Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng...

Tài liệu Hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng

.PDF
77
248
89

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA LUẬT LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT KHÓA 33 Đề tài: HÒA GIẢI TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG Giáo viên hướng dẫn: Trương Thanh Hùng Bộ môn Luật Tư pháp Sinh viên thực hiện: Trần Hồng Ca MSSV: 5075010 Lớp Luật Tư pháp 1-K33 CẦN THƠ, NĂM 2011 NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………… NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………. MỤC LỤC Trang Lời nói đầu 1. Lý do chọn đề tài ...............................................................................................1 2. Tình hình nghiên cứu.........................................................................................1 3. Phạm vi nghiên cứu ...........................................................................................2 4. Mục tiêu nghiên cứu ..........................................................................................2 5. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................2 6. Bố cục đề tài......................................................................................................3 Chương 1 Khái quát chung về hòa trong tố tụng dân sự 1.1. Khái niệm hòa giải và hòa giải trong tố tụng dân sự ..................................4 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của hòa giải và hòa giải trong tố tụng dân sự .......4 1.1.2. So sánh hòa giải với thỏa thuận.................................................................6 1.1.3. So sánh hòa giải trong tố tụng dân sự với hòa giải ở cơ sở và hòa giải tại Ủy ban nhân dân .........................................................................................................8 1.2. Nguyên tắc và phạm vi hòa giải trong tố tụng dân sự...............................13 1.2.1. Nguyên tắc hòa giải trong tố tụng dân sự ................................................13 1.2.2. Những trường hợp không được tiến hành hòa giải ..................................14 1.2.3. Những trường hợp không tiến hành hòa giải được ..................................16 1.3. Lược sử hòa giải trong luật tố tụng dân sự Việt Nam...............................17 1.3.1. Giai đoạn 1945- 1960..............................................................................17 1.3.2. Giai đoạn 1960-1989 ..............................................................................19 1.3.3. Giai đoạn 1989-2005 ..............................................................................20 1.3.4. Giai đoạn 2005 đến nay ..........................................................................22 1.4. Chế định hòa giải trong pháp luật một số nước ........................................23 1.4.1. Chế định hòa giải trong pháp luật Pháp ...................................................23 1.4.2. Những ưu điểm và nhược điểm của chế định hòa giải trong pháp luật Việt Nam với Pháp......................................................................................................24 1.5. Ý nghĩa của hòa giải trong tố tụng dân sự và sự cần thiết của việc nghiên cứu chế định hòa giải.........................................................................................26 1.5.1. Ý nghĩa của hòa giải trong tố tụng dân sự ...............................................26 1.5.2. Sự cần thiết của việc nghiên cứu chế định hòa giải .................................27 Chương 2 Pháp luật hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng 2.1. Thủ tục trước phiên hòa giải......................................................................29 2.1.1. Thông báo về phiên hòa giải ...................................................................29 2.1.2. Thành phần phiên hòa giải ......................................................................35 2.2. Thủ tục tại phiên hòa giải ..........................................................................42 2.2.1. Nội dung phiên hòa giải ..........................................................................42 2.2.2. Biên bản hòa giải ....................................................................................47 2.3. Thủ tục sau phiên hòa giải ........................................................................51 2.3.1. Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự ..........................51 2.3.2. Hiệu lực của quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự .............56 2.4. So sánh hòa giải trong tố tụng dân sự với thỏa thuận tại phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm .....................................................................................60 2.4.1. Tại phiên tòa sơ thẩm..............................................................................60 2.4.2. Tại phiên tòa phúc thẩm .........................................................................64 Kết luận .............................................................................................................68 Đề tài: Hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng LỜI NÓI ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Mối quan hệ giữa người với người đã tồn tại và phát triển từ lâu. Các mối quan hệ này là tự nhiên, đa chiều và đa lợi ích. Ngày nay, các mối quan hệ dân sự ngày càng phát triển đa dạng và phong phú về cả số lượng và nội dung các quan hệ. Các chủ thể trong các mối quan hệ dân sự đó mâu