ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
VĂN THị THANH MAI
Hồ CHÍ MINH VỚI VIỆC XÂY DỰNG
CƠ QUAN QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
CAO NHẤT
(1946-1960)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Hà Nội – 2005
BẢNG QUY ƯỚC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNXH:
Chủ nghĩa xã hội
XHCN:
Xã hội chủ nghĩa
CNTB:
Chủ nghĩa tư bản
TBCN:
Tư bản chủ nghĩa
CNCS:
Chủ nghĩa cộng sản
DCCH:
Dân chủ cộng hoà
DTDCND:
Dân tộc dân chủ nhân dân
UBDTGP:
Uỷ ban dân tộc giải phóng
UBGPDT:
Uỷ ban giải phóng dân tộc
BTT:
Ban thường trực
UBND:
Uỷ ban nhân dân
CCRĐ:
Cải cách ruộng đất
BCHTƯ:
Ban chấp hành Trung ương
Nxb:
Nhà xuất bản
T.G:
Tác giả
T. P:
Thành phố
Mục lục
Mở đầu………………………………………………………………………….
1
Chương 1: Hồ chí minh với sự ra đời của quốc hội khoá I…………
6
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền lực của nhân dân…………………….
6
1. 2. Hồ Chí Minh với sự ra đời cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà……………………………………………………..
25
Chương 2: hồ chí minh với việc phát huy vai trò của cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất trong kháng chiến chống pháp (1946-1954)
……………………………………………………………………
2.1. Hồ Chí Minh với Quốc hội lập hiến trước ngày Toàn quốc kháng
39
39
chiến.
2.2. Chủ tịch Hồ Chí Minh điều hành Chính phủ thực hiện nghị quyết
của Quốc hội về tổ chức cuộc kháng chiến chống Pháp (1946-1954)...
57
Chương 3: Hồ chí minh với việc xây dựng cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất
trong thời kỳ 1955-1960………………
71
3.1. Hồ Chí Minh với Quốc hội trước tình hình mới…………………..
71
3.2. Hồ Chí Minh với Quốc hội và nhiệm vụ lập pháp, lập hiến……...
77
3.3 Hồ Chí Minh báo cáo hoạt động ngoại giao trước Quốc hội……...
89
Kết luận……………………………………………………………………….
96
Công trình của tác giả
101
Danh mục tài liệu tham khảo………………………………………..
103
Phụ lục…………………………………………………………………………
116
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991), Đảng Cộng sản Việt
Nam xác định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động” [83; 127].
Ngày 27/3/2003, Ban Bí thư ra Chỉ thị về đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo
dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới đã yêu cầu: “Đẩy mạnh công tác nghiên cứu
toàn diện tư tưởng Hồ Chí Minh gắn chặt với tổng kết thực tiễn góp phần bảo vệ và phát
triển học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới, bổ sung, phát triển
đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước”.
Từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945 cho đến năm 1969, gần 1/4 thế kỷ trên
cương vị người đứng đầu nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những đóng góp
to lớn trong việc xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Trong từng thiết
chế nhà nước (gồm lập pháp, hành pháp và tư pháp), Hồ Chí Minh vừa là người
sáng lập, vừa là linh hồn của nó.
Từ sau Đại hội VII, Đảng tuyên bố xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh, vì thế, vị trí, vai trò của cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất (Quốc hội) đã tăng lên mạnh mẽ.
Việc nghiên cứu để làm sáng rõ tư tưởng, sự nghiệp Hồ Chí Minh trên tư
cách là người tổ chức ra Quốc hội Việt Nam khoá I có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
to lớn. Vì lẽ đó, chúng tôi quyết định chọn vấn đề: “Hồ Chí Minh với việc xây
dựng cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất (1946-1960)” làm đề tài luận văn thạc
sĩ lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Hiện đã có khoảng gần 100 công trình nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh
đã được công bố. Gần với chủ đề luận văn, có các công trình sau đây: Nghiên cứu
những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật của GS.
1
Nguyễn Ngọc Minh, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1988; Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước kiểu mới - Sự hình thành và phát triển của GS. TS. Hoàng Văn Hảo, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995; Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do
dân và vì dân của TS. Nguyễn Đình Lộc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998;
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân (Chương VII của giáo
trình tư tưởng Hồ Chí Minh) GS. Đặng Xuân Kỳ làm chủ biên, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2003... Và nhiều sách, bài báo, các chuyên luận đăng trên các tạp chí
chuyên ngành như: Nhà nước và pháp luật, Lịch sử Đảng, Nghiên cứu lịch sử,
Cộng sản... Các công trình đó, ở các khía cạnh và mức độ khác nhau đã bước đầu
phân tích, làm rõ sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong vấn đề nhà nước và kiến nghị
tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam của dân, do
dân, vì dân.
