Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hoàn thiện chính sách phát triển logistics ở việt nam...

Tài liệu Hoàn thiện chính sách phát triển logistics ở việt nam

.PDF
50
552
76

Mô tả:

1 TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN VIỆN THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ ĐỀ ÁN MÔN HỌC KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐỀ TÀI: HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN LOGISTICS Ở VIỆT NAM Giảng viên hướng dẫn Sinh viên thực hiện Mã số sinh viên Lớp : : : : GS-TS Đặng Đình Đào Hoàng Thị Linh CQ532224 QTKDTM53B Hà Nội, tháng 8 năm 2014 2 Mục lục Mục lục .................................................................................................................. 1 LỜI MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 4 CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN LOGISTICS Ở VIỆT NAM ....................................................................................................... 6 I. Logistics và chính sách phát triển Logistics tích ở Việt Nam ................... 6 1. Bản chất,tiềm năng của Logistics ở Việt Nam ...................................................6 2. Chính sách phát triển Logistics ở Việt Nam .....................................................13 II. Tại sao phải cần chính sách phát triển Logistics ở Việt Nam? ............. 16 1. Tăng trưởng thương mại và xu hướng toàn cầu hóa ....................................16 2. Triển vọng phát triển kinh tế trong nước ..........................................................16 3. Xu hướng phát triển dịch vụ thuê ngoài ngày càng gia tăng .....................17 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN LOGISTICS Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................................................................................ 20 I. Tình hình phát triển Logistics ở Việt Nam .............................................. 20 1. Tình hình phát triển Logistics ở Việt Nam ......................................................20 2. Về vấn đề xác định chiến lược phát triển ..........................................................21 3. Về mô hình logistics cần hướng tới .....................................................................22 II. Thực trạng chính sách phát triển Logistics ở Việt Nam ........................ 23 1. Nguồn pháp luật điều chỉnh hoạt động Logistics ở Việt Nam ....................23 2. Nội dung cơ bản của pháp luật điều chỉnh Logistics ở Việt Nam .............23 3. Chính sách thương mại của Việt Nam liên quan đến Logistics khi tham gia WTO và ASEAN ......................................................................................................35 4. Chính sách phát triển Logistics ở một số địa phương ...................................36 5. Kết luận, đánh giá thực trạng phát triển Logistics ở Việt Nam hiện nay39 CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN LOGISTICS Ở VIỆT NAM .............................................................................. 42 I. Mục tiêu, định hướng hoàn thiện chính sách Logistics ........................... 42 1. Mục tiêu, định hướng về hoàn thiện chính sách và môi trường pháp lý 42 2. Mục tiêu, định hướng hoàn thiện về hệ thống cơ quan quản lý ................42 II. Giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển Logistics ở Việt Nam. ...... 42 3 1. Hoàn thiện quản lý nhà nước về lĩnh vực dịch vụ Logistics .......................42 2. Xây dựng quy hoạch phát triẻn Logistics ở nước ta đến năm 2020 ..........46 3. Hoàn thiện môi trường kinh doanh, khuyến khích và thúc đẩy phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong kinh doanh dịch vụ Logistics .........................48 4. Nghiên cứu, ban hành các chính sách phát triển bền vững Logistics ở nước ta ...............................................................................................................................49 5. Phát triển hệ thống Logistics gắn liền với sự phát triển, liên kết các vùng kinh tế, hành lang kinh tế ở nước ta trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. ........................................................................................49 KẾT LUẬN ......................................................................................................... 50 Tài liệu tham khảo: ............................................................................................ 50 4 LỜI MỞ ĐẦU Trong những năm gần đây, phát triển dịch vụ Logistics một cách hiệu quả sẽ góp phần tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và quốc gia.Trong xu thế toàn cầu mạnh mẽ như hiện nay, sự cạnh tranh giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng trở nên gay gắt, khốc liệt hơn.Điều này đã làm cho dịch vụ Logistics trở thành một trong các lợi thế cạnh tranh của quốc gia. Những nước kết nối tốt với mạng lưới dịch vụ Logistics toàn cầu thì có thể tiếp cận được nhiều thị trường và người tiêu dùng từ các nước trên thế giới.Chẳng hạn như: Chi lê - một nước mặc dù ở cách xa hầu hết các thị trường lớn, nhưng lại có vai trò rất lớn trong thị trường lương thực thế giới, cung cấp cá tươi và hoa quả khó bảo quản cho người tiêu dùng ở Châu Á, Châu Âu và Bắc Mỹ. Đối với những nước không có khả năng kết nối này, chi phí Logistics sẽ rất cao và ngày càng gia tăng, khả năng mất cơ hội cũng rất lớn, nhất là những nước nghèo nằm sâu trong đất liền, mà phần lớn là ở Châu Phi. Phát triển dịch vụ Logistics sẽ đem lại nguồn lợi khổng lồ cho nền kinh tế.Logistics là một hoạt động tổng hợp mang tính dây chuyền, hiệu quả của quá trình này có tầm quan trọng quyết định đến tính cạnh tranh của ngành công nghiệp và thương mại mỗi quốc gia. Đối với những nước phát triển như Mỹ và Nhật Logistics đóng góp khoảng 10% GDP.Đối với những nước kém phát triển thì tỷ lệ này có thể cao hơn 30%.Sự phát triển dịch vụ Logistics có ý nghĩa đảm bảo cho việc vận hành sản xuất, kinh doanh các dịch vụ khác được đảm bảo về thời gian và chất lượng. Logistics phát triển tốt sẽ mang lại khả năng giảm được chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ. Với quy mô 20-22 tỷ USD/năm, chiếm 20,9% GDP của cả nước, những năm gần đây, ngành dịch vụ Logistics đang đóng vai trò quan trọng trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế ở Việt Nam.Theo Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ Logistics, cả nước hiện có khoảng 1.200 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistis, chủ yếu về dịch vụ giao nhận vận tải, kho bãi, bốc dỡ, đại lý vận tải,... tập trung ở khu vực Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Ngoại trừ các doanh nghiệp Nhà nước đang được cổ phần hóa, hầu hết các doanh nghiệp này có quy 5 mô vừa và nhỏ, vốn điều lệ bình quân từ 4-6 tỷ đồng, tỷ lệ nguồn nhân lực được đào tạo bài bản về Logistics còn chiếm khá thấp, chỉ từ 5-7%. Với quy mô và tiềm năng phát triển thị trường như vậy, tuy nhiên hệ thống chính sách phát triển Logistics của nước ta vẫn chưa được quan tâm thích đáng. Do vậy, việc nghiên cứu chính sách từ đó rút ra những điểm còn bất cập để đưa ra các biện pháp hoàn thiện chính sách phát triển Logistics là điều rất cần thiết. Để đảm bảo sự phát triển bên vững Logistics Việt Nam nói riêng cũng nhưng toàn bộ nền kinh tế Việt Nam nói chung. 6 CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN LOGISTICS Ở VIỆT NAM I. 1. Logistics và chính sách phát triển Logistics tích ở Việt Nam Bản chất,tiềm năng của Logistics ở Việt Nam 1.1 Khái quát quá trình phát triển: Logistics hoàn toàn không phải là khái niệm quá xa lạ cho dù một thực tế là cũng không phải nhiều người am hiểu sâu sắc về vấn đề này. Logistics đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử phát triển của nhân loại. Cho đến nay ở nước ta vẫn chưa tìm được thuật ngữ thống nhất, phù hợp để dịch từ Logistics sang tiếng Việt. Có tài liệu dịch là hậu cần, có tài liệu dịch là tiếp vận hoặc tổ chức cung ứng, đảm bảo,thậm chí là giao nhận… Tuy nhiên, có thể thấy rằng tất cả các dịch vụ đó đều chưa thỏa đáng, chưa phản ánh đúng đắn và đầy đủ bản chất của Logistics. Vì vậy, giữa nguyên thuật ngữ Logistics như trong luật Thương mại 2005 là cần thiết, không dịch sang tiếng Việt và bổ sung thuật ngữ này vào vốn từ tiếng Việt của chúng ta. Ngày nay, Logistics đã hiện diện trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế,nhanh chóng phát triển và mang lại thành công cho rất nhiều công ty và tập đoàn đa quốc gia nổi tiếng thế giới như:APL, Mitsui OSK, Maersk Logistics, NYK Logistics….Tuy nhiên một điều thực tế là Logistics được phát minh và ứng dụng đầu tiên không phải trong hoạt động thương mại mà là trong lĩnh vực quân sự. Napoleon đã từng định nghĩa: “ Logistics là hoạt động để duy trì lực lượng quân đội”. Logisticsđược các quốc gia ứng dụng rất rộng rãi trong hai cuộc đại chiến thế giới để di chuyển lực lượng quân đội cùng với một khối lượng lớn vũ khí và đảm bảo hậu cần cho lực lượng tham chiến.Hiệu quả của hoạt động Logistics là yếu tố có tác động rất lớn tới thành bại trên chiến trường.Cuộc đổ bộ thành công của quân đồng minh vào rừng Normandie tháng 6/1944 chính là nhờ vào sự nỗ lực của khâu chuẩn bị hậu cần và quy mô của các phương tiện hậu cần được triển khai. Sau khi chiến tranh thế giới lần thứ II kết thúc, các chuyên gia Logistics trong quân dội đã áp dụng các kỹ năng Logistics của họ trong hoạt động tái thiết kinh tế thời hậu chiến.Đây cũng là lúc hoạt động Logistics trong thương mại lần 7 đầu tiên được ứng dụng và triển khai.trước năm 1950, công việc Logistics chỉ đơn thuần là một hoạt động chưacs năng đơn lẻ. trong khi các lĩnh vực Marketing, quản trị sản xuất đã có những chuyển biến lớn thì vẫn chưa hình thành một quan điểm khoa học về quản trị Logistics một cách hiệu quả. Sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ và quản lý cuối thế kỷ XX đã tạo cho Logistics bước phát triển mới, có thể nói đó là giai đoạn phục hưng của Logistics( Logistics renaissance). Trong lịch sử Việt Nam hai người đầu tiên ứng dụng thành công Logistics trong hoạt động quân sự chính là Vua Quang TrungNguyễn Huệ trong cuộc hành quân thần tốc ra miền Bắc đại phá quân Thanh{1789) vÀ sau đó là Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong chiến dịch Điện Biên Phủ(1954) và chiến dịch giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước- Tuyến đường mòn Hồ Chí Minh(1975) Trong lịch sử phát triển, Logistics được nghiên cứu và áp dụng sang lĩnh vực Kinh doanh, nếu giữa thế kỉ XX rất hiếm công ty hiểu được Logistics là gì thì đến cuối thế kỉ, Logistics được ghi nhận như một chức năng kinh tế chủ yếu, một công cụ hữu hiệu mang lại thành công cho các doanh nghiệp cả trong khu vực sản xuất lẫn trong lĩnh vực dịch vụ. Theo Ủy ban Kinh tế và xã hội Châu Á-Thái Bình Dương( Economic and social commission for Asia and the Pacific – ESCAP), Logistics phát triển qua 3 gia đoạn- Phân phối vật chất, Hệ thống Logistics và Quản trị Logistics. - Giai đoạn phát triển hệ thống phân phối sản phẩm vật chất(Phisycal distribution) và những năm 60-70 của thế kỷ XX, Logisticslà hoạt động cung ứng sản phẩm vật chất hay còn gọi là Logistics đầu ra.Logistics đầu ra là quản lý một cách có hệ thống các hoạt động liên quan đến nhau để đảm bảo cung cấp sản phẩm, hàng hóa cho khách hàng một các hiệu quả. - Giai đoạn phát triển hệ thống Logistics( Logistics System): Vào những năm 80- 90 của thế kỷ XX, Hoạt động Logistics là sự kết hợp cả 2 khâu đầu vào( Cung ứng vật tư) và đầu ra( Tiêu thụ sản phẩm) để tiết kiệm chi phí, tăng hiệu quả. Đây gọi là “quá trình Logistics”. - Giai đoạn quản trị quá trình cung ứng - Quản trị Logistics( Supply chain manangement): Đây là giai đoạn phát triển của Logistics vào những năm cuối thế 8 kỷ XX. Theo định nghĩa của Hiệp hội các nhà chuyên nghiệp về quản trị chuỗi cung ứng(Council of Supply Chain Manangement Professionals – CSCMP):” Quản trị Logistics là một phần của quản trị chuỗi cung ứng bao gồm việc hoạch định, thực hiện, kiểm soát việc vận chuyển và dự trữ hiệu quả hàng hóa, dịch vụ cũng như những thông tin liên quan từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ để đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Hoạt động quản trị Logistics cơ bản bao gồm quản trị vận tải hàng hóa xuất và nhập, quản lý đội tàu, kho bãi, nguyên vật liệu, thực hiện đơn hàng, thiết kế mạng lưới Logistics, quản trị tồn kho,hoạch định cung/cầu, quản trị nhà cung cấp dịch vụ thứ ba. Ở một số mức độ khác nhau, các chức năng của Logistics cũng bao gồm việc tìm nguồn đầu vào, hoạch định sản xuất, đóng gói, dịch vụ khách hang. Quản trị Logistics là chức năng kết hợp và tối ưu hóa tất cả các hoạt động Logistics cũng như phối hợp hoạt động Logistics với các chức năng như Marketing, kinh doanh, sản xuất, tài chính, công nghệ thông tin”. Ngoài ra, người ta có thể chia quá trình phát triển Logistics thành 5 giai đoạn: Logistics tại chỗ (Workplace Logistics); Logistics cơ sở sản xuất (Facility Logistics); Logistics công ty ( Corporate Logistics); Logistics chuỗi cung ứng (Supply chain Logistics); Logistics toàn cầu (Global Logistics) ( xem sơ đồ 1) Hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau về giai đoạn tiếp theo của Logistics. Nhiều nhà kinh tế cho rằng, Logistics hợp tác (collaborative Logistics) sẽ là giai 9 đoạn tiếp theo và nó được kết hợp trên hai khía cạnh- không ngừng tối ưu hóa thời gian thực hiện với công việc liên kết tất cả các thành phần tham gia chuỗi cung ứng. 1.2 Khái niệm Tuy thuật ngữ Logistics đã được thế giới sử dụng phổ biến trong suốt thời gian dài, nhưng tại Việt Nam thì thuật ngữ này còn khá mới mẻ. Trên thế giới hiện nay, Logistics được biết đến với những khái niệm chủ yếu: - Tài liệu của Liên hợp quốc (UNESCAP) định nghĩa: “Logistics là hoạt động quản lý dòng chu chuyển và lưu kho nguyên vật liệu, quá trình sản xuất thành phẩm xử lý các thông tin liên quan v.v... từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ cuối cùng theo yêu cầu của khách hàng.” - Theo Ủy ban Quản lý Logistics của Hoa Kỳ: “Logistics là quá trình lập kếhoạch, chọn phương án tối ưu để thực hiện việc quản lý, kiểm soát việc di chuyển và bảo quản có hiệu quả về chi phí và ngắn nhất về thời gian đối với nguyên vật liệu, bán thành phẩm và thành phẩm, cũng như các thông tin tương ứng từ giai đoạn tiền sản xuất cho đến khi hàng hóa đến tay người tiêu dùng cuối cùng để đáp ứng yêu cầu của khách hàng.” - Theo Hội đồng Quản lý dịch vụ Logistics (CLM) quốc tế (Hội đồng này thiết lập các nguyên tắc, thể lệ, nội dung mà các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Logistics các nước thường áp dụng và chịu quy chế của Hội đồng này): “Logistics là một phần của quá trình cung cấp dây chuyền bao gồm lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, kiểm soát hiệu quả, lưu thông hiệu quả và lưu giữ các loại hàng hoá, dịch vụ và có liên quan đến thông tin từ điểm cung cấp cơ bản đến các điểm tiêu thụ để đáp ứng các nhu cầu của khách hàng”. - Theo Ngân hàng thế giới (WB): “Logistics liên quan đến việc quản lý dây chuyền cung cấp hoàn chỉnh một sản phẩm đặc thù, bao gồm vận tải nguyên liệu đầu vào và sản phẩm đầu ra, lưu kho, phân phối, liên kết các phương thức vận tải và các dịch vụ tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại .” - Pháp luật Việt Nam Điều 233 Luật Thương mại năm 2005 (thay thế cho khái niệm “dịch vụ giao nhận hàng hóa” của Luật Thương mại năm 1997) định nghĩa: “Dịch vụ Logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức 10 thực hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hoá theo thoả thuận với khách hàng để hưởng thù lao. Dịch vụ Logistics được phiên âm theo tiếng Việt là dịch vụ Logistics”. Qua các định nghĩa trên cho thấy, Logistics không phải là một dịch vụ đơn lẻ. Logistics luôn là một chuỗi các dịch vụ về giao nhận hàng hóa như: làm các thủ tục giấy tờ, tổ chức vận tải, bao bì đóng gói, ghi nhãn hiệu, lưu kho, lưu bãi, phân phát hàng hóa (nguyên liệu hay thành phẩm) tới các địa chỉ khác nhau. Chính vì vậy, nói tới Logistics người ta bao giờ cũng nói tới một chuỗi hệ thống dịch vụ (Logistics system chain).Logistics chính là quá trình tối ưu hóa mọi công việc, hoặc thao tác từ khâu cung ứng, sản xuất, phân phối và tiêu dùng. Cho đến nay, Logistics chưa được dịch sang tiếng việt. Nên thuật ngữ này được dùng như một từ mượn tại Việt Nam. Bởi, chưa có quan điểm chung thống nhất và nó bao gồm nhiều loại hình dịch vụ các cách dịch đều chưa thỏa đáng, chưa thể hiện được đầy đủ nhất nội dung của nó. 1.3 Vai trò của Logistics Nghành Logistics có vị trí ngày càng quan trọng trong nền kinh tế hiện đại và có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển kinh tế của các quốc gia và toàn cầu. Phần giá trị gia tăng do nghành Logistics tạo ra ngày càng lớn và tác động của nó thể hiện rõ dứoi những khía cạnh dưới đây: - Logistics là công cụ liên kết các hoạt động kinh tế trong một quốc gia và toàn cầu qua việc cung cấp nguyên liệu, sản xuất, lưu thông phân phối, mở rộng thị trường sự phân phối sản phẩm từ các nguồn ban đầu đến nơi tiêu thụ trở thành một bộ phận vô cùng quan trọng trong GDP ở mỗi quốc gia. - Tối ưu hóa chu trình lưu chuyển của sản xuất, kinh doanh từ khâu đầu vào đến khi sản phẩm đến tay người tiêu dùng cuối cùng hỗ trợ sự di chuyển và dòng chảy của nhiều hoạt động quản lý hiệu quả, tó tạo thuận lợi trong việc bán hầu hết các loại hàng hóa và dịch vụ. - Tiết kiệm và giảm chi phí trong lưu thông phân phối: tiết kiệm tối đa về thời gian tiền bạc các quá trình lưu thông phân phối trong nền kinh tế . 11 - Mở rộng thị trường trong buôn bán quốc tế, góp phần giảm chi phí, hoàn thiện và tiêu chuẩn hóa chứng từ trong kinh doanh đặc biệt trong buôn bán và vận tải quốc tế giúp cho mọi dòng hàng hóa được lưu chuyển thuận lợi, suôn sẻ từ quốc gia này đến quốc gia khác nhờ việc cung ứng kịp thời, phân phối chính xác, chứng từ tiêu chuân, thông tin rõ ràng.. - Logistics nâng cao hiệu quả quản lý, giảm thiểu chi phí trong quá trình sản xuất, tăng cường cạnh tranh cho doanh nghiệp giúp phối hợp các biến số marketing-mix, gia tăng sự hài lòng của khách hàng,trực tiếp làm giảm chi phí, gián tiếp làm tăng lợi nhuận trong dài hạn. - Logistics tạo ra giá trị gia tăng về thời gian và địa điểm góp phần tạo ra tính hữu ích về thời gian và địa điểm cho sản phẩm, nhờ đó mà sản phẩm có thể đến đúng vị trí cần thiết vào thời điểm thích hợp. - Logistics cho phép doanh nghiệp di chuyển hàng hóa và dịch vụ hiệu quả đến khách hàng sẽ tạo điều kiện để đưa hàng hóa đến nơi khách hàng yêu cầu nhanh nhất với chi phí thấp, cho phép doanh nghiệp thực hiện hiệu quảcác hoạt động của mình. - Logistics có vai trò hỗ trợ nhà quản lý ra quyết định chính xác trong hoạt động sản xuất kinh doanh, là một nguồn lợi tiềm tàng cho doanh nghiệp có thể giúp cho việc bán hàng ở mức chi phí thấp hơn nhờ vào hệ thống Logistics hiệu quả hoặc cung cấp dịch vụ khách hàng với trình độ cao hơn do dó tạo ra uy tín. 1.4 Tiềm năng vủa Logistics ở Việt Nam Sự phát triển của các ngành kinh tế trong những năm qua, trong đó tăng trưởng của ngành xuất nhập khẩu (XNK) đang tạo ra những động lực và thuận lợi rất lớn cho ngành Logistics Việt Nam. Đó là ý kiến của đa số các chuyên gia tại "Diễn đàn Logistics Việt Nam" lần thứ nhất năm 2013 với chủ đề “Nâng cao năng lực cạnh tranh từ liên kết các doanh nghiệp xuất nhập khẩu với Logistics” do Bộ Công Thương phối hợp với Bộ Giao thông vận tải tổ chức ngày 15/11 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Đỗ Xuân Quang, Chủ tịch Hiệp hội các doanh nghiệpdịch vụ Logistics Việt Nam cho biết, hiện nay trên cả nước có hơn 1.200 doanh nghiệpLogistics, tăng 20% so với năm 2010, tương đương với các nước Thái Lan, Singapore và Indonesia. 12 Trong số các công ty nội địa có khoảng 800 công ty đang hoạt động trong lĩnh vực giao nhận vận tải và 70% là doanh nghiệptư nhân đã thể hiện những bước phát triển về chất lẫn về lượng. Ngoài ra, vài năm gần đây, các doanh nghiệpLogistics nội địa đã tiến hành điều tư chiều sâu, triển khai các dịch vụ Logistics trọn gói 3PL (intergrated Logistics), tham gia hầu hết vào các công đoạn Logistics trong chuỗi cung ứng của chủ hàng.Từ đó, tạo ra nhiều giá trị gia tăng cho ngành dịch vụ và xác lập được uy tín của các đối tác, khách hàng trong và ngoài nước. Theo đánh giá Ngân hàng Thế giới (WB), tốc độ phát triển Logistics của Việt Nam đạt 16-20%/năm so với mức 12-15%/năm những năm 2010,2011. Theo ông Lê Xuân Sang, Viện Nghiên cứu Quản lí Kinh tế Trung ương, ngành logistic Việt Nam có rất nhiều lợi thế về địa lí và điều kiện tự nhiên. Với 3.260 km đường bờ biển, 4.639 km đường biên giới nằm trong vùng chiến lược của Đông Nam Á sẽ là những đầu tư sẵn có của tự nhiên cho các doanh nghiệpLogistics Việt Nam. Đặc biệt, Việt Nam có nhiều cảng nước sâu, 6 trung tâm Logistics tại 3 miền của đất nước như Cái Lân- VOSA (Quảng ninh) , Đình Vũ (Hải Phòng), Cát Lái (Thành phố Hồ Chí Minh), Cái Mép - Thị Vải (Vũng Tàu), trung tâm tiếp vận Gemadept Sóng Thần, trung tâm kho vận đa năng DAMCO (Bình Dương). Bên cạnh đó, Logistics của Việt Nam đang trong thời kỳ đầu của quá trình phát triển, chính vì vậy đây cũng là điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệpLogistics Việt Nam thực hiện ngay từ đầu việc áp dụng các công nghệ mới, các quy trình tiên tiến của thế giới trong việc xây dựng và phát triển dịch vụ của doanh nghiệpmình. Theo ôngTrần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất Nhập khẩu - Bộ Công Thương, sự tăng trưởng của ngành XNK đang tạo ra những tiềm năng to lớn cho ngành Logistics phát triển. Có tới 90% hàng XNK của Việt Nam được vận chuyển bằng đường biển với khoảng 500-600 triệu tấn/năm vào năm 2015 và đạt 1.100 tấn vào năm 2020. Lượng hàng container qua cảng biển Việt Nam đạt từ 4,2 – 5 triệu TEU, dự kiến đến năm 2020 con số này lên đến 7,7 triệu TEU. Việc Việt Nam tham gia rrất nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương sẽ tạo ra nhiều tiềm năng to lớn và tăng vị thế của ngành Logistics trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, theo ông Trần Tuấn Anh, Thứ trưởng Bộ Công Thương năng lực cạnh tranh của 13 ngành dịch vụ Logistics còn thấp, chi phí Logistics còn rất cao. Các doanh nghiệpLogistics phần lớn có quy mô nhỏ và vừa, vốn điều lệ bình quân hiện nay khoảng 4-6 tỷ đồng.Nguồn nhân lực đào tạo bài bản chuyên ngành Logistics chỉ chiếm 5-7%. Vì vậy, trong thời gian tới, để ngành Logistics phát triển mạnh hơn nữa, các doanh nghiệpViệt phải nắm bắt và tận dụng tối đa những tiềm năng của nền kinh tế đang phát triển để làm mạnh ngành dịch vụ của mình. Trong quy hoạch mạng lưới phát triển Logistics thời gian tới, tại miền Bắc sẽ hình thành 7 trung tâm Logistics hạng 1 và hạng 2 tại các vùng, tiểu vùng, hành lang kinh tế. Tại miền Trung -Tây Nguyên hình thành 6 trung tâm Logistics và miền Nam là 5 trung tâm Logistics. Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh cho biết, năm 2014 sẽ bắt đầu là thời kì mới cho doanh nghiệpXuất nhập khẩu và ngành Logistics Việt Nam do sự cạnh tranh cao hơn, sàng lọc thị trường nghiệt ngã hơn. Chính vì thế, bên cạnh sự hỗ trợ của Nhà nước và các cơ quan chứ năng hữu quan, các doanh nghiệpLogistics phải chủ động nâng cao năng lực bản thân đồng thời nỗ lực vươn lên khẳng định vị trí của mình ở thị trường trong nước cũng như thị trường quốc tế. 2. Chính sách phát triển Logistics ở Việt Nam 2.1 Khái quát Chính sách, môi trường pháp lý: Những năm qua, nước ta đang trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật và các bộ luật. Dịch vụ Logistics được pháp lý hóa lần đầu tiên trong Luật Thương mại 2005, có hiệu lực ngày 1/1/2006. Ngày 5/9/2007, Chính phủ ban hành Nghị định 140/2007/NĐ-CP, quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ Logistics và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ Logistics. Ngoài ra còn có Luật Hàng Hải, Luật Đầu tư, Luật Cạnh tranh… Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 175/QĐ-TTg ngày 27/1/2011 về việc phê duyệt chiến lược tổng thể phát triển khu vực dịch vụ của Việt Nam đến năm 2020 đã xác định nhiệm vụ chủ yếu giai đoạn 2016-2020 có nhiệm vụ đó là:” Các lĩnh vực tiếp tục được tập trung phát triển gồm: công nghệ thông tin và truyền thông, tài chính, lo-gi-stic, hỗ trợ kinh doanh, giáo dục bậc cao, chăm sóc sức khỏe chất lượng cao và dịch vụ”. 14 Ngoài ra còn có một số quyết định khác như quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 35/2009/QĐ-TTg ngày 3/3/2009 về việc phê duyệt điều chính chiến lược phát triển Giao thông vận tải đến năm 2020, tầm nhìn 2030 đã xác định một số mục tiêu phát triển đến năm 2020 về vận tải như:” đường biển: chú trọng phát triển các loại tàu chuyên dụng như tàu container, tàu hàng rời cỡ lớn, tàu dầu, tàu khí hóa lỏng, tàu Lash… trẻ hóa đội tàu biển đạt độ tuổi trung bình 12 năm vào năm 2020. Nghiên cứu phát triển tàu trở khách cao cấp ven biển và tàu khách du lịch.Đến năm 2020 đội tàu quốc gia có tổng trọng tải là 12÷14 triệu DWT.” Hay “Đường thủy nội địa: khu vực đồng bằng song Hồng, sử dụng đoàn tàu kéo đẩy từ 1.200 ÷ 1.600T, tàu tự hành đến 500T, tàu khách 50 ÷ 120 ghế; khu vực đồng bằng song Cửu Long, sử dụng tàu đẩy kéo 600 ÷ 1.200T.tàu tự hành loại đến 500T và tàu 30 ÷ 100 ghế. Đối với các tuyến ven biển ngắn, sử dụng tàu tự hành 500÷ 1.200T. Phát triển các phương tiện vận tải chuyên dung (container, xi măng rời, xăng dầu…). Đến năm 2020, đội tàu thủy nội địa có tổng trọng tải 10 ÷ 12 triệu tấn, tổng sức kéo 12 ÷ 13 triệu CV, tổng sức chở 0,8 ÷ 1 triệu ghế khách”… Hay quyết định số 169/QĐ-TTg ngày 22/1/2014 của Thủ tướng Chính phủ “ Quyếtđịnh phê duyệt Đềán phát triển dịch vụ Logistics trong lĩnh vực giao thông vận tải Việt Nam đến năm 2020, định hướng 2030” đã cóđưa nội dung và các giải pháp thực hiện về: kết cấu hạ tầng giao thông vận tải, phát triển các trung tâmphân phối hang hóa, nâng cao năng lực doanh nghiệp dịch vụ Logistics trong lĩnh vực giao thông vận tải,phát triển nguồn nhân lực và hợp tác quốc tế và cuối cùng là xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ. Và một số các văn bản điều chính liên quan như: Quyết định 245/2005/QĐTTg ngày 6/10/2005”Quyết định phê duyệt chiến lược phát triển công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam đến năm 2010 và định hướng 2020” trong đó có phần phát triển hạ tầng thông tin và truyền thông liên quan đến Logistics. Quyết định 2190/QĐ-TTg ngày 24/12/2009”Quyết định về việc phê duyệt qui hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030” Quyết định 448/QĐ-TTg ngày 25/3/2011”Quyết định về việc phê duyệt chiến lược phát triển Hải quan đến năm 2020”.Quyết định 70/2013/QĐTTg ngày 19/11/2013”Quyết định về việc công bố danh mục phân loại cảng biển 15 Việt Nam” và mới nhất là Quyết định 1037/QĐ-TTg ngày 24/6/2014 quyết định về việc phê duyệt điều chỉnh quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2020,định hướng đến năm 2030…. Hệ thống cơ quan quản lý: hiện nay đã có quy định giao Bộ Công Thương chịu trách nhiệm chung trước Chính phủ thực hiện việc quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ Logistics. Các Bộ: Giao thông vận tải, Công Thương, Thông tin và Truyền thong trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm kiểm tra giám sát các hoạt động kinh doanh dịch vụ Logistics liên quan, bao gồm kiểm tra, giám sát việc bảo đảm các điều kiện kinh doanh và tuân thủ theo quy định pháp luật của thương nhân kinh doanh dịch vụ Logistics trong lĩnh vực được phân công. Bộ Kế Hoạch và Đầu tư có trách nhiệm hướng dẫn việc đăng ký kinh doanh dịch vụ Logisticstheo quy định hiện hành của pháp luật. các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm phối hợp với các bộ trong công tác quản lý nhà nước về kinh doanh Logistics. 2.2 Vai trò của chính sách phát triểnLogistics ở Việt Nam Logisics là loại hình dịch vụ tuy còn mới mẻ đối với Việt Nam nhưng lại có vai trò rất quan trọng đối với quá trình sản xuất – kinh doanh của ngành cũng như đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân.Loại hình dịch vụ được xem như tâm điểm của sự phát triển kinh tế thương mại này được coi là nguồn lợi lớn cho nước ta.Vì vậy, trong những năm qua, ý thức được tầm quan trọng và hiệu quả to lớn từ dịch vụ Logistics, Việt Nam đã chú trọng vào việc xây dựng và phát triển dịch vụ Logistics tại Việt Nam.Vai trò của chính sách phát triển Logistics thể hiệnở các mặt sau đây: Một là, Các chính sách tạo lập môi trường vàđiều kiện cho Logistics phát triển.Việc thực thi các chính sách để hạn chế tình trạng thiếu cầu, giảm lạm phát, khuyến khích sản xuất, tiêu dung. Giúp tập trung xây dựng kết cấu cơ sở hạ tầng, tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng, môi trườngvĩ mô phù hợp với xu hướng phát triển của Logistics. Hai là, các chính cách này định hướng cho sự phát triển của Logistics. Sự định hướng này thực hiện thông qua việc xây dựng và tổ chức thực hiện các 16 chiến lược kinh tế xã hội, các trương trình mục tiêu, các kế hoạch ngắn hạn, dài hạn.Định hướng dẫn dắt sự phát triển của Logistics không những được đảm bảo của hệ thốngchính sách mà còn sự tác động của hệ thống tổ chức quản lý Logistics từ trung ương đến địa phương. Ba là, các chính sáchđiều tiết và can thiệp vào quá trình hoạtđộng Logistics của nền kinh tế quốc dân, đảm bảo cho nên fkinh tế hoạt động nhịp nhàng và phát triển với nhịp độ cao.Các chính sáchđảm bảo sự công bằng, dân chủ cho mọi thành phần Logistics hoạt động trên thị trường. II. Tại sao phải cần chính sách phát triển Logisticsở Việt Nam? 1. Tăng trưởng thương mại và xu hướng toàn cầu hóa Một xu hướng tất yếu của thờiđại ngày nay là toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới. Bất kỳ một quốc gia hay ngành nghề nào, không phân biệt lớn hay nhỏ, mới hay cũ, muốn tồn tại và phát triển thì phải chấp nhận và tích cực tham gia vào xu thế mới này. Toàn cầu hóa làm cho giao thương giữa các quốc gia,các khu vực trên thế giớiphát triển mạnh mẽ vàđương nhiên sẽ kéo theo những nhu cầu mới về vận tải, kho bãi, các dịch vụ phụ trợ… Xu thế mới của thời đại sẽ dẫn đến bước phát triển tất yếu tiếp theo của Logistics – Logistics toàncầu (Global Logistics). Logistics giữ vai trò cầu nối, là động lực thúc đẩy lưu chuyển hàng hóa từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ trên phạmvi toàn cầu. Vì vậy, khi nền kinh tế Việt Nam tang trưởng với tốc độ cao theo xu hướng hội nhập thì Logistics Việt Nam lại có them nhiều cơ hộiđể khẳngđịnh mình trên thương trường quốc tế, nhưng đây cũng là một thách thức gay go, khốc kiệt trong thời kỳ hậuWTO của Logistics Việt Nam. Vì vậy, các chính sách phát triển Logistics của Việt Nam cũng có những sựđiều chỉnh để phù hợp với xu hướng, sự phát triển của nên kinh tế thế giới. 2. Triển vọng phát triển kinh tế trong nước Hội nhập kinh tê quốc tế tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế, vừa tạora nhiều cơ hội lớn đồng thờicũng tạo ra những thách thức không nhỏ đối với sự phát triển các dịch vụ Logistics của nước ta. Nghiên cứu của các nhà kinh tế học cho thấy, chi phí về Logistics chiếm 10% giá trị buôn bán của hàng hóa lưu thông trong nước và chiếm 40% đối với hàng hóa mua bán trên thị trường quốc 17 tế. Trong khi đó, Việt Nam có rất nhiều lợi thế để phát triển ngành công nghiệp Logistics, làm tăng GDP cho đất nước.Việc dịch chuyển cơ sở sản xuất của nhiều doanh nghiệp nước ngoài từ nới khác đến Việt Nam đã tạo cơ hội rất lớn trong việc xây dựng một mạng lưới giao nhận kho vận hoạt động hiệu quả. Thời gian qua, một số doanh nghiệp Logistics Việt Nam đã cung cấp dịch vụ Logisticsở các nước láng giềng như Lào, Campuchia vàđã phối hợp với bạn hàng nước ngoài để thắng thầu cung cấpdịch vụ Logistics từ nước thứ ba quá cảnh Việt Nam đi Trung Quốc, Lào hay Campuchia. Đây thực sự là những sản phẩm dịch vụ xuất khẩu.Tiếp cận, hợp tác, liên kết với các bạn hàng nước ngoài một cách bình đẳng, đặc biệt là những bạn hàng các nước có lĩnh vực Logistics phát triểncao.Đòi hỏi kinh nghiệm về tổ chức quản lý nghề nghiệp, doanh nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội để tiếp cận trực tieép khách hàng nước ngoài ngay tại Việt Nam. Theo tính toán của Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển Trường Đại học Kinh tế quốc dân, kim nghạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đến năm 2020 sẽ tăng khoảng 2 lần so với năm 2010, trong đó thị phần của Logistics sẽ chiếm từ 18% - 22%. Nếu lấy năm 2020 là 282 tỷ USD thì Logistics sẽ cókim ngạch là 50 – 60 tỷUSD, đây quả thực là một số khổng lồ. Song hành cùng sự phát triển kinh tế là tăng trưởng xuất nhập khẩu. Điềuđó cho thấy, ngành Logistics lại có thêm nhiều cơ hội phát triển. 3. Xu hướng phát triển dịch vụ thuê ngoài ngày càng gia tăng Thuê ngoài (outsourcing) đơn giản được hiểu là việc di chuyển các quá trình kinh doanh trong tổ chức sang các nhà cung cấp dịch vụ bên ngoài. Về bản chất đây là chiến lược loại trừ các chức năng kinh doanh không cốt lõi (none core competency) để tập trung nguồn lực vào các kinh doanh chính yếu của doanh nghiệp. Thuê ngoài logistics là việc sử dụng các nhà cung cấp dịch vụ logistics bên ngoài (3PL’s, 4PL’s) thay mặt doanh nghiệp để tổ chức và triển khai hoạt động logistics. Thuê ngoài Logistics mang lại rất nhiều lợi ích cho doanh nghiệp. Trước tiên là giúp giảm vốn đầu tư và giảm chi phí, do nhà kinh doanh dịch vụ logistics có cơ sở vật chất kĩ thuật và công nghệ tốt, khả năng đáp ứng nhu cầu khách 18 hàng đa dạng với quy mô lớn nên đạt được lợi thế nhờ qui mô, nhờ đó có thể cung cấp cùng một dịch vụ với chi phí thấp hơn so với doanh nghiệp tự làm. Giúp nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng và tăng nhanh tốc độ vận động hàng hóa, do các nhà cung cấp dịch vụ logistics là các tổ chức kinh doanh logistics chuyên nghiệp nên có khả năng chuyên môn cao, có thể đáp ứng tốt nhất nhu cầu nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng cho doanh nghiệp. Phát triển các mối quan hệ kinh doanh và tăng cường kĩ năng quản lí, thuê ngoài đòi hỏi phải phát triển các kỹ năng giao tiếp và quá trình hợp tác với nhiều tổ chức cung cấp dịch vụ logistics và các doanh nghiệp khác cùng tham gia kinh doanh. Tăng khả năng tiếp cận thông tin với môi trường luôn biến động, thuê ngoài không chỉ đòi hỏi phải chia sẻ thông tin với nhà cung cấp mà còn phải nắm bắt và phân tích tốt các thông tin môi trường bên ngoài, giúp thúc đẩy doanh nghiệp thích nghi tốt hơn. Trong những lợi ích kể trên, khả năng giảm chi phí và nâng cao chất lượng dịch vụ là những lợi ích được các doanh nghiệp quan tâm hàng đầu. Tuy nhiên, thuê ngoài cũng có những rủi ro như khả năng mất kiểm soát đối với hoạt động logistics do qui trình nghiệp vụ bị gián đoạn, trong trường hợp này chất lượng dịch vụ bị ảnh hưởng nghiêm trọng, dự trữ cao hơn mức cần thiết hoặc thời gian đáp ứng đơn hàng kéo dài. Chi phí hợp tác quá cao cũng là lỗi thường gặp khi doanh nghiệp đánh giá quá thấp những nỗ lực và chi phí cần thiết để phối hợp hoạt động giữa các bên như chi phí về tích hợp hệ thống thông tin, chi phí giao tiếp và chi phí thiết kế qui trình. Việc phát sinh những chi phí không đáng có như chi phí sửa chữa các sự cố cũng làm tăng đáng kể tổng chi phí logistics. Dò rỉ dữ liệu và thông tin nhạy cảm do doanh nghiệp phải chia sẻ thông tin về nhu cầu và khách hàng với các nguồn cung ứng.Các nhà cung cấp phục vụ rất nhiều khách hàng nên nguy cơ rò rỉ thông tin có thể xảy ra. Việc sử dụng tường lửa (firewalls) giữa doanh nghiệp với 3PLs giúp giảm bớt nguy cơ này nhưng lại giảm khả năng thích ứng giữa hai bên. Theo công bố của Frost Sullivan tốc độ tăng trưởng bình quân của thị trường thuê ngoài dịch vụ logistics thế giới đạt 10-20%/ năm. Phần lớn các tập 19 đoàn lớn trên thế giới như Dell, Walmart, Nortel, GAP, Nike đều sử dụng nhà cung cấp dịch vụ thứ ba hoặc thứ tư, chính xu hướng này đã giúp thị trường logistics thế giới tăng trưởng ở mức hai con số. Báo cáo thường niên về “Thực trạng thuê ngoài hoạt động logistics toàn cầu” của Trường Đại học Georgia Tech (Mỹ) một trong những trường đại học danh tiếng nhất trong đào tạo ngành logistics và supply chain, phối hợp với Capgemini, DHL và Oracle cho thấy khá rõ xu hướng này tại 4 khu vực logistics lớn nhất hiện nay là Bắc Mỹ, châu Âu, châu Á - Thái Bình Dương và châu Mỹ latinh. Các quốc gia châu Á cũng là một thị trường thuê ngoài logistics sôi động, trong đó Việt Nam và các nước ASEAN được đánh giá là khu vực thị trường trẻ nhưng có tiềm năng tăng trưởng lớn. Nghiên cứu về sử dụng dịch vụ logistics của công ty SCM năm 2008, cho thấy tỷ lệ các doanh nghiệp Việt Nam thuê ngoài logistics khá lớn, đứng đầu là các doanh nghiệp kinh doanh hàng tiêu dùng đóng gói (40%) và thủy sản (23%). Các dịch vụ logistics được thuê ngoài nhiều nhất là vận tải nội địa (100%), giao nhận, kho bãi (73-77%), khai quan (68%), vận tải quốc tế (59%).Nghiên cứu cũng cho thấy các kết quả dịch vụ logistics thuê ngoài mang lại cho doanh nghiệp, đứng đầu là lợi ích về giảm chi phí, giảm đầu tư và tăng tốc độ vận động hàng hóa. Bên cạnh đó cũng còn rất nhiều phàn nàn của doanh nghiệp không hài lòng với kết quả thuê ngoài logistics, như chất lượng dịch vụ không đúng như cam kết và chưa có sự cải tiến liên tục (55%), chi phí không giảm như mong đợi (50%), hệ thống IT còn kém (45%), vấn đề nhân sự yếu (36%) và thiếu kinh nghiệm về logistics (27%). Tuy nhiên những hạn chế trên không làm giảm nhu cầu đối với hoạt động thuê ngoài dịch vụ logistics cả về quy mô và loại hình trong thời gian tới. 20 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN LOGISTICS Ở VIỆT NAM HIỆN NAY I. Tình hình phát triển Logistics ở Việt Nam 1. Tình hình phát triển Logistics ở Việt Nam Lĩnh vực logistics Việt Nam kể từ khi gia nhập WTO đã có sự phát triển đi lên. Theo đánh giá của WB khi nghiên cứu về logistics của các quốc gia thì chỉ số LPI (Logistics Performance Index) của Việt Nam có sự tăng lên từ mức 2,89 năm 2007 lên mức 2,96 năm 2010 và đạt mức 3 vào năm 2012. Đây là chỉ số đánh giá tổng quát nhiều khía cạnh của sự phát triển logistics của các quốc gia.Tuy nhiên, khi xét điểm về chất lượng và khả năng cạnh tranh về logistics thì điểm của Việt Nam có sự tăng trưởng không ổn định (bảng 1). Điều này có thể nói là xét về cơ sở hạ tầng và xét về công nghệ thì logistics Việt Nam có sự tiến bộ, nhưng điểm về khả năng cạnh tranh của logistics của Việt Nam thể hiện qua hoạt động cung cấp dịch vụ logistics của các công ty có sự suy giảm. Bảng 1. Đánh giá về logistics của các nước ASEAN 2007 2010 STT Quốc gia LPI QCL LPI QCL 1 Campuchia 2.5 2.47 2.37 2.29 2 Indonesia 3.01 2.9 2.76 2.47 3 Lào 2.25 2.29 2.46 2.14 4 Malaysia 3.48 3.4 3.44 3.34 5 Myanmar 1.86 2.26 2.33 2.01 6 Philippines 2.69 2.94 3.14 2.95 7 Singapore 4.19 4.21 4.09 4.12 8 Thái Lan 3.31 3.31 3.29 3.16 9 Việt Nam 2.89 2.8 2.96 2.89 10 ASEAN 2.91 2.95 2.98 2.82 Ghi chú: -LPI: Chỉ số năng lực về logistics 2012 LPI QCL 2.56 2.5 2.94 2.85 2.5 2.49 3.49 3.05 2.34 2.42 3.02 3.14 4.13 4.07 3.18 2.98 3 2.68 3.02 2.91 -QCL: Điểm về Chất lượng và khả năng cạnh tranh của dịch vụ logistics Nguồn: Báo cáo Thứ hạng năng lực quốc gia về logistics của WB năm 2007, 2010 và 2012. Hàng năm, theo thống kê thì có khoảng 300 công ty mới hoạt động trong lĩnh vực logistics ra đời và làm gia tăng con số 1.000 công ty đang hoạt động
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan