, bảo đảm cho họ
và gia đình có thể sống bằng lương, dần từng bước nâng cao chất lượng cuộc
sống của họ để họ yên tâm công tác trong nền công vụ, thu hút nhân tài vào
hoạt động công vụ, tránh hiện tượng chảy máu chất xám từ khu vực công sang
khu vực tư.
Về cơ bản, chính sách tiền lương đối với công chức hành chính nhà nước
bao gồm các thành tố sau:
- Chính sách tiền lương tối thiểu
Tiền lương tối thiểu là một nội dung quan trọng trong chính sách tiền
lương đối với công chức hành chính nhà nước. Mức lương tối thiểu này là
mức sàn thấp nhất để điều chỉnh cách quan hệ lao động trong xã hội. Theo
công ước về tiền lương tối thiểu của Tổ chức Lao động quốc tế, việc xác định
tiền lương tối thiểu nhằm mục tiêu bảo đảm cho những người làm công ăn
lương một sự bảo hộ xã hội cần thiết. Các yếu tố để được xem xét trong việc
xác định mức lương tối thiểu bao gồm: nhu cầu của người lao động và gia
đình của họ, có tính đến mức lương chung trong nước, chi phí sinh hoạt, lợi
ích an sinh xã hội và mức sống tương đối của các nhóm xã hội khác; các yếu
tố kinh tế, bao gồm cả các yêu cầu của phát triển kinh tế và năng suất lao
19
tailieuonthi
động. Mức lương tối thiểu cũng phải phù hợp với mức chi trả của người sử
dụng lao động và của nền kinh tế.
Ở Việt Nam, tiền lương tối thiểu của công chức hành chính là số tiền
lương trả cho người lao động có trình độ thấp nhất của khối công chức hành
chính trong một tháng để cho công chức hành chính và gia đình của họ sống
và làm việc với tiền lương tối thiểu này.
Theo quy định tại Điều 56 Bộ luật Lao động, mức lương tối thiểu được
ấn định theo giá sinh hoạt, bảo đảm cho người lao động làm công việc giản đơn
nhất trong điều kiện lao động bình thường bù đắp sức lao động giản đơn và một
phần tích luỹ tái sản xuất sức lao động mở rộng và được dùng làm căn cứ để
tính các mức lương cho các loại lao động khác. Đồng thời, chế độ tiền lương
hiện hành quy định mức lương tối thiểu áp dụng đối với cán bộ, công chức
bằng mức lương tối thiểu chung là mức lương thấp nhất (mức lương của nhân
viên phục vụ bậc 1), được dùng làm căn cứ để tính các mức lương trong hệ
thống thang lương, bảng lương, mức phụ cấp lương đối với cán bộ, công chức,
viên chức và được dùng làm căn cứ tính đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.
- Hệ thống thang lương, bảng lương và phương thức trả lương
Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế đến nay, hệ thống thang
lương, bảng lương của Việt Nam đã trải qua hai lần cải cách quan trọng vào
năm 1993 và 2004. Trong đó, cải cách năm 1993 đã thực hiện tách bạch về
thang lương, bảng lương giữa khu vực hành chính và khu vực sự nghiệp. Đây
là điểm đổi mới căn bản so với chế độ tiền lương năm 1993. Đối với viên
chức ở các ngành sự nghiệp áp dụng chung một bảng lương để làm căn cứ cho
việc cấp hoặc hỗ trợ kinh phí từ ngân sách nhà nước, để đóng - hưởng bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trả lương ngày nghỉ chế độ. Tiền lương thực trả
phụ thuộc vào nguồn thu và kết quả hoạt động của từng đơn vị sự nghiệp. Cải
cách tiền lương năm 2004 cũng đã thu gọn hệ thống bảng lương đối với khu
vực hưởng lương từ ngân sách nhà nước từ 20 bảng lương xuống còn 08 bảng
lương.
20
- Xem thêm -