Về phương diện lịch sử, các công trình nghiên cứu về những đóng góp của
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc sáng lập ra Quốc hội với tư cách là cơ quan
quyền lực cao nhất còn chưa nhiều. Có thể kể ra đây một số công trình tiêu biểu:
Lịch sử Quốc hội Việt Nam 1946-1960 của PGS. Lê Mậu Hãn và PGS. TS. Nguyễn
Văn Thư, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1994, trình bày sự ra đời và hoạt động
của Quốc hội khoá I. Giới thiệu cuốn sách này đồng chí Nông Đức Mạnh đánh giá:
Truyền thống yêu nước, cách mạng và kinh nghiệm hoạt động của Quốc hội khoá I
do Đảng lãnh đạo dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh đang tiếp tục khơi nguồn
sáng tạo và soi sáng con đường cho Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam vươn lên tầm cao mới trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền mang
đậm bản sắc Việt Nam và dấu ấn thời đại. Trong cuốn sách này, các tác giả bước
đầu trình bày sự đóng góp của Hồ Chí Minh như là kiến trúc sư của Quốc hội khoá I.
Ngoài công trình trên đây còn một số cuốn sách, bài báo khác đề cập đến
vấn đề này. Sau đây là những công trình tiêu biểu: Hồ Chí Minh với sự ra đời của
cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà; Quốc
2
hội đầu tiên của Việt Nam dân chủ cộng hoà - Quốc hội dân tộc thống nhất của
PGS. Lê Mậu Hãn, trong cuốn Sức mạnh dân tộc của cách mạng Việt Nam dưới
ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001; Quốc dân
Đại hội Tân Trào, Văn phòng Quốc hội, 1995; Chủ tịch Hồ Chí Minh với Quốc hội
và hội đồng nhân dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996; Hiến pháp 1946 và
sự kế thừa, phát triển trong các hiến pháp Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1998; Kỷ yếu hội thảo: Quá trình hình thành, phát triển và vai trò của Quốc
hội trong sự nghiệp đổi mới, Văn phòng Quốc hội, Hà Nội, 2001... Một số giáo
trình luật Nhà nước của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, của Trường đại
học Luật Hà Nội, của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội đều có một phần ngắn
viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh với Quốc hội khoá I.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Hệ thống hoá, khái quát hoá những tư liệu đã có, bổ sung thêm những tư
liệu mới nhằm góp phần làm rõ hơn vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với việc
xây dựng Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất trong giai đoạn 1946 - 1960.
Từ mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn góp phần tuyên truyền tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, về việc thiết lập và thực hiện "chính
quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân", cũng như việc ứng dụng nó vào việc
tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội trong điều kiện xây dựng Nhà
nước pháp quyền Việt Nam XHCN.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu và nguồn tư liệu như trên, luận văn có nhiệm vụ
kế thừa kết quả của những người đi trước, thu thập, xử lý tư liệu mới nhằm làm
sáng tỏ một cách có hệ thống những đóng góp ở tầm vĩ mô của Hồ Chí Minh với
Quốc hội - cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Đó là:
- Kiên quyết tổ chức bầu cử Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất của nước Việt Nam DCCH và thành lập chính phủ hợp hiến, hợp pháp.
3
- Xây dựng hệ thống pháp luật của Nhà nước Việt Nam DCCH.
- Phát huy quyền lực của Quốc hội và hoạt động của chính phủ trong khuôn
khổ hiến pháp và pháp luật.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tư tưởng và sự nghiệp của Chủ tịch
Hồ Chí Minh trong quá trình xây dựng Quốc hội Việt Nam giai đoạn 1946-1960.
Phạm vi nghiên cứu
Chủ tịch Hồ Chí Minh là Người sáng lập Nhà nước Việt Nam DCCH và
trong hơn 1/4 thế kỷ là người đứng đầu Nhà nước, nhưng trong luận văn, tác giả
chỉ trình bày những đóng góp của Hồ Chí Minh đối với cơ quan quyền lực Nhà
nước cao nhất giai đoạn 1946-1960.
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong luận văn là phương
pháp lịch sử và lôgíc, phân tích và tổng hợp, so sánh và hệ thống hoá.
Nguồn tài liệu
Tài liệu đã xuất bản
- Văn kiện Đảng giai đoạn 1930-1960
- Hồ Chí Minh toàn tập từ tập 1 đến tập 10.
- Các bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Quốc hội và trước Quốc hội.
- Một số hồi ký của các đại biểu Quốc hội về giai đoạn lịch sử này.
- Các công trình nghiên cứu khoa học, các bài báo, sách, các chuyên luận
của các nhà nghiên cứu viết về Quốc hội khoá I (1946-1960), về tư tưởng Hồ Chí
Minh về Nhà nước và pháp luật.
- Một số tác phẩm lịch sử viết về giai đoạn lịch sử này.
4
Tài liệu chưa xuất bản
Các tài liệu về hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Quốc hội, với Quốc
hội và BTT Quốc hội, hoạt động của Quốc hội khoá I hiện đang được lưu tại Văn
phòng Quốc hội, Văn phòng Trung ương Đảng, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Trung tâm
lưu trữ Quốc gia III - Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước.
6. Đóng góp của luận văn
Trên cơ sở tập hợp, hệ thống hoá, bổ sung, xử lý nguồn tư liệu một cách
khoa học, luận văn có những đóng góp sau:
- Thông qua việc trình bày một cách rõ nét quan điểm và sự phát triển tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, quá
trình hoạt động và việc cụ thể hoá tư tưởng của Người trong việc xây dựng cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất (1946 - 1960), luận văn đã làm rõ vai trò và cống hiến
của Chủ tịch Hồ Chí Minh với Quốc hội khoá I.
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm 3
chương 7 tiết.
Chương 1: Hồ Chí Minh với sự ra đời của Quốc hội khoá I
Chương 2: Hồ Chí Minh với việc phát huy vai trò của Quốc hội - cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất trong kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954)
Chương 3: Hồ Chí Minh với việc xây dựng cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất thời kỳ 1955 - 1960
5
Chương 1
Hồ Chí Minh với sự ra đời của Quốc hội khoá I
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền lực của nhân dân
1.1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền lực của nhân dân
Đến giữa thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa đế quốc thực dân đã xâm
lược, áp bức, thôn tính các dân tộc vừa và nhỏ trên những vùng rộng lớn của thế
giới. Năm 1858, Việt Nam bị đế quốc Pháp xâm lược và trở thành thuộc địa của
chúng. Nước Việt Nam bị mất quyền độc lập, nhân dân Việt Nam bị mất quyền tự do.
Với thủ đoạn “chia để trị”, thực dân Pháp đã chia Việt Nam ra thành ba kỳ,
cùng với Lào và Campuchia lập thành Liên bang Đông Dương (Union
indochinoise), do toàn quyền Đông Dương (Gouverneur général de l’ Indochine)
đứng đầu. Với ba chế độ cai trị khác nhau, trong đó Nam kỳ là xứ thuộc địa, Bắc
kỳ là bán bảo hộ và Trung kỳ là xứ bảo hộ, thực dân Pháp đã thi hành chính sách
cai trị hà khắc, chăm lo lập nhà tù nhiều hơn trường học, thực hiện chính sách ngu
dân, đẩy người dân Việt Nam đắm chìm trong đêm trường nô lệ.
Song song với việc củng cố chính quyền liên bang, thực dân Pháp tiến hành
củng cố chính quyền các xứ. Nam Kỳ là đất thuộc địa không có quan hệ phụ thuộc
vào Nam triều. Hội đồng thuộc địa Nam Kỳ là cơ quan tư vấn, có thể bàn về thuế
má, thu chi song “tuyệt đối không được đề cập đến vấn đề chính trị”. Trung Kỳ là
xứ bảo hộ, vẫn duy trì triều đình nhà Nguyễn, nhưng vua An Nam không có thực
quyền. Quyền hành thực sự nằm trong tay Khâm sứ (Résident Supérieur). Mọi vấn
đề liên quan đến cai trị, tổ chức, tuyển dụng, thăng giáng các cấp quan lại của Nam
triều đều do Khâm sứ quyết định. ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, từ cấp tỉnh trở xuống
còn có các quan lại kỳ hào người Việt Nam.
Cùng với bộ máy chính trị, thực dân Pháp đã xây dựng bộ máy quân sự,
cảnh sát, toà án, nhà tù để kìm kẹp, đàn áp nhân dân. Dưới ách thống trị của thực
dân Pháp, cuộc sống của nhân dân Việt Nam vô cùng cực khổ. Không chỉ bóc lột
6
nhân dân ta đến tận xương tuỷ, thực dân Pháp còn "thi hành chính sách ngu dân",
"tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào" [130;1]. Bất công đã
diễn ra ngay trong nền “công lý” của thực dân Pháp. ở Đông Dương có hai thứ
công lý: một thứ cho người Pháp, một thứ cho người bản xứ. Người Pháp thì được
xử như ở Pháp, còn người Việt Nam thì không có hội đồng bồi thẩm, cũng không
có luật sư người Việt.
Trong gần một thế kỷ thống trị ở Đông Dương nói chung và ở Việt Nam nói
riêng, thực dân Pháp đã hai lần dâng nước ta cho Nhật (đó là mùa thu năm 1940 và
ngày 9/3/1945). Không chịu khuất phục, nhân dân ta liên tục nổi dậy, song thực
dân Pháp đã thẳng tay chém giết những người yêu nước, "tắm các cuộc khởi nghĩa
của ta trong những bể máu" [130; 2]. Trước sự khủng hoảng đường lối cứu nước,
“sớm hiểu biết và rất đau xót trước cảnh thống khổ của đồng bào” [127; 477], tháng
6/1911 Hồ Chí Minh (với tên gọi là Nguyễn Tất Thành) đã rời Tổ quốc, bôn ba tìm
đường cứu nước.
Hồ Chí Minh đã chọn con đường sang phương Tây để tìm hiểu xem những gì
ẩn giấu đằng sau những từ: Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Muốn “xem nước Pháp và
các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào... sẽ trở về giúp đồng bào
chúng ta” [173; 13], Hồ Chí Minh đã theo hành trình của tàu Đô đốc Latútxơ
Trêvinlơ (Amiral Latouche Tréville) đến nước Pháp. Không dừng lại ở nước Pháp,
hành trình tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh đã đi qua châu Phi, châu Mỹ,
nước Anh, và nhiều quốc gia khác.
Khi Hồ Chí Minh đang bôn ba tìm đường cứu nước, tìm kiếm con đường để
thực hiện khát vọng “độc lập cho Tổ quốc tôi, tự do cho đồng bào tôi”, thì ở các
nước tư bản như Pháp, Mỹ và một số quốc gia khác, tổ chức bộ máy quyền lực nhà
nước và vấn đề quyền con người đã đạt được những thành tựu lớn. Đó là:
- Về mặt nhà nước: Thực hiện xoá bỏ chế độ một cá nhân (vua) chuyên chế,
nắm trong tay cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp và thay vào đó là việc tổ
7
chức bộ máy nhà nước hoạt động theo thuyết phân chia và kiềm chế quyền lực.
- Về mặt pháp luật: Đề cao vị trí, vai trò của pháp luật trong hoạt động của
nhà nước và xã hội, xác lập nguyên tắc nhà nước pháp quyền.
- Về chế độ cai trị: Xác lập chế độ cai trị bằng hiến pháp và các đạo luật được
ban hành.
- Về đời sống của cá nhân: Đề cao quyền tự do của con người như quyền
được sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc; quan hệ giữa nhà nước và
công dân dựa trên cơ sở pháp luật.
Quyền con người đã được ghi trong Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ năm 1776 và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng
Pháp năm 1791. Theo tinh thần của hai văn bản pháp lý nêu trên, Tuyên ngôn độc
lập của Việt Nam do Hồ Chí Minh tuyên bố ngày 2/9/1945 nêu rõ: “Tất cả mọi
người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm
phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền
mưu cầu hạnh phúc” [9] và: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và
phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” [9].
Sự tuyên bố về các quyền con người trong cách mạng tư sản và trong xã hội
TBCN không chỉ dừng lại ở phạm vi các tuyên ngôn, mà còn được quy định trong
đạo luật có hiệu lực pháp lý tối cao - đó là hiến pháp, song từ các văn bản pháp lý
đến thực tế vẫn còn khoảng cách. Nước Pháp và nước Mỹ đều là nơi tiến hành tổ
chức nhà nước theo mô hình chế độ cộng hoà. Dù là chế độ cộng hoà, nhưng quyền
tự do dân chủ không được áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi người. Quyền tự do
dân chủ chỉ giành cho những người hữu sản, không phải giành cho mọi người dân
trong xã hội. Hiến pháp 1791 ở Pháp (sau khi Quốc hội Pháp thông qua bản Tuyên
ngôn nhân quyền và dân quyền) quy định về chế độ bầu cử đã chia công dân thành
hai loại tích cực và tiêu cực theo giá trị tài sản mà họ có. "Những người không có
tài sản, quần chúng lao động bị coi là công dân tiêu cực. Quyền bầu cử chỉ giành
8
cho các công dân tích cực là những người từ 25 tuổi trở nên, không làm thuê cho
ai, có tên trong danh sách vệ quốc quân và phải nộp một khoản thuế trực thu ít nhất
là ba ngày lương" [186; 218]. Những điều kiện do Hiến pháp tư sản quy định đã
làm cho hàng triệu người lao động không có quyền bầu cử. Vì vậy, "cuộc bầu cử
Quốc hội năm 1791, ở Pháp chỉ có 4 triệu 28 vạn người là công dân tích cực trên
tổng số 26 triệu dân" [186; 219] được tham gia.
Trong lịch sử, vấn đề tổ chức quyền lực nhà nước luôn là vấn đề phức tạp.
Thời kỳ phong kiến, toàn bộ quyền lực đều thuộc về nhà vua. Nhà vua vừa là
người ban hành ra pháp luật, lại vừa là vị pháp quan tối cao trong một nhà nước.
Phê phán cơ chế tổ chức quyền lực kiểu này, C. Mác cho rằng: “Quyền lực của vua
là sự tuỳ tiện” [26; 335]. Khi tiến hành cách mạng, giai cấp tư sản đã nêu khẩu hiệu
Tự do, Bình đẳng, Bác ái để lật đổ chế độ phong kiến, đồng thời thiết lập nên thiết
chế quyền lực mới, trong đó nghị viện được lập ra để thực hiện quyền lập pháp
thay cho việc ban hành các chiếu chỉ của nhà vua. Giai cấp tư sản cũng đã khẳng
định địa vị pháp lý của người dân là chủ thể của quyền lực, nhưng khi cách mạng
thắng lợi thì toàn bộ quyền lực nhà nước đều rơi vào một số ít người, đó là giai cấp
tư sản.
Là người từng được trực tiếp chứng kiến, tìm hiểu đời sống chính trị - xã hội
ở các nước tư bản, đặc biệt là Pháp và Mỹ, Hồ Chí Minh đã rút ra những nhận xét
về bản chất của các nhà nước tư sản. Đó là, nền cộng hoà đã được thành lập ở Pháp
và Mỹ, nhưng tại các quốc gia đó dân chúng, nhất là công nông vẫn phải chịu cực
khổ. Vì đó là nền cộng hoà tư sản, là nơi quyền lực nhà nước không thuộc về nhân
dân, mà nằm trong tay một số ít người – giai cấp tư sản. Song cũng từ việc nghiên
cứu tổ chức bộ máy nhà nước tư sản, Hồ Chí Minh đã nhận thức được tầm quan
trọng của việc điều hành và quản lý nhà nước bằng pháp luật. Tuy nhiên, luật pháp
là một vũ khí của giai cấp thống trị dùng để cai trị giai cấp bị thống trị, cho nên
luật pháp của giai cấp tư sản đẻ ra từ quyền lực, từ kẻ mạnh, từ một số ít người nên
9
sẽ không thể có lợi cho số đông.
Từ đó, Hồ Chí Minh mong muốn, sau khi Việt Nam giành được độc lập, sẽ
xây dựng bộ máy nhà nước, mà trong đó pháp luật là công cụ để bảo vệ quyền lợi
và nghĩa vụ của nhân dân. Một trong số những mục tiêu mà Hồ Chí Minh quan tâm
thường xuyên là tổ chức quyền lực nhà nước như thế nào để thực thi được quyền
lực của nhân dân. Vì thế, trong từng hoàn cảnh cụ thể Người đã nêu quan điểm và
tiến hành các biện pháp đấu tranh thích hợp để hướng đến mục tiêu đó.
Năm 1919, Hồ Chí Minh đã thay mặt Hội người Việt Nam yêu nước tại
Pháp gửi đến Hội nghị Vécxay (Versailles) bản Yêu sách 8 điểm của nhân dân
Annam, đòi chính quyền thực dân Pháp phải thực hiện chế độ cai trị tại thuộc địa
bằng đạo luật thay cho chế độ cai trị bằng sắc lệnh. Đồng thời, Người cũng đòi
phải có đoàn đại biểu thường trực của người bản xứ, do người bản xứ bầu ra tại
Nghị viện Pháp. Đó là tư tưởng về "thần linh pháp quyền" đầu tiên của Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Cũng từ yêu cầu đó, năm 1922, trong Việt Nam yêu cầu ca, điểm 7
và điểm 8 của Yêu sách 8 điểm được Hồ Chí Minh thể hiện như sau:
“Bẩy xin Hiến pháp ban hành
Trăm đều phải có thần linh pháp quyền
Tám xin được cử Nghị viên
Qua Tây thay mặt giữ quyền thổ dân” [129; 438].
Sau này, trên báo Nhân đạo (L’ Humanite) - cơ quan ngôn luận của Đảng
Cộng sản Pháp, Hồ Chí Minh đã một lần nữa nêu rõ quan điểm của Người trong
bản Yêu sách của nhân dân Annam như sau: “Báo L’Humanité ngày 18/6 mới đây
đã đăng văn bản thỉnh cầu của những người Annam gửi Hội nghị Hoà bình đòi ân
xá cho tất cả các tù chính trị người bản xứ, đòi cải cách pháp chế ở Đông Dương
bằng ban hành những đảm bảo cho người bản xứ cũng như cho người Âu, đòi tự
do cho báo chí, tự do hội họp và lập hội, tự do dạy học, đòi thay đổi chế độ sắc
lệnh bằng chế độ đạo luật; và sau cùng đòi có một đoàn đại biểu thường trực của
10
dân bản xứ được bầu vào Nghị viện Pháp. Chúng tôi chỉ có thể coi các yêu sách rất
đúng đắn đó cũng là của chính mình, trong thời đại mà ý muốn của nhân dân nắm
quyền tự quyết” [127; 6].
Như vậy, ngay khi thực hiện những biện pháp đấu tranh chính trị đầu tiên
trên lãnh địa của chủ nghĩa thực dân Pháp, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền lực của
nhân dân đã sớm được thể hiện.
Năm 1926, trong Yêu sách gửi Hội vạn quốc, Hồ Chí Minh lại tiếp tục đề
cập vấn đề quyền tự quyết của nhân dân. Trong bản yêu cầu này, Hồ Chí Minh và
những người Việt Nam yêu nước khác viết: “Chúng tôi yêu sách với Vạn quốc
quyền độc lập hoàn toàn, tức khắc của dân tộc Việt Nam” và nếu được độc lập
ngay thì nước chúng tôi sẽ “xếp đặt một nền hiến pháp theo những lý tưởng dân
quyền” [105; 341]. Lý tưởng dân quyền mà Hồ Chí Minh nêu ra, đó là sự tiếp nhận
có chọn lọc những thành tựu mà nhân loại đã đạt được trong cuộc đấu tranh chống
chế độ phong kiến quân chủ chuyên chế. Hồ Chí Minh đã tìm thấy tư tưởng dân
quyền qua những khảo nghiệm thực tế và tư tưởng đó đã từng được thể hiện rõ
trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776, Tuyên ngôn nhân quyền và dân
quyền của nước Pháp năm 1791.
Nghiên cứu về: “Hình thức tổ chức quản lý nhà nước mà trong đó tất cả các
cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất hoặc là được bầu ra hoặc là được thành lập
bởi các cơ quan đại diện toàn quốc (nghị viện), còn công dân thì có các quyền cá
nhân và quyền chính trị” [163; 79] và nền cộng hoà ở Pháp và ở Mỹ là “ hình thức
nhà nước đặc biệt để thông qua đó giai cấp tư sản thực hiện sự thống trị của mình”
[163; 79], Hồ Chí Minh đã thấy được tính ưu việt và những hạn chế của mô hình tổ
chức nhà nước theo nguyên tắc tam quyền phân lập (gồm lập pháp, hành pháp, tư
pháp). Nhận thức được tầm quan trọng của nghị viện - quốc hội trong đời sống
chính trị của một quốc gia, một nội dung mới đã hình thành trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, đó là thành lập nghị viện nhân dân (quốc hội). Đây là cơ quan đại diện để
11
nhân dân thực hiện quyền lực của mình và quyền lực đó chỉ có thể được bảo đảm
bằng hiến pháp, pháp luật.
Tuy nhiên, sự bất bình đẳng về quyền lợi và hưởng thụ đã không chỉ xảy ra ở
thuộc địa, mà ngay tại chính quốc, nơi mà những tư tưởng chính trị – pháp lý tư sản
đạt được những thành tựu có ý nghĩa lịch sử quan trọng thì bất công xã hội vẫn
còn. Quyền con người, quyền tự do dân chủ chỉ là đặc quyền của giai cấp tư sản,
còn nhân dân lao động vẫn bị hạn chế về nhiều mặt.
Trong hành trình tìm đường cứu nước, tìm hiểu về các thể chế dân chủ của
các nước cộng hoà trên thế giới, Hồ Chí Minh đã ngày càng nhận thức một cách
sâu sắc rằng: không thể có quyền tự do dân chủ cho nhân dân nếu dân tộc vẫn chưa
giành được độc lập. Người mong muốn “thủ tiêu bất bình đẳng về hưởng thụ”
trong xã hội để thực hiện “hạnh phúc không phải cho một số đông mà cho tất cả
mọi người” [127; 35].Vì vậy, để có sự ra đời bộ máy nhà nước tổ chức và điều
hành xã hội bằng pháp luật, là nơi mọi quyền hạn, công lý “đều ở nơi dân” thì phải
làm cách mạng. Cuộc cách mạng đó không thể đi theo con đường của các vị cách
mạng tiền bối ở Việt Nam, đồng thời cũng không thể đi theo con đường cách mạng
tư sản. Sau khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và
thuộc địa của Lênin đăng trên báo L’Humanite (ngày 16 – 17/7/1920), với niềm tin
về chủ trương của Lênin và Quốc tế thứ III sẽ làm cho các thuộc địa, Hồ Chí Minh
đã quyết định đưa cách mạng Việt Nam đi theo con đường của cách mạng vô sản
đã trở thành hiện thực ở nước Nga Xôviết.
Sau này, Hồ Chí Minh được đến sống, học tập và làm việc tại nước Nga
XHCN của Lênin vĩ đại. Tìm hiểu, nghiên cứu về nước Nga Xôviết, Người thấy
cách mạng XHCN tháng Mười Nga đã thiết lập thiết chế mới, bảo đảm thực hiện
quyền lực của nhân dân. Cộng hoà Xôviết là mô hình tổ chức Nhà nước đầu tiên
của giai cấp công nhân. Khác với chế độ cộng hoà tư sản dựa trên nguyên tắc phân
quyền, các Xôviết không áp dụng nguyên tắc phân quyền mà thực hiện tập quyền.
12
Tất cả quyền lực Nhà nước tập trung vào tay nhân dân thông qua các Xôviết của
công - nông - binh do công nhân, nông dân và binh sĩ bầu ra. Xôviết tối cao và
Xôviết địa phương có quyền thành lập ra các uỷ ban chấp hành. Uỷ ban chấp hành
chỉ là các cơ quan thừa hành của Xô viết, phải chịu trách nhiệm trước Xôviết.
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 với sự ra đời của các Xôviết công nông - binh đã khẳng định sức mạnh và vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch
sử. Đồng thời cũng chứng minh trong thực tiễn, khả năng nhân dân có thể tham gia
rộng rãi vào việc quản lý nhà nước, sử dụng quyền lực Nhà nước của mình. Nhân
dân là chủ thể của cách mạng, của quyền lực chính trị chân chính. Phải nhấn mạnh
rằng, trong quá trình khảo nghiệm và lựa chọn con đường cứu nước, tìm kiếm một
mô hình nhà nước phù hợp với điều kiện thực tế ở Việt Nam, thì việc tổ chức, quản
lý, điều hành xã hội của Nhà nước Xôviết, thực tiễn đời sống chính trị - xã hội trên
đất nước của cách mạng Tháng Mười đã hấp dẫn Hồ Chí Minh.
Bài học kinh nghiệm của cách mạng Tháng Mười Nga và cách thức tổ chức
mô hình nhà nước Xôviết, cùng những kinh nghiệm hoạt động cách mạng trong
thực tiễn đã là cơ sở để Hồ Chí Minh quyết định trở về gần Tổ quốc, xúc tiến thực
hiện công cuộc “giải phóng dân tộc”, xây dựng một nhà nước thuộc về dân chúng
số nhiều. Sự lựa chọn và quyết định nêu trên đã được Hồ Chí Minh thể hiện một
cách sinh động qua các tác phẩm lý luận và những hoạt động thực tiễn của Người.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền lực của nhân dân từng bước trở
thành hiện thực
Trong tác phẩm Đường Kách mệnh xuất bản năm 1927 tại Quảng Châu, tư
tưởng quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân đã được Hồ Chí Minh đưa ra qua
những phác họa về mô hình nhà nước và pháp luật kiểu mới ở Việt Nam. Mặc dù
đồng ý với tư tưởng dân chủ tiến bộ mà cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp đã
tuyên bố như trong Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Mỹ và Tuyên ngôn nhân
quyền và dân quyền của Pháp năm 1791, nhưng Hồ Chí Minh không tán thành
13
đường lối mà các chính quyền tư sản đã tiến hành sau thắng lợi của hai cuộc cách
mạng. Với Người, “cách mệnh Mỹ là cách mệnh tư bản, mà cách mệnh tư bản là
chưa phải cách mệnh đến nơi” vì rằng “cách mệnh thành công đã hơn 150 năm nay
nhưng công nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính cách mệnh lần thứ hai” [128;
270]. Còn cách mạng Pháp thì “tư bản nó dùng chữ Tự do, Bình đẳng, Đồng bào
để lừa dân, xúi dân đánh đổ phong kiến. Khi dân đánh đổ phong kiến rồi, thì nó lại
thay phong kiến mà áp bức dân” [128; 274].
Vì thế, đúc rút từ kinh nghiệm của cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp, Hồ
Chí Minh chỉ cho những người cách mạng Việt Nam thấy rõ là phải làm cách mạng
một cách triệt để. Người viết: “Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh thì nên làm cho
đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều,
chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng
mới được hạnh phúc” [128; 274]
Để tiến hành một cuộc cách mạng mà khi chính quyền được thành lập là của
dân chúng số nhiều, Hồ Chí Minh đã hướng về một cuộc cách mệnh “đến nơi”,
nghĩa là một cuộc cách mệnh mà sau đó sẽ lập ra một chính quyền thực sự của dân,
không áp bức dân, không bóc lột dân. Người đã tìm thấy cuộc cách mệnh đó khi đã
đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đó là Cách mạng Tháng Mười Nga, một cuộc cách
mạng triệt để, đem lại bình đẳng, tự do thực sự cho đông đảo quần chúng nhân dân.
Người viết: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và
thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình
đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe
khoang bên An nam” [128; 280].
Nhận thức này đã đưa Hồ Chí Minh đến với định hướng cơ bản về con đường
giải phóng dân tộc Việt Nam và thiết lập một thể chế quyền lực thuộc về nhân dân
mà mục tiêu trước hết là “độc lập cho Tổ quốc, tự do cho đồng bào tôi”. Từ định
hướng chính trị cơ bản đó, Hồ Chí Minh đã từng bước đề ra chủ trương đấu tranh,
14
để tạo dựng một thiết chế quyền lực của dân, do dân, vì dân. Đầu năm 1930, Chánh
cương, Sách lược vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh soạn thảo
và được thông qua ở Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản tại Cửu Long Hương Cảng, đã nêu ra nội dung: “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập” và
“dựng ra chính phủ công nông binh” [129; 1, 2].
Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc rằng, “chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn”
của các nước thuộc địa phương Đông trong đó có Đông Dương. Bởi vậy, theo
Người dù là địa chủ hay nông dân, người buôn hay cu li thì họ đều là người nô lệ
mất nước. Họ đều có ý thức rõ rệt về độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia, kiên
cường bất khuất và thông minh sáng tạo. Truyền thống yêu nước, đoàn kết thống
nhất và tinh thần dân tộc của những người dân mất nước đã hun đúc và cổ vũ tinh
thần đấu tranh giải phóng dân tộc.
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ và lan rộng đến Thái Bình Dương, làm
làm thay đổi căn bản diễn trình lịch sử thế giới nói chung và vận mệnh của dân tộc
Việt Nam nói riêng. Từ sau khi Pháp mở cửa cho quân Nhật vào chiếm Đông
Dương, thì mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc phát xít Pháp - Nhật đã
diễn ra vô cùng gay gắt. Trong nước, nhân dân chán ghét cuộc đời nô lệ, mong
muốn độc lập tự do và nhu cầu giải phóng dân tộc đã trở nên cấp bách hơn bao giờ
hết.
Trước những chuyển biến mau lẹ của tình hình thế giới và trong nước, từ cuối
năm 1939, Đảng Cộng sản Đông Dương đã kịp thời nhận định tình hình và điều
chỉnh chiến lược cách mạng, hướng toàn bộ cuộc vận động cách mạng vào mục tiêu
giải phóng dân tộc. Vào khoảng thời gian đó, lãnh tụ Nguyễn ái Quốc cũng đã từ
Liên Xô về Trung Quốc, đang tìm cách bắt liên lạc với Trung ương Đảng trong
nước. Ngày 28/1/1941, Hồ Chí Minh đã về nước sau gần 30 năm bôn ba, hoạt động
ở nước ngoài. Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và Việt Nam, Hội nghị lần
thứ tám của BCHTƯ Đảng do Hồ Chí Minh chủ trì họp ở Pác Bó - Cao Bằng (10 -
15
19/5/1941) đã quyết định phải thay đổi chiến lược cách mạng cho phù hợp với yêu
cầu khách quan của tình hình và nguyện vọng chung của quốc gia dân tộc. Nghị
quyết Hội nghị Trung ương tám xác định: Cách mạng ở Đông Dương hiện tại
không phải là cuộc cách mạng tư sản dân quyền mà là “một cuộc cách mạng dân
tộc giải phóng” [68; 119]. Giải phóng dân tộc là nhiệm vụ chung của tất cả các giai
cấp, các đảng phái, tôn giáo. Lúc này không phân biệt công nhân, nông dân, phú
nông, địa chủ, tư sản bản xứ, ai có lòng yêu nước, thương nòi phải thống nhất vào
một mặt trận, đem toàn lực để giành quyền độc lập, tự do cho xứ sở. Tất cả các lực
lượng dân tộc phải được tổ chức thành các đoàn thể cứu quốc, tập hợp trong một
mặt trận “có tính chất dân tộc hơn, có một mãnh lực dễ hiệu triệu hơn và nhất là có
thể thực hiện được trong tình thế hiện tại” và “mặt trận hiệu triệu của Đảng ta hiện
nay ở Việt Nam là Việt Nam độc lập đồng minh, hay nói tắt là Việt Minh” [68;
122].
Nghị quyết Trung ương lần thứ tám khẳng định:
Sau lúc đánh đuổi được Pháp – Nhật sẽ thành lập một nước Việt Nam dân
chủ mới theo tinh thần tân dân chủ. Chính quyền cách mạng của nước dân chủ ấy
không phải thuộc quyền riêng của giai cấp nào mà của chung của toàn thể dân tộc
(T.G. nhấn mạnh), chỉ trừ có bọn tay sai của đế quốc, những bọn thù, không được
giữ chính quyền, còn ai là người dân sống trên dải đất Việt Nam thảy đều được
một phần tham gia giữ chính quyền, phải có một phần nhiệm vụ giữ lấy và bảo vệ
chính quyền [68; 114].
Bản chương trình Việt Minh - Văn kiện kèm theo Nghị quyết Hội nghị
Trung ương lần thứ tám, chủ trương liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân dân không
phân biệt tôn giáo, đảng phái, xu hướng chính trị nào, giai cấp nào, đoàn kết chiến
đấu để đánh đuổi Pháp - Nhật giành chính quyền độc lập cho xứ sở. Đồng thời,
sau khi đánh đuổi đế quốc Pháp - Nhật, “sẽ thành lập một chính phủ nhân dân của
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà lấy lá cờ đỏ sao vàng năm cánh làm lá cờ toàn
16
quốc. Chính phủ ấy do Quốc dân Đại hội cử ra (T.G. nhấn mạnh) [68; 150]. Hội
nghị cũng đã vạch ra phương thức tiến hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền và
kết luận: “Cuộc cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa
vũ trang” [68; 129].
Sự thay đổi chiến lược cách mạng đúng đắn, kịp thời và sáng tạo của Hồ Chí
Minh và Trung ương Đảng ở Hội nghị Trung ương lần thứ tám đã đáp ứng được
khát vọng độc lập, tự do của toàn dân tộc, có ý nghĩa quyết định đến thành công
của công cuộc vận động giải phóng dân tộc từ năm 1941 đến năm 1945. Tiếp đó,
ngày 6/6/1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư gửi đồng bào toàn quốc, Kính
cáo đồng bào phải đoàn kết lại để “đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu
giống nòi ra khỏi nước sôi lửa bỏng” và kiến lập chính thể “cộng hoà dân chủ Việt
Nam”.
Tiếp đó, ngày 15/8/1942, Tổng bộ Việt Minh sau khi đưa ra vấn đề vũ trang
khởi nghĩa đã bàn đến vấn đề chính quyền cách mạng như sau:
a. Lúc vũ trang khởi nghĩa lấy được một địa phương phải thành lập ngay
Chính phủ nhân dân ở địa phương ấy. Trừ bọn Việt gian và bọn phản động
ra, toàn dân nam nữ trong địa phương từ 18 trở lên, đều có quyền tuyển cử
và ứng cử để bầu chính phủ nhân dân của địa phương.
b. Lúc vũ trang khởi nghĩa, lấy được một địa phương khá to, phải thành lập
Chính phủ nhân dân lâm thời toàn quốc.
c. Lúc vũ trang khởi nghĩa, lấy được toàn quốc thì thành lập Chính phủ
nhân dân chính thức toàn quốc do toàn dân bầu ra [68; 484].
Xác định rõ phát xít Nhật và thực dân Pháp là kẻ thù của cả dân tộc Đông
Dương, Hồ Chí Minh và những người cộng sản Việt Nam đã có những thay đổi
quan trọng về cách thức tổ chức bộ máy nhà nước khi cách mạng thành công. Mô
hình nhà nước công nông mà Xôviết Nghệ Tĩnh là phác thảo đầu tiên về sự thiết
lập, củng cố và xây dựng chính quyền cách mạng đã để lại những kinh nghiệm
17
- Xem thêm -