thuẫn về lợi ích là điều không thể tránh khỏi. Khi đó, các bên có thể lựa chọn các phương thức khác nhau để giải quyết tranh chấp sao cho có lợi cho mình nhất. Tuy nhiên, các bên thường lựa chọn Tòa án để giải quyết tranh chấp. Tòa án là cơ quan duy nhất được trao quyền xét xử ở Việt Nam. Quyết định, bản án có hiệu lực của Tòa án được đảm bảo thi hành bởi quyền lực nhà nước. Đó là lý do mà các bên thường lựa chọn Tòa án để giải quyết tranh chấp. Trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự, Tòa án có nhiệm vụ hòa giải để các đương sự thỏa thuận giải quyết tranh chấp. Đây là nguyên tắc được ghi nhận tại Điều 10 Bộ luật tố tụng dân sự 2004. Chế định hòa giải là chế định được kế thừa trong pháp luật tố tụng dân sự từ thời kỳ trước. Đồng thời, chế định này cũng là được học hỏi từ hệ thống pháp luật phát triển từ lâu đời. Tỷ lệ hòa giải thành tại Tòa án cao hơn so với các hình thức hòa giải khác. Hòa giải thành tại Tòa án mang lợi ích cho cả Tòa án và các đương sự trong vụ án. Hòa giải thành còn góp phần phát triển kinh tế, xã hội đất nước. Tuy nhiên trong quá trình hòa giải cũng xuất hiện nhiều khó khăn, xuất phát từ phía quy định của luật cũng như chủ quan của từng Tòa án khi áp dụng pháp luật. Để có những nhìn nhận đầy đủ và rõ ràng về chế định hòa giải trong tố tụng dân sự, và góp phần hoàn thiện chế định trong thực tiễn, người viết chọn đề tài “Hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng”. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hòa giải trong tố tụng dân sự đã tồn tại trong hệ thống pháp luật nước ta từ rất sớm. Nó được quy định trong những văn bản tố tụng đầu tiên của nước ta. Chế định này đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết vụ án dân sự bởi vì nó góp phần giải quyết tranh chấp nhanh chóng và tiết kiệm. Tuy nhiên, các đề tài nghiên cứu về chế định này chưa nhiều. Các tạp chí chuyên ngành cũng có những bài viết, bài bình luận của các luật sư, chuyên gia luật, Thẩm phán. Các bài viết này đã phản ánh được một số điểm hạn chế cơ bản của chế định hòa giải trong tố tụng dân sự cũng có những giải pháp đề xuất để hoàn thiện chế định này. Về các đề tài nghiên GVHD: Trương Thanh Hùng SVTH: Trần Hồng Ca Trang 1 Đề tài: Hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng cứu của sinh viên Khoa Luật, Đại học Cần Thơ, từ khóa 30 trở về sau chỉ có một đề tài nghiên cứu về hòa giải tại Tòa án. Đề tài này cũng phản ánh được những ưu điểm và nhược điểm điển hình của luật thực định. Đồng thời, đề tài này cũng làm rõ quy định về thỏa thuận tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm. Tuy nhiên, về phần thực tiễn áp dụng của chế định hòa giải trong tố tụng dân sự thì đề tài nghiên cứu nói trên chưa làm rõ, cũng như các giải pháp đề xuất để nâng cao hiệu quả của công tác hòa giải trong tố tụng dân sự. 3. Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật tố tụng dân sự về chế định hòa giải. Cụ thể, người viết sẽ nghiên cứu các điều 180, 181, 182, 183, 184, 185, 186, 187, 188 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 và những quy định pháp luật liên quan để làm rõ chế định hòa giải trong tố tụng dân sự. Đồng thời, người viết cũng so sánh với các quy định pháp luật trong các thời kỳ trước và so sánh với chế định này trong pháp luật Pháp. Bên cạnh đó, người viết cũng nghiên cứu tình hình áp dụng của chế định này trong thực tiễn. Người viết sẽ nghiên cứu nhiều về tình hình áp dụng chế định hòa giải trong tố tụng dân sự được áp dụng tại tòa án nhân dân huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau. 4. Mục tiêu nghiên cứu Khi nghiên cứu đề tài này người viết mong muốn làm rõ những quy định của pháp luật về chế định hòa giải trong tố tụng dân sự trong luật thực định Việt Nam. Đồng thời, cũng so sánh chế định này với các giai đoạn phát triển trong pháp luật Việt Nam để rút ra những ưu và nhược điểm của pháp luật thực định. Người viết cũng tìm hiểu tình hình áp dụng chung của chế định hòa giải trong tố tụng dân sự. Cụ thể, người viết thực tập thực tế tại Tòa án nhân dân huyện Thới Bình để có những kinh nghiệm thực tế trong việc áp dụng chế định hòa giải. Thông qua đó, người viết tìm ra những bất cập trong quá trình áp dụng chế định này. Từ đó, người viết tìm ra những biện pháp nhằm khắc phục những hạn chế này và nâng cao tỷ lệ hòa giải thành. 5. Phương pháp nghiên cứu Dựa trên cơ sở những kiến thức đã học trong trường, người viết vận dụng , thu thập và tổng hợp tài liệu có liên quan để chứng minh làm rõ vấn đề. Mặt khác, khi thực hiện luận văn này người viết còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác như: - Dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mac-Lenin; GVHD: Trương Thanh Hùng SVTH: Trần Hồng Ca Trang 2 Đề tài: Hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng - Thu thập số liệu và thống kê số liệu; - Phương pháp phân tích luật viết; - Phân tích, so sánh, tổng hợp. 6. Bố cục đề tài Đề tài được bố cục thành 2 chương. Trong Chương 1, người viết tập trung làm rõ khái niệm hòa giải và hòa giải trong tố tụng dân sự, và so sánh với thỏa thuận và các hình thức hòa giải khác. Đồng thời, người viết cũng có tìm hiểu lược sử phát triển của hòa giải trong tố tụng dân sự từ năm 1945 đến nay, so sánh với chế định hòa giải trong luật của Pháp. Thêm vào đó, Chương 1 cũng phân tích về nguyên tắc và phạm vi khi tòa án tiến hành hòa giải. Cuối Chương 1 là ý nghĩa của hòa giải và sự cần thiết của việc nghiên cứu chế định hòa giải trong tố tụng dân sự. Tiếp theo, Chương 2 người viết tập trung làm rõ quy định của luật thực định về chế định hòa giải. Qua đó, người viết đưa ra những ưu điểm và nhược điểm của chế định này. Đồng thời, Chương 2 cũng tìm hiểu về tình hình áp dụng chế định hòa giải nói chung, cũng như thực tế áp dụng tại Tòa án nhân dân huyện Thới Bình. Cuối chương, người viết so sánh giữa hòa giải trong tố tụng dân sự với thỏa thuận tại phiên tòa sơ thẩm, và tại phiên tòa phúc thẩm. GVHD: Trương Thanh Hùng SVTH: Trần Hồng Ca Trang 3 Đề tài: Hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÒA GIẢI TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp phổ biến trong đời sống dân sự. Hòa giải cũng được tiến hành trong tố tụng và ngoài tố tụng. Dù là hòa giải trong tố tụng hay ngoài tố tụng thì mục đích cũng là giải quyết tranh chấp trong đời sống dân sự. Tuy nhiên, các hoạt động hòa giải này cũng có những điểm khác biệt nhất định. Trong đó, hòa giải trong tố tụng dân sự là hình thức hòa giải do Tòa án tiến hành và mang lại hiệu quả cao nhất. Chế định này đã tồn tại từ rất sớm, ngay từ khi nước ta được độc lập thì việc giải quyết tranh chấp bằng hòa giải đã được quan tâm. Nguyên nhân là hòa giải giúp cho việc giải quyết tranh chấp nhanh chóng và tiết kiệm. Bên cạnh đó, việc hòa giải thành cũng góp phần nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân và góp phần phát triển kinh tế, xã hội cho đất nước. 1.1. Khái niệm hòa giải và hòa giải trong tố tụng dân sự 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của hòa giải và hòa giải trong tố tụng dân sự - Khái niệm và đặc điểm của hòa giải Hòa giải là phương thức giải quyết các tranh chấp, bất đồng giữa hai hay nhiều bên bằng việc các bên dàn xếp, thương lượng với nhau có sự tham gia của bên thứ ba1. Như vậy, hòa giải là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua sự tham gia của bên thứ ba, đóng vai trò trung gian để hỗ trợ hoặc thuyết phục các bên tranh chấp để tìm ra giải pháp nhằm chấm dứt xung đột, bất hòa. Từ định nghĩa trên thì hòa giải có một số đặc trưng cơ bản. Trước hết, hòa giải chỉ tiến hành khi có tranh chấp giữa hai bên. Nếu không có tranh chấp thì hầu như hai bên không có mâu thuẫn về lợi ích. Trong khi đó, hòa giải là một hình thức để điều hòa lợi ích của các bên trong tranh chấp. Do đó, việc tiến hành hòa giải tiến hành mà không có tranh chấp sẽ không có ý nghĩa. Đồng thời, hoạt động giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hòa giải phải có sự xuất hiện của chủ thể thứ ba. Bên thứ ba đóng vai trò trung gian hỗ trợ cho các bên. Các bên trong tranh chấp thường mong muốn lợi ích của mình được đảm bảo. Do đó, các bên ít đạt được tiếng nói chung khi không có sự hỗ trợ của bên thứ ba. Bên thứ ba sẽ phân tích, giúp đỡ các bên tìm ra giải pháp mà các bên có thể chấp nhận được. Bên cạnh đó, bên thứ ba có thể đưa ra giải pháp để thuyết phục các bên. 1 Hội đồng biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam, (2002), Từ điển Bách khoa Việt Nam, Nhà xuất bản từ điển Bách khoa Hà Nội, quyển 2 trang 319 GVHD: Trương Thanh Hùng SVTH: Trần Hồng Ca Trang 4 Đề tài: Hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng Để hoạt động hòa giải có hiệu quả, bên thứ ba này phải là người không có quyền và lợi ích liên quan trong vụ tranh chấp. Cuối cùng, trong hòa giải thì các bên trong chấp có quyền quyết định và tự do định đoạt để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Khi các bên lựa chọn phương pháp giải quyết tranh chấp thì không ai có quyền can thiệp vào quyết định của các bên. Tuy nhiên, nếu cả hai bên trong tranh chấp đều muốn bảo vệ quyền và lợi ích mình tuyệt đối thì không thể giải quyết được tranh chấp. Vì vậy, các bên trong tranh chấp phải nhượng bộ nhau một ít để tìm ra giải pháp cân bằng lợi ích giữa các bên. Từ đó, tranh chấp được giải quyết nhanh chóng và đạt hiệu quả. - Khái niệm và đặc điểm hòa giải trong tố tụng dân sự Hòa giải là một nguyên tắc cơ bản trong pháp luật tố tụng dân sự. Cụ thể, nguyên tắc này được ghi nhận tại Điều 10 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 (BLTTDS). Theo đó, hòa giải là trách nhiệm của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án dân sự và tạo điều kiện để các bên thỏa thuận với nhau giải quyết tranh chấp. Nguyên tắc này dựa trên cơ sở quyền tự do thỏa thuận giữa các chủ thể trong luật dân sự và đã được cụ thể hóa trong chương XIII BLTTDS, bao gồm 8 điều luật quy định về trình tự, thủ tục hòa giải tại Tòa án. Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, thì Tòa án phải tiến hành hòa giải để các bên đạt được thỏa thuận về việc giải quyết vụ án. Hòa giải trong tố tụng dân sự là một trường hợp đặc thù của hòa giải nói chung. Do đó, hòa giải trong tố tụng dân sự cũng mang những đặc điểm chung của hoạt động hòa giải. Tuy nhiên, hoạt động này cũng mang những đặc trưng riêng của hoạt động trong tố tụng dân sự. Một là, hòa giải trong tố tụng dân sự chỉ được tiến hành khi giải quyết vụ án dân sự. Pháp luật tố tụng dân sự được áp dụng để giải quyết các vụ án dân sự và việc dân sự. Tuy nhiên, khi giải quyết việc dân sự thì Tòa án không tiến hành hòa giải bởi vì trong việc dân sự thì không có yếu tố tranh chấp. Việc dân sự chỉ là yêu cầu của bên đưa ra yêu cầu về việc Tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý đã phát sinh. Đối với vụ án dân sự, các đương sự tranh chấp với nhau về quyền và lợi ích hợp pháp. Do đó, hòa giải được tiến hành nhằm tìm ra giải pháp giải quyết tranh chấp trong quan hệ pháp luật nội dung. Hai là, bên thứ ba đóng vai trò trung gian hòa giải là Tòa án. Tòa án có nhiệm vụ tiến hành hòa giải để các bên thỏa thuận với nhau về giải pháp giải quyết tranh chấp. Đồng thời, Tòa án cũng có nhiệm vụ giúp đỡ, hỗ trợ các bên tìm ra giải pháp có lợi nhất cho các bên. Tòa án là cơ quan được trao quyền xét xử. Tuy nhiên, khi tiến hành hòa giải vụ án dân sự thì Tòa án chỉ đóng vai trò trung gian. Do đó, GVHD: Trương Thanh Hùng SVTH: Trần Hồng Ca Trang 5 Đề tài: Hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng Tòa án không được dùng mệnh lệnh ép buộc các bên chấp nhận giải pháp mà Tòa án đưa ra để giải quyết vụ án. Sự lựa chọn cách thức chấm dứt tranh chấp là quyền của đương sự. Khi các đương sự đã lựa chọn biện pháp giải quyết tranh chấp thì Tòa án phải tôn trọng nếu thỏa thuận các bên lựa chọn không vi phạm điều cấm của pháp luật và trái đạo đức xã hội. Cuối cùng, khi Tòa án tiến hành hòa giải thành thì sẽ có tính ràng buộc cao hơn đối với các bên. Sau bảy ngày kể từ ngày hòa giải thành thì Tòa án sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự. Trong thời hạn bảy ngày này mà các bên không thay đổi ý kiến thì kết quả hòa giải thành sẽ ràng buộc các bên. Nếu bên có nghĩa vụ không tự nguyện thi hành thì bên có quyền có thể yêu cầu cơ quan thi hành án cưỡng chế thi hành. Tóm lại, hòa giải trong tố tụng dân sự là hoạt động hòa giải vụ án dân sự được tiến hành bởi Tòa án, nhằm giúp các đương sự tìm ra giải pháp giải quyết tranh chấp có lợi cho các bên. 1.1.2. So sánh hòa giải với thỏa thuận * Khái niệm và đặc điểm của thỏa thuận Thỏa thuận là một phương pháp giải quyết tranh chấp mà các bên trong tranh chấp cùng bàn bạc, thống nhất ý chí và đi đến một biện pháp giải quyết tranh chấp có lợi nhất cho các bên. Trong quan hệ pháp luật dân sự, nguyên tắc tự do thỏa thuận luôn được tôn trọng. Do đó, khi quan hệ dân sự xảy ra tranh chấp thì các bên có quyền tự do thỏa thuận để giải quyết tranh chấp.Đây là hình thức giải quyết tranh chấp phổ biến mà các bên trong tranh chấp thường lựa chọn trước khi áp dụng các biện pháp giải quyết tranh chấp khác. - Thỏa thuận mang một số đặc điểm cơ bản sau: Trước hết, thỏa thuận là phương pháp giải quyết tranh chấp chỉ có các bên trong tranh chấp. Do đó, các bên chủ động hơn trong quá trình giải quyết tranh chấp. Các bên có thể dễ dàng thương lượng được thời gian và địa điểm giải quyết tranh chấp. Bên cạnh đó, thỏa thuận chỉ có các bên trong tranh chấp nên các bên thoải mái trao đổi ý kiến, quan điểm của mình mà vẫn đảm bảo được tính bí mật trong tranh chấp. Đặc biệt, đối với các tranh chấp trong kinh doanh, thương mại thì việc giữ bí mật trong tranh chấp là cần thiết, nếu không nó sẽ ảnh hưởng đến uy tín của các bên trong tranh chấp. Đồng thời, các bên trong tranh chấp cũng có quyền quyết định và quyền tự định đoạt khi tiến hành thỏa thuận. Đây là quyền cơ bản của các bên trong quan hệ GVHD: Trương Thanh Hùng SVTH: Trần Hồng Ca Trang 6 Đề tài: Hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng pháp luật dân sự. Không bên nào được lừa dối, ép buộc bên kia chấp nhận giải pháp mình đưa ra. Cuối cùng, thỏa thuận được tiến hành ngoài tố tụng và trong tố tụng. Thỏa thuận tiến hành ngoài tố tụng là giai đoạn giải quyết tranh chấp khi các bên chưa khởi kiện vụ án tại Tòa án. Khi đó, các bên tự nguyện thỏa thuận để giải quyết tranh chấp. Thỏa thuận trong tố tụng là các bên tiến hành thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa sơ thẩm hoặc phúc thẩm. Nhìn chung, thỏa thuận đạt được trong tố tụng sẽ có giá trị pháp lý cao hơn do nó được đảm bảo thi hành bởi cơ quan thi hành án. * So sánh thỏa thuận với hòa giải - Thỏa thuận và hòa giải đều là một trong những phương pháp giải quyết tranh chấp trong đời sống dân sự. Do đó, cả hai phương pháp này đều có những đặc điểm chung. Trước hết, khi hòa giải và thỏa thuận thì các bên trong tranh chấp đều có quyền quyết định và tự định đoạt. Đây là quyền cơ bản của các bên trong quan hệ dân sự. Do đó, khi giải quyết tranh chấp thì các bên cũng có quyền tư do thỏa thuận để giải quyết tranh chấp. Vì vậy, các bên trong tranh chấp phải nhượng bộ và cân bằng lợi ích giữa các bên thì việc giải quyết tranh chấp mới mang lại hiệu quả cho các bên. Đồng thời, cả hai hoạt động giải quyết tranh chấp này đều được tiến hành trong tố tụng và ngoài tố tụng. Thỏa thuận và hòa giải ngoài tố tụng chủ yếu phụ thuộc vào sự chủ động và thiện chí của các bên để tiến hành giải quyết tranh chấp cũng như thi hành các biện pháp đã đạt được. Đối với thỏa thuận và hòa giải trong tố tụng, pháp luật quy định rõ ràng về trình tự, thủ tục tiến hành cũng như các biện pháp thi hành các thỏa thuận đã đạt được. Như vậy, hoạt động giải quyết tranh chấp bằng thỏa thuận và hòa giải trong tố tụng có giá trị pháp lý cao hơn hoạt động thỏa thuận và hòa giải ngoài tố tụng. - Thỏa thuận và hòa giải là hai phương thức giải quyết tranh chấp khác nhau nên nó cũng có những khác biệt nhất định. Điểm khác biệt nổi bật nhất của hai hình thức giải quyết tranh chấp này là số chủ thể tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp. Đối với thỏa thuận, khi giải quyết tranh chấp thì chỉ có các bên tham gia vào quá trình thương lượng, đàm phán để tìm ra biện pháp chấm dứt mâu thuẫn. Trong khi đó, khi giải quyết tranh chấp bằng hòa giải, ngoài các bên là chủ thể chính trong tranh chấp thì còn có sự tham gia của chủ thể thứ ba đóng vai trò trung gian. Sự tham gia của chủ thể này vừa là ưu điểm vừa là nhược điểm của hòa giải. Do đó, GVHD: Trương Thanh Hùng SVTH: Trần Hồng Ca Trang 7 Đề tài: Hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng phụ thuộc vào loại tranh chấp, cũng như mối quan hệ giữa các bên mà các bên chọn giải pháp phù hợp để giải quyết tranh chấp của mình nhanh chóng, hiệu quả và có lợi nhất cho các bên. 1.1.3. So sánh hòa giải trong tố tụng dân sự với hòa giải ở cơ sở và hòa giải tại Ủy ban nhân dân (UBND) * So sánh hòa giải trong tố tụng dân sự với hòa giải cơ sở - Khái quát chung về hòa giải cơ sở: Hòa giải ở cơ sở là việc hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ nhằm giữ gìn đoàn kết trong nội bộ nhân dân phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư2. Hòa giải cơ sở được tiến hành theo 4 nguyên tắc được ghi nhận trong Pháp lệnh 09/1998/PL-UBTVQH10 về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở. Một là, hòa giải cơ sở phải phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, đạo đức xã hội và phong tục tập quán của nhân dân. Người dân có thể làm những điều mà pháp luật không cấm. Tuy nhiên, nó phải được thực hiện trong khuôn khổ của đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước. Bên cạnh đó, việc tiến hành hòa giải ở cơ sở không được trái với phong tục tập quán, đạo đức xã hội. Đây cũng chính là nguyên tắc xuyên suốt trong pháp luật dân sự nói chung. Do đó, khi giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn phát sinh trong quan hệ dân sự thì nguyên tắc này cũng phải được tôn trọng. Hai là, hòa giải cơ sở phải tôn trọng sự tự nguyện của các bên; không bắt buộc, áp đặt các bên tranh chấp tiến hành hòa giải. Hòa giải cơ sở không phải là thủ tục bắt buộc trong quá trình giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn. Do đó, các bên trong tranh chấp có quyền lựa chọn có tiến hành hòa giải ở cơ sở hay không. Khi đã lựa chọn giải quyết tranh chấp bằng hòa giải cơ sở, các bên vẫn có quyền lựa chọn giải pháp có lợi nhất. Tổ hòa giải hoặc hòa giải viên không được ép buộc các bên lựa chọn bất kỳ giải pháp nào. Ba là, hòa giải phải được tiến hành khách quan, công minh, có lý, có tình; giữ bí mật thông tin đời tư của các bên tranh chấp; tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp của người khác; không xâm phạm lợi ích của công cộng. Bí mật đời tư của cá nhân được pháp luật bảo vệ. Do đó, trong quá trình giải quyết tranh chấp thì quyền 2 Điều 1 Pháp lệnh 09/1998/ PL-UBTVQH10 ngày 25 tháng 12 năm 1998 về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở GVHD: Trương Thanh Hùng SVTH: Trần Hồng Ca Trang 8 Đề tài: Hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng này của cá nhân cũng phải được tôn trọng. Kết quả hòa giải cơ sở là sự thỏa thuận giữa các bên tranh chấp, không phải là bản án, quyết định của Tòa án hay cơ quan nhà nước khác. Vì vậy, sự thỏa thuận này không được ảnh hưởng đến quyền lợi của người khác, cũng như lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước. Cuối cùng, cơ quan có trách nhiệm tiến hành hòa giải phải kịp thời, chủ động, kiên trì nhằm ngăn chặn vi phạm pháp luật, hạn chế những hậu quả xấu khác có thể xảy ra và đạt được kết quả hòa giải. Nguyên tắc này góp phần hạn chế những hậu quả xấu cho tình làng nghĩa xóm. Mối quan hệ giữa các bên trong tranh chấp cũng giảm bớt căng thẳng. Hòa giải cơ sở luôn được khuyến khích để giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn ở thôn, làng, ấp, xóm. Tuy nhiên, pháp luật cũng quy định những trường hợp không được tiến hành hòa giải ở cơ sở vì tính chất quan trọng của tranh chấp, mâu thuẫn. Theo đó, Pháp lệnh quy định ba trường hợp mà tổ hòa giải ở cơ sở không được tiến hành hòa giải: Trước hết, tổ hòa giải không được tiến hành hòa giải đối với tội phạm hình sự. Chỉ có Tòa án có thẩm quyền ra đưa ra hình phạt đối với tội phạm. Tuy nhiên, đối với các vi phạm pháp luật hình sự thuộc các trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại mà người này không yêu cầu hoặc đã rút yêu khởi tố,và cũng không bị xử lý vi phạm hành chính thì có thể tiến hành hòa giải ở cơ sở. Chẳng hạn, các hành vi cố ý gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác…mà thiệt hại xảy ra chưa lớn thì có thể hòa giải ở cơ sở. Đồng thời, trường hợp hành vi vi phạm pháp luật bị xử lý hành chính cũng không được tiến hành hòa giải ở cơ sở. Thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính thuộc về các cơ quan hành chính và cán bộ hành chính có thẩm quyền. Tổ hòa giải hoặc hòa giải viên chỉ là tổ chức xã hội ở địa phương không có thẩm quyền, cũng như không được giao thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính. Do đó, tổ hòa giải hoặc hòa giải viên không được tiến hành hòa giải đối với các loại vi phạm pháp luật này. Trường hợp cuối cùng không được tiến hành hòa giải cơ sở là các vi phạm pháp luật và các tranh chấp mà theo quy định của pháp luật thì không được tiến hành hòa giải. Theo hướng dẫn của văn bản hướng dẫn thi hành Pháp lệnh 09/1998, có bốn trường hợp mà theo quy định của pháp luật không được tiến hành hòa giải ở cơ sở, bao gồm kết hôn trái pháp luật, gây thiệt hại đến tài sản nhà nước, tranh chấp phát sinh từ giao dịch trái pháp luật, tranh chấp về lao động. GVHD: Trương Thanh Hùng SVTH: Trần Hồng Ca Trang 9 Đề tài: Hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng - So sánh hòa giải trong tố tụng dân sự với hòa giải cơ sở Hòa giải trong tố tụng dân sự và hòa giải cơ sở đều là trường hợp cụ thể của hòa giải nói chung. Do đó, cả hai trường hợp này đều mang những đặc điểm chung của hòa giải nói chung. Trước hết, hòa giải trong tố tụng dân sự và hòa giải cơ sở đều là hình thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong đời sống dân sự. Tức là các bên trong quan hệ pháp luật nội dung đã có mâu thuẫn về lợi ích. Mối quan hệ giữa họ cần có một biện pháp để điều hòa lợi ích giữa các bên. Đồng thời, cả hai hình thức hòa giải này đều có sự tham gia của chủ thể thứ ba. Chủ thể này đóng vai trò trung gian, giúp đỡ các bên giải quyết tranh chấp. Cuối cùng, các bên tranh chấp có quyền quyết định và tự định đoạt khi tiến hành giải quyết tranh chấp bằng hòa giải. Tuy nhiên, các bên trong tranh chấp phải biết cân bằng lợi ích của nhau thì hoạt động giải quyết tranh chấp này mới mang lại hiệu quả. Dù vậy, hai hình thức này cũng có những điểm khác biệt nhất định. Nguyên nhân là do hai hình thức này được tiến hành ở hai giai đoạn khác nhau trong quá trình giải quyết tranh chấp. Các điểm khác biệt bao gồm: Trước hết, hòa giải cơ sở không phải là thủ tục bắt buộc trong quá trình giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn trong đời sống dân sự. Nó là thủ tục hòa giải ngoài tố tụng. Việc có lựa chọn tiến hành hòa giải ở cơ sở hay không là quyền của các bên trong tranh chấp. Theo quy định của các văn bản quy phạm pháp luật hiện tại, hòa giải cơ sở không phải là thủ tục bắt buộc để Tòa án tiến hành thụ lý hay không thụ lý đơn khởi kiện của đương sự. Trong khi đó, hòa giải trong tố tụng dân sự là một thủ tục bắt buộc được tiến hành tại Tòa án. Theo đó, Tòa án phải tiến hành hòa giải tất cả vụ án dân sự mà mình đã thụ lý giải quyết, trừ các trường hợp không được tiến hành hòa giải và không tiến hành hòa giải được. Nếu Tòa án không tiến hành hòa giải thì xem như vi phạm thủ tục nghiêm trọng. Đây là một trong những căn cứ để Tòa án cấp trên hủy án. Đồng thời, hai hình thức hòa giải này còn khác nhau ở phạm vi hòa giải. Hòa giải trong tố tụng dân sự có phạm vi rộng hơn hòa giải ở cơ sở. Hòa giải trong tố tụng dân sự tiến hành đối với tất cả các loại tranh chấp đã khởi kiện tại Tòa án, bao gồm các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao động. Tuy nhiên, hòa giải ở cơ sở thường tiến hành đối với các tranh chấp nhỏ về dân sự và hôn nhân, gia đình. Cuối cùng, hiệu lực của kết quả hòa giải thành đối với hai hình thức này cũng khác nhau. Đối với hòa giải ở cơ sở, việc thi hành thỏa thuận giữa các bên được thực hiện trên cơ sở tự nguyện giữa các bên là chính. Tổ viên Tổ hòa giải GVHD: Trương Thanh Hùng SVTH: Trần Hồng Ca Trang 10 Đề tài: Hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng động viên, thuyết phục các bên thực hiện thỏa thuận3. Trong trường hợp một bên muốn kéo dài việc giải quyết tranh chấp thì xem như mục đích của hòa giải ở cơ sở không đạt được. Ngược lại, quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự tại phiên hòa giải được đảm bảo thi hành bởi cơ quan thi hành án. Nếu bên có nghĩa vụ không tự nguyện thi hành quyết định, bên có quyền có thể yêu cầu cơ quan thi hành án cưỡng chế thi hành. Không phải mọi quyết định của Tòa án đều được thi hành. Tuy nhiên, nhìn chung việc thi hành quyết định của Tòa án có tính khả thi cao hơn vì pháp luật quy định rõ ràng, cụ thể về trình tự, thủ tục thi hành quyết định công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự trong luật thi hành án dân sự. * So sánh hòa giải trong tố tụng dân sự và hòa giải tại Ủy ban nhân dân - Khái quát chung về hòa giải tại Uỷ ban nhân dân (UBND) UBND là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. UBND thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương, góp phần đảm sự chỉ đạo, quản lý thống nhất trong bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương tới cơ sở.4 Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chức năng của mình thì UBND cũng tiến hành hòa giải đối với một số tranh chấp nhất định. Việc thực hiện chức năng này của UBND chưa được thống nhất và quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành. Các quy định điều chỉnh chức năng hòa giải ở UBND nằm rải rác trong các văn bản quy phạm pháp luật, mà chủ yếu là Luật đất đai 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành luật này. Theo đó, khi giải quyết các tranh chấp đất đai thì hòa giải tại UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp là thủ tục bắt buộc (Điều 135 Luật đất đai 2003). Đây là thủ tục phải được tiến hành trước khi các bên yêu cầu Tòa án nhân dân hoặc UBND có thẩm quyền giải quyết. Thời hạn để UBND tiến hành hòa giải là 30 kể từ ngày nhận được đơn. Việc hòa giải thành ở UBND góp phần giảm bớt gánh nặng cho Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp đất đai. Kết quả hòa giải thành mà có thay đổi hiện trạng về ranh giới, chủ sử dụng đất thì UBND cấp xã gởi biên bản hòa giải thành đến Phòng tài nguyên và môi trường hoặc Sở tài nguyên và môi trường để giải quyết theo quy định của pháp luật. Tức là làm cho thỏa thuận giữa các bên khi tiến hành hòa giải có hiệu lực pháp luật. Như vậy, kết quả hòa giải ở UBND cũng có cơ chế để thi hành cho dù nó chưa được đầy đủ và cụ thể. 3 Điều 14, pháp lệnh 09/1998 / PL-UBTVQH10 ngày 25 tháng 12 năm 1998 về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở 4 Điều 2 luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 GVHD: Trương Thanh Hùng SVTH: Trần Hồng Ca Trang 11 Đề tài: Hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng - So sánh hòa giải trong tố tụng dân sự và hòa giải ở UBND Hòa giải trong tố tụng dân sự và hòa giải ở UBND là các trường hợp cụ thể của hòa giải nói chung. Do đó, hai hình thức này có mang những nét tương đồng nhất định. Đầu tiên, cả hai hình thức giải quyết tranh chấp này đều mang những đặc trưng cơ bản của hòa giải. Đồng thời, điểm tương đồng của hai hình thức hòa giải này là thủ tục bắt buộc trong quá trình giải quyết tranh chấp. Trong quá trình giải quyết vụ án thì Tòa án bắt buộc phải tiến hành hòa giải nhằm tạo điều kiện cho các bên thỏa thuận với nhau. Đối với tranh chấp đất đai, các bên tranh chấp muốn khởi kiện tại Tòa án hoặc yêu cầu UBND cấp có thẩm quyền giải quyết thì trước tiên các bên phải thông qua hòa giải ở UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp. Nếu các bên không thông qua giai đoạn này thì Tòa án và UBND cấp có thẩm quyền sẽ không thụ lý giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, hai hình thức này cũng có những điểm khác biệt do đây là hai trường hợp khác nhau của hòa giải. Cụ thể: Trước hết, chủ thể đóng vai trò trung gian hòa giải trong hai hình thức này là khác nhau. Tòa án đóng vai trò trung gian trong hoạt động hòa giải trong tố tụng dân sự khi giải quyết vụ án dân sự đã thụ lý. Hòa giải ở UBND thì chủ thể đóng vai trò trung gian là UBND cấp xã khi giải quyết tranh chấp đất đai. Do chủ thể tiến hành hòa giải là khác nhau nên trình tự, thủ tục trong quá trình hòa giải cũng khác nhau. Theo đó, pháp luật quy định về trình tự, thủ tục khi tiến hành hòa giải trong tố tụng dân sự rõ ràng và cụ thể. Trong khi đó, trình tự, thủ tục hòa giải tại UBND không được quy định chặt chẽ, chỉ được quy định tại Điều 135 Luật đất đai 2003 và Điều 159 Nghị định 181/2004/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật đất đai. Đồng thời, hai hình thức hòa giải này còn khác nhau ở phạm vi hòa giải. Hòa giải trong tố tụng dân sự áp dụng đối tất cả các loại tranh chấp đã được thụ lý tại Tòa án. Trong khi đó, hòa giải ở UBND chỉ bắt buộc khi giải quyết tranh chấp đất đai. Đối với các loại tranh chấp khác thì các bên cũng có thể yêu cầu UBND cấp xã hòa giải nhưng đó không phải là thủ tục bắt buộc. Cuối cùng, hiệu lực pháp luật của kết quả hòa giải thành của hai hình thức này cũng khác nhau. Đối với hòa giải trong tố tụng dân sự, trình tự thủ tục thi hành quyết định công nhận sự thỏa thuận được quy định đầy đủ và cụ thể trong luật thi hành án dân sự. Ngược lại, kết quả hòa giải thành ở UBND chưa được quy định rõ ràng về cách thức thi hành. Luật đất đai chỉ quy định cách thức thi hành đối với kết quả hòa giải thành làm thay đổi ranh giới đất và chủ sử dụng đất, các vấn đề còn lại GVHD: Trương Thanh Hùng SVTH: Trần Hồng Ca Trang 12 Đề tài: Hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng chưa được quy định cụ thể. Do đó, việc thi hành kết quả hòa giải thành phụ thuộc vào ý chí của các bên. 1.2. Nguyên tắc và phạm vi hòa giải trong tố tụng dân sự 1.2.1. Nguyên tắc hòa giải trong tố tụng dân sự Hòa giải là một thủ tục bắt buộc trong quá trình giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án (trừ trường hợp không được tiến hành hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được). Hòa giải thành ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của các đương sự. Do đó, việc tiến thành hòa giải phải tiến hành theo những nguyên tắc nhất định và đúng pháp luật. Hòa giải không thể được tiến hành một cách tùy tiện. Điều 180 BLTTDS 2004 quy định về các nguyên tắc hòa giải. Các nguyên tắc đó bao gồm: Trước tiên, hòa giải được tiến hành trên cơ sở tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận không phù hợp với ý chí của mình. Nguyên tắc này dựa trên quyền quyết định và tự định đoạt của các đương sự trong pháp luật tố tụng dân sự nói chung. Trong quá trình giải quyết vụ án, các đương sự có quyền thỏa thuận với nhau về phương án giải quyết tranh chấp. Đồng thời, nguyên tắc tự do thỏa thuận cũng là nguyên tắc cơ bản trong quan hệ pháp luật nội dung. Trong quan hệ pháp luật dân sự, tự do thỏa thuận luôn được tôn trọng. Thỏa thuận giữa các bên chỉ có hiệu lực pháp luật khi nó dựa trên nguyên tắc tự nguyện. Với vai trò trung gian hòa giải, Tòa án có thể giải thích về các quy định pháp luật có liên quan, về tình và lý trong vụ án. Tòa án cũng có thể đưa ra những biện pháp hợp lý, hợp tình và có lợi cho các bên để các bên lựa chọn. Tuy nhiên, việc chấp nhận hay không chấp nhận là quyền của các đương sự. Trong quá trình xét xử, giải quyết vụ án như thế nào là việc Hội đồng xét xử quyết định theo quy định của pháp luật. Theo đó, bản án có hiệu lực pháp luật buộc các bên phải thi hành. Ngược lại, trong quá trình hòa giải thì Tòa án chỉ đóng vai trò trung gian. Tòa án không được dùng mệnh lệnh hoặc các biện pháp khác buộc các bên phải chấp nhận phương án do Tòa án đề nghị. Tiếp theo, các đương sự có quyền tự do thỏa thuận nhưng nội dung các thỏa thuận không được trái pháp luật và đạo đức xã hội. Đây là nguyên tắc xuyên suốt trong các quan hệ pháp luật dân sự. Nội dung của tranh chấp là các quan hệ pháp luật dân sự. Do đó, nguyên tắc này cũng cần phải được tôn trọng. Các bên có thể thỏa thuận các biện pháp có lợi cho mình nhưng biện pháp đó không được trái với quy định của pháp luật hiện hành. Tuy nhiên, nếu các đương sự bắt buộc phải thỏa thuận đúng với quy định pháp luật thì ở đây quyền thỏa thuận của các đương sự không được đảm bảo. Khi đó, kết quả thỏa thuận của các đương sự không được trái GVHD: Trương Thanh Hùng SVTH: Trần Hồng Ca Trang 13 Đề tài: Hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng với quy định pháp luật thì việc cho phép các bên thỏa thuận tại phiên hòa giải xem như không có ý nghĩa. Do đó, Điều 180 quy định nội dung thỏa thuận giữa các đương sự không được trái pháp luật là chưa phù hợp và dễ dẫn đến cách hiểu sai. Như vậy, cụm từ “…không được trái pháp luật…” ở điểm b khoản 2 Điều 180 BLTTDS cần được thay thế bằng cụm từ “... không được vi phạm điều cấm của pháp luật…”. Trong đó, điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép các chủ thể thực hiện những hành vi nhất định5. Bên cạnh đó, thỏa thuận của các đương sự cũng không được trái đạo đức xã hội. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng tôn trọng và thừa nhận6. Trong các quan hệ pháp luật dân sự, các bên phải tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Do đó, khi các bên thỏa thuận giải quyết tranh chấp thì nguyên tắc này cũng cần phải được tôn trọng. Dù vậy, những chuẩn mực được gọi là đạo đức xã hội cũng thay đổi trong các giai đoạn lịch sử và không được quy định cụ thể như các quy phạm pháp luật. Do đó, đạo đức xã hội rất khó xác định và cũng gây khó khăn cho những người áp dụng pháp luật. Hai nguyên tắc trên là hai nguyên tắc cơ bản mà Tòa án, cũng như các đương sự phải tôn trọng khi tiến hành hòa giải tại Tòa án. Bên cạnh đó, Tòa án cũng như các đương sự phải chủ động, tích cực để hoạt động hòa giải trong tố tụng đạt hiệu quả cao, giải quyết vụ án nhanh chóng. 1.2.2. Những trường hợp không được tiến hành hòa giải Hòa giải là một thủ tục bắt buộc phải tiến hành trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. Tuy nhiên, cũng có trường hợp mà Tòa án không được tiến hành hòa giải. Nếu hòa giải những vụ án này thì kết quả hòa giải có thể sẽ trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật. Cụ thể, BLTTDS 2004 quy định các trường hợp không được tiến hành hòa giải ở Điều 181. Theo đó, có hai trường hợp mà Tòa án không tiến hành hòa giải khi thụ lý giải quyết vụ án. Trường hợp đầu tiên không được tiến hành hòa giải là yêu cầu đòi bồi thường đến tài sản của Nhà nước. Tài sản của Nhà nước được hiểu là tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước.7 Theo đó, tài sản của Nhà nước bao gồm đất đai, rừng tự nhiên, rừng trồng có nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi tự nhiên ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, công trình 5 Điều 128 Bộ luật dân sự 2005 Điều 128 Bộ luật dân sự 2005 7 Theo hướng dẫn của Nghị quyết 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006, hướng dẫn thi hành các quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại tòa án cấp sơ thẩm” của BLTTDS. 6 GVHD: Trương Thanh Hùng SVTH: Trần Hồng Ca Trang 14 Đề tài: Hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng thuộc các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản do pháp luật quy định. Nhà nước thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với loại tài sản này. Thiệt hại đến tài sản của Nhà nước được hiểu là các trường hợp tài sản Nhà nước bị thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật, do hợp đồng vô hiệu, do vi phạm nghĩa vụ dân sự hay do các hành vi khác gây thiệt hại cho tài sản nhà nước. Yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại của Nhà nước là quan hệ pháp luật phát sinh giữa hai chủ thể là bên gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước và bên được nhà nước giao sử dụng tài sản và có yêu cầu bồi thường. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp gây thiệt hại đến tài sản của nhà nước đều không được tiến hành hòa giải. Theo hướng dẫn của Nghị quyết 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 hướng dẫn thi hành các quy định trong phần thứ hai của BLTTDS (Nghị quyết 02/2006), khi thụ lý giải quyết các vụ án yêu cầu bồi thường thiệt hại tài sản nhà nước thì Tòa án cần phân biệt hai trường hợp: Một là, trường hợp tài sản của Nhà nước được giao cho cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang quản lý, sử dụng hoặc đầu tư vào doanh nghiệp do Nhà nước thực hiện quyền sở hữu thông qua cơ quan có thẩm quyền. Trong trường hợp này thì các đơn vị được nhà nước giao tài sản không được quyền tự chủ, và định đoạt tài sản. Do đó, các đơn vị này không có được quyền chủ sở hữu đối với tài sản được giao. Nếu Tòa án tiến hành hòa giải các vụ án này và các bên có quyền thỏa thuận với nhau thì có thể gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước. Vì vậy, để tránh tiêu cực trong quá trình thỏa thuận giữa các bên, pháp luật tố tụng dân sự không cho phép các bên thỏa thuận với nhau để giải quyết vụ án. Tuy nhiên, việc không cho phép hòa giải không loại trừ các biện pháp khắc phục, hạn chế thiệt hại hoặc sự tự nguyện bồi thường thiệt hại của bên gây ra thiệt hại. Đây là các yếu tố mà Tòa án cân nhắc việc ra bản án của mình tại phiên tòa. Hai là, trường hợp tài sản của Nhà nước được đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước, góp vốn trong các doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư của chủ sở hữu khác theo quy định của Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam mà doanh nghiệp được quyền tự chủ chiếm hữu, sử dụng hoặc định đoạt tài sản và chịu trách nhiệm trước Nhà nước đối với tài sản đó trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đây là trường hợp Tòa án vẫn tiến hành hòa giải trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án. Trong trường hợp này, khi giao tài sản cho các doanh nghiệp, Nhà nước đã giao cho doanh nghiệp có quyền chủ sở hữu đối với tài sản đó. Do đó, các doanh nghiệp này có quyền thỏa thuận với bên gây ra thiệt hại các phương án giải quyết tranh chấp. GVHD: Trương Thanh Hùng SVTH: Trần Hồng Ca Trang 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan