Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hình tượng nhân vật quasimodo trong tiểu thuyết nhà thờ đức bà pari......

Tài liệu Hình tượng nhân vật quasimodo trong tiểu thuyết nhà thờ đức bà pari...

.PDF
66
2519
86

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC TRẦN THỊ KIM CÚC HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT QUASIMODO TRONG TIỂU THUYẾT NHÀ THỜ ĐỨC BÀ PARIS CỦA VICTO HUGO KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƠN LA, NĂM 2014 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC TRẦN THỊ KIM CÚC HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT QUASIMODO TRONG TIỂU THUYẾT NHÀ THỜ ĐỨC BÀ PARIS CỦA VICTO HUGO Chuyên ngành: Văn học nƣớc ngoài KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Ngƣời hƣớng dẫn: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Thúy SƠN LA, NĂM 2014 LỜI CẢM ƠN Em xin chân thành cảm ơn Phòng Đào tạo, các thày cô trong Khoa Ngữ Văn (đặc biệt là các thày cô trong tổ Lí luận văn học - Văn học nước ngoài) đã tạo điều kiện ủng hộ và giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu khoá luận. Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo, Th.S Nguyễn Thị Ngọc Thuý đã tận tình giúp đỡ, chỉ bảo và động viên em trong quá trình thực hiện khoá luận tốt nghiệp. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới tập thể lớp K51 Đại học sư phạm Ngữ văn, các cán bộ ở bộ phận thư viện Trường Đại học Tây Bắc đã giúp đỡ em trong quá trình sưu tầm tài liệu để hoàn thành khoá luận tốt nghiệp. Em xin chân thành cảm ơn! Sơn La, tháng 5 năm 2014 Sinh viên Trần Thị Kim Cúc MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................. 1 2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................ 3 3. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 6 4. Đối tượng, phạm vi, nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................... 7 5. Đóng góp mới của khóa luận .......................................................................... 7 6. Cấu trúc của khóa luận ................................................................................... 7 CHƢƠNG 1. GIỚI THUYẾT CHUNG .......................................................... 8 1.1. Nhân vật văn học ......................................................................................... 8 1.1.1. Khái niệm nhân vật văn học ..................................................................... 8 1.1.2. Vai trò, vị trí của nhân vật văn học ........................................................... 8 1.2. Nhân vật của chủ nghĩa lãng mạn .............................................................. 10 1.2.1. Chủ nghĩa lãng mạn ............................................................................... 10 1.2.2. Nhân vật của chủ nghĩa lãng mạn .......................................................... 12 1.3. Tác giả Victo Hugo .................................................................................. 13 1.3.1. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác .............................................................. 13 1.3.2. Quan niệm nghệ thuật về thế giới con người của Victo Hugo ................. 14 1.3.3. Những đóng góp của Victo Hugo đối với chủ nghĩa lãng mạn văn học Pháp ................................................................................................................. 16 1.4. Tác phẩm Nhà thờ Đức bà Paris ............................................................... 17 CHƢƠNG 2. HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT QUASIMODO TRONG TIỂU THUYẾT NHÀ THỜ ĐỨC BÀ PARIS CỦA VICTO HUGO ...................... 20 2.1. Hình hài “bất thành nhân dạng” ............................................................... 20 2.2. Công cụ nô dịch của tôn giáo..................................................................... 23 2.3. Sự thức tỉnh - hiện thân cho công lí nhân dân ............................................ 25 2.4. Một trái tim, một tâm hồn cao thượng ....................................................... 29 CHƢƠNG 3. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT QUASIMODO TRONG TIỂU THUYẾT NHÀ THỜ ĐỨC BÀ PARIS CỦA VICTO HUGO ............................................................................................... 39 3.1. Miêu tả ngoại hình ..................................................................................... 39 3.1.1. Miêu tả hình dáng................................................................................... 40 3.1.2. Miêu tả khuôn mặt .................................................................................. 41 3.2. Miêu tả tính cách ....................................................................................... 42 3.2.1. Qua hành động cử chỉ ............................................................................ 43 3.2.2. Qua ngôn ngữ ......................................................................................... 45 3.3. Tạo dựng không gian nghệ thuật độc đáo .................................................. 49 3.3.1. Khung cảnh Nhà thờ Đức bà Paris ......................................................... 49 3.3.2. Lễ hội Cacnavan..................................................................................... 52 3.4. Bút pháp lãng mạn ..................................................................................... 53 PHẦN KẾT LUẬN ......................................................................................... 59 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Thế kỷ XIX, thế kỷ đầy những biến cố của thế giới toàn cầu. Và nước Pháp được coi như nơi bắt đầu kỷ nguyên mới ấy của nhân loại, bởi cuộc cách mạng tư sản vĩ đại. Victo Hugo xứng đáng được coi như “đứa con thiên tài của thời đại”, là“hiện thân của chủ nghĩa lãng mạn”.Tác phẩm của ông là “tiếng vọng âm vang của thời đại” [10, 473]. Cho tới nay, ông vẫn là nhà văn của những tình cảm phổ biến nhất, những khát vọng bình dị và sâu xa nhất của con người và được coi là “nhà tiên tri của hòa bình trên toàn thế giới” [23, 10]. V. Hugo xuất hiện như một ngôi sao mọc sớm và lặn rất muộn ở chân trời của thế kỷ. Mãnh liệt và cường tráng, thiên tài ấy ngay từ đầu đã tự khẳng định mình như chủ soái của trường phái lãng mạn. Cho tới nửa sau của thế kỉ, dù trào lưu lãng mạn đã qua thời vàng son của nó, thì bản thân Victo Hugo vẫn làm mờ nhạt tài năng của nhiều “chủ nghĩa” đang nở ra và tàn đi rất mau chóng ở cuối thế kỉ, đến nỗi họ phải than rằng“cây sồi già xanh ngắt cho đến lúc chết ấy đã làm cớm cả một vùng bao quanh” [10, 475]. Bước vào văn đàn lúc 17 tuổi, với cuộc đời kéo dài trong hơn 80 năm đầy ắp những biến cố sôi động, Victo Hugo đã có mãnh lực thu hút áp đảo độc giả trên nhiều lĩnh vực khác nhau của văn chương nghệ thuật và một cường độ sáng tạo hiếm hoi trong lịch sử văn học xưa nay. Khác với Banzac, thiên tài Hugo bộc lộ và được chấp nhận rất sớm. Satobriang từng gọi ông là “cậu bé trác việt” [10, 474]. Vinh quang đã đến với Victo Hugo ngay từ thuở thiếu thời. Hai mươi tuổi, Hugo đã đạt được nhiều điều mà biết bao tài năng trẻ hồi ấy hằng khát vọng. Tuy chưa nổi tiếng như Vinhi, Lamactin, nhưng trong nhóm Nàng thơ Pháp, gồm nhiều nhà văn nghệ sĩ, Victo Hugo đã nổi lên như một nhân vật ấp ủ nhiều ý niệm mới mẻ về thi ca. Bằng một hệ thống các phương thức và phương tiện thể hiện cuộc sống bằng nghệ thuật, khám phá cuộc sống bằng hình tượng, ông đã cho ra đời hàng loạt tác phẩm văn chương kiệt xuất. Cùng một lúc, V. Hugo xuất hiện ở cả ba lĩnh vực: kịch, thơ, tiểu thuyết. Thành công của ông đã đem đến nhựa sống tươi tốt, ươm mầm cho tâm hồn bao thế hệ. Khảo sát các tác phẩm của ông ta thấy tràn đầy tinh thần nhân đạo, tình yêu thương thiết tha, bay bổng với cuộc sống. Chính điều đó khiến cho tư tưởng và nghệ thuật của Victo Hugo trở thành 1 những hạt ngọc sáng cho văn chương dân tộc ông và có những giá trị phổ biến cho văn chương nhân loại. Thời gian cứ thế trôi qua để bào mòn tất cả, nhưng những giá trị trong sáng tác của Victo Hugo dường như nằm ngoài quy luật nghiệt ngã đó, để bất tử trong tình yêu của bạn đọc khắp năm châu. Hơn một trăm năm, kể từ ngày mất của Hugo đã qua, đã có nhiều biến chuyển thời cuộc, số phận con người đã trở nên tốt đẹp hơn, nhưng những vấn đề mà nhà thơ, nhà soạn kịch, nhà tiểu thuyết người Pháp thế kỉ XIX này đưa ra trong những sáng tác của mình, đặc biệt trong Nhà thờ Đức bà Paris vẫn vẹn nguyên giá trị. Nhà thờ Đức bà Paris là một viên ngọc sáng ngời trong kho tàng văn học tiến bộ nhân loại. Phải chăng điều làm nên sức hấp dẫn kì lạ của cuốn tiểu thuyết này là sự đa dạng của những hình tượng nhân vật mà nhà văn xây dựng. Và trong số những nhân vật ấy, những viên ngọc ấy thì có lẽ Thằng gù nhà thờ Đức bà Paris là viên ngọc sáng ngời, trong suốt nhất của tác phẩm. Quasimodo là linh hồn của tác phẩm Nhà thờ Đức bà Paris, người đánh chuông nghèo hèn, khổ sở, mê muội nhưng một khi tâm hồn được tình yêu thức tỉnh thì lại có thể hi sinh tất cả cho hạnh phúc và cho người mình yêu. Tác giả Đặng Thị Hạnh trong cuốn Chuyên luận tiểu thuyết Hugo đã hết sức ca ngợi tâm hồn cùng tình yêu thần thánh của Quasimodo: “Đây là nhân vật trung tâm của tác phẩm, hình tượng nhân vật Quasimodo xuyên suốt toàn bộ cuốn tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Paris. Hầu hết, tất cả các biến cố, sự kiện với những nấc thang cao trào đỉnh điểm đều có sự góp mặt của Quasimodo. Hay nói cách khác, Quasimodo chính là nhân vật khởi đầu, đồng thời cũng là nhân vật viết nên kết thúc cuối cùng của cuốn tiểu thuyết, vai trò, vị trí của nhân vật này trong tác phẩm là vô cùng quan trọng, cần thiết” [15, 25]. Quasimodo là nhân vật khởi đầu cho một loạt hệ thống các hình tượng nhân vật trung tâm khác mà đặc trưng của nhân vật này là: xuất thân nghèo khổ, dung mạo xấu xí, tàn tật. Nhân vật này có sức khoẻ phi thường và đức hi sinh cao cả. Đây chính là nhân vật tiểu thuyết được tác giả Victo Hugo đặc biệt dành sức lực ngòi bút điêu luyện của mình để xây dựng. Qua đó, giúp tác giả truyền tải nội dung tư tưởng cũng như những đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm Nhà thờ Đức bà Paris. Nói tóm lại, vị trí của Quasimodo trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Paris là rất quan trọng. Quasimodo chính là một đại diện của con người thời trung cổ, là biểu tượng về sự hi sinh cao thượng của quần chúng trong một cuộc cánh mạng chống tôn giáo vĩ đại trong lịch sử nước Pháp. 2 Hơn nữa, nghiên cứu tác phẩm Nhà thờ Đức bà Paris, mà cụ thể ở đây là nghiên cứu hình tượng nhân vật Quasimodo, sẽ giúp ích rất nhiều cho chúng ta trong việc khám phá tài năng nghệ thuật của tác giả, khám phá vẻ đẹp của cuốn tiểu thuyết trên bình diện nội dung và nghệ thuật. Thông qua đó, tôi hi vọng sẽ làm nổi bật được quan niệm nghệ thuật về thế giới và con người cũng như tài năng nghệ thuật của nhà văn Victo Hugo. Trên cơ sở đó, thấy được tư tưởng cũng như thi pháp nghệ thuật của chủ nghĩa lãng mạn. Vì những lí do trên và tình yêu với tác phẩm, nhà văn và nhân vật, tôi đã lựa chọn đề tài:“Hình tượng nhân vật Quasimodo trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Paris của Victo Hugo” để nghiên cứu. Hi vọng sự thành công của đề tài sẽ là nguồn tư liệu tham khảo cho việc học tập, giảng dạy và nghiên cứu các tác phẩm khác của tác giả và trào lưu văn học lãng mạn. 2. Lịch sử vấn đề Với những thành tựu chói lọi trên văn đàn thế giới, Victo Hugo cũng như các tác phẩm của ông đã thu hút tâm trí của nhiều nhà phê bình nghiên cứu. Ở Việt Nam, Victo Hugo trở thành một hiện tượng được nghiên cứu khá rộng rãi và phổ biến. Bằng tấm lòng ngưỡng mộ chân thành đối với tác giả Victo Hugo cũng như tình yêu đối với văn chương Pháp, đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về tác giả này. Victo Hugo không chỉ được nghiên cứu trong Giáo trình văn học phương Tây (1997) (phần Victo Hugo, do Đặng Anh Đào viết), Victo Hugo và tác phẩm Những người khốn khổ trong Văn học nước ngoài do Lê Nguyên Cẩn viết (1998) với những nhận định của ông về phương diện nghệ thuật, đó là:“Các điểm dừng không - thời gian trong cuộc hành trình hướng thiện của Jean Valiean” [7, 37], mà còn được thể hiện qua các công trình mang tính chất chuyên luận như Victo Hugo của Đặng Thị Hạnh (1971, 1975, 1978); Victo Hugo của Phùng Văn Tửu (1978); Victo Hugo ở Việt Nam (công trình tập thể do Viện văn học chủ trì - 1985). Ở đây, các tác giả đã đi sâu tìm hiểu về tác giả Victo Hugo và khẳng định sự cần thiết của việc nghiên cứu về ông: “việc tiếp nhận văn học nước ngoài, đặc biệt là văn học Pháp, trong đó có Victo Hugo đã trở thành một nhu cầu cần thiết… những tri thức Việt Nam đã tiêu hoá tất cả những cái đó theo cách riêng của họ và đưa đến một dòng máu mới” [33, 252] ; hoặc giới thiệu dưới hình thức chân dung như Victo Hugo - Bóng tối và ánh sáng (Đặng Anh Đào), tác giả này đã có những đánh giá về Victo Hugo như sau:“ Victo Hugo là cây đại thụ của chủ nghĩa lãng mạn Pháp đã toả bóng gần khắp các thế kỉ trước” [9, 493]. Đặc biệt, trong số các công trình đã viết về 3 tác giả này phải kể đến cuốn chuyên luận Tiểu thuyết Hugo của tác giả Đặng Thị Hạnh (1987, 2002), một chuyên luận mang tầm vóc khái quát lớn về nhiều mặt và thực sự bổ ích cho những ai đang đặt chân vào con đường nghiên cứu tác giả này ở Việt Nam. Trong chuyên luận này, Đặng Thị Hạnh đã cho ta thấy được sức ảnh hưởng mạnh mẽ của V. Hugo đối với con người Việt Nam mọi thời đại, đặc biệt là tình cảm của giới văn nghệ sĩ đối với Hugo. Nhà thơ Tế Hanh đã tâm sự: “Gần đây, năm 1984, nhà xuất bản Văn học có đề nghị tôi cộng tác làm một tuyển tập thơ Hugo, xuất bản trong năm 1985 để kỉ niệm 100 năm ngày mất của nhà thơ. Tôi do dự vì thấy thơ của Hugo đồ sộ quá mà thời gian thì quá ít, nhưng suy nghĩ lại vì lòng quá yêu nhà đại thi hào, tôi lại nhận lời. Tôi phải tuyển chọn những bài thơ đã dịch sẵn và mời nhiều nhà thơ dịch tiếp.Thật là cảm động khi thấy hàng chục năm nay nhiều nhà thơ và nhà nghiên cứu văn học Việt Nam đã cùng nhau dịch thơ Hugo theo từng tập một” [15, 267]. Số lượng các bài nghiên cứu về tác gia này đặc biệt xuất hiện khá nhiều trong khoảng từ 1985 trở lại đây. Trước hết, một số lượng lớn các bài nghiên cứu từ các góc độ: tư tưởng chính trị xã hội, lý luận văn học - lý luận kịch; nhà thơ; nhà tiểu thuyết, Victo Hugo và người Việt Nam được tập hợp lại trong công trình Victo Hugo ở Việt Nam. Tiếp đến là Tạp chí Văn học số 6/2002 - NXB Giáo dục - số đặc biệt kỉ niệm 200 năm sinh Victo Hugo, với nhiều bài nghiên cứu cung cấp cho người đọc những cách nhìn mới về tác gia này. Đó là chưa kể đến một số bài nghiên cứu về ông trong các thời kỳ trước đây như. Tất cả các công trình nghiên cứu cùng các tạp chí văn học này đều thể hiện lòng cảm mến, khâm phục của nhân dân Việt Nam đối với tác giả Victo Hugo: “Hugo đã đến với những người đọc Việt Nam, đến tận cả những trường học miền núi xa xôi hẻo lánh. Các nhân vật của Hugo thân thuộc và gần gũi hết sức đối với họ. Điều kì diệu nào đã tạo nên được mối dây liên hệ vững chắc của V. Hugo với độc giả như vậy? Phải chăng là ở tinh thần nhân đạo? Hay ở bút pháp trữ tình toát ra từ mỗi trang tác phẩm của Hugo?Và phải chăng người đọc nhận được từ mỗi dòng chữ mà nhà văn gửi gắm ở đó toàn bộ tâm hồn, tư tưởng của mình những âm thanh đồng điệu? Chắc chắn là có tất cả những điều đó” [15, 268]. Với tư cách là một tác giả được ưa thích, Victo Hugo trở thành đề tài nghiên cứu của nhiều luận án, luận văn các cấp. Tiêu biểu là luận án của Bửu Nam về Thi pháp nhân vật trong tiểu thuyết của Victo Hugo, luận văn thạc sĩ của Nguyễn Văn Hạnh Victo Hugo ở Việt Nam (1998)... Hay trong cuốn Nghiên cứu về Victo Hugo của Jean Massin với nhan đề Năm Victo Hugo(1985) đã tổng kết:“Ông là nhà văn hơn ai hết bởi thiên tài mênh mông hiển nhiên của mình 4 đã khuất phục giới am hiểu văn chương (kể cả những nhà phê bình ác ý nhất), và đồng thời sánh mình ngang tầm với hàng triệu con người bình thường từng đến với tác phẩm của ông rất dễ dàng để rồi trái tim và trí tuệ họ khắc sâu hoài ấn tượng từ đó”. Tuy nhiên, đó chỉ là những khía cạnh riêng trong nghệ thuật, nó chưa có tính bao hàm được nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tác phẩm Nhà thờ Đức bà Paris của Victo Hugo. Đối với cuốn tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Paris, các tác giả nghiên cứu văn học cũng khá chú trọng trong việc tìm hiểu những đặc sắc về giá trị nội dung và nghệ thuật của nó. Tác giả Đặng Thị Hạnh trong chuyên luận Tiểu thuyết Hugo đã đi tìm những nét riêng trong sáng tác của Hugo. Trên cơ sở đó tác giả đưa ra những đánh giá khái quát về tác phẩm như :“Bắt đầu bằng tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Paris và thử tiến hành một sự phân tích đơn giản (có thể chỉ gọi là thống kê) theo chiều dọc của tác phẩm, căn cứ trên ba trục - kể chuyện - miêu tả và ngoại đề - thì chúng ta có thể rút ra một số nhận xét về đặc trưng tổ chức truyện kể cũng như đặc trưng đề tài và hình tượng trong tiểu thuyết của Hugo” [15, 26]. Như vậy, chuyên luận đã đi sâu nghiên cứu tìm hiểu về mặt thể loại và kết cấu của truyện. Ở bộ sách văn học phương Tây (3 tập) do nhóm tác giả Đặng Anh Đào Hoàng Nhân - Lương Duy Trang chủ biên đã nhấn mạnh giá trị lịch sử của cuốn tiểu thuyết này và ảnh hưởng của nó đối với văn chương thế giới:“Cho tới nay, dù trào lưu văn học lãng mạn đã qua, thời trung cổ của phương tây càng trở nên xa xôi hơn bao giờ hết đối với độc giả nhiều nước, nhưng“Nhà thờ Đức bà Paris” vẫn là một cuốn truyện được dịch và đọc nhiều trên thế giới với tất cả vẻ ngây thơ, tươi mát và tình yêu con người tràn ngập trong đó” [10, 497]. Trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Paris, Quasimodo là nhân vật trung tâm quan trọng nhất của tác phẩm. Hugo đã rất công phu trong việc xây dựng nên hình tượng nhân vật Quasimodo.Thông qua đó, Victo Hugo gửi gắm thông điệp về “triết lý tình thương” đến các thế hệ bạn đọc bằng một loạt các thủ pháp nghệ thuật đặc sắc như: tương phản, ẩn dụ, ngoa dụ, so sánh, miêu tả trực tiếp nội tâm nhân vật. Trong cuốn giáo trình Văn học phương Tây do Đặng Anh Đào - Hoàng Nhân - Lương Duy Trang chủ biên đã có đánh giá về nhân vật Quasimodo như sau: “Quasimodo cũng là một loại đom đóm yêu một vì tinh tú” [9, 496]. Giáo trình còn cho ta thấy mối tương đồng giữa nhân vật Quasimodo với nhân vật Trương Chi trong truyện cổ tích Trầu cau của Việt Nam:“Chúng ta thấy phảng phất bóng dáng của Trương Chi qua Quasimodo, và kết thúc câu chuyện, hình 5 ảnh mối tình mà cái chết cũng không thể chia rẽ - khi người ta muốn kéo bộ xương của Quasimodo ra khỏi bộ xương mà y ôm hôn, thì nó vụn ra thành bụi vừa gần gũi với Torixtang và Izo, vừa gần gũi với kết thúc của Trương Chi và Trầu cau” [10, 496]. Hay như trong cuốn Tiểu thuyết Hugo, tác giả Đặng Thị Hạnh cũng đã có lời đánh giá về nhân vật Quasimodo trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Paris như sau:“Hugo nhìn thấy ở phẩm chất bị che dấu của Quasimodo - một loại nửa người bản năng và man rợ” - một lòng bác ái phù hợp với kinh Phúc âm và ông đã chọn Quasimodo làm biểu tượng cho Nhà thờ Đức bà” [15, 37]. Hơn nữa Nhà thờ Đức bà Paris quả thực là kiệt tác của thể loại tiểu thuyết vào thế kỷ XV. Với những giá trị mà cuốn tiểu thuyết đã đem lại thì ảnh hưởng của nó đến văn đàn thi ca của nhân loại là không nhỏ. Ở nước ta Nhà thờ Đức bà Paris là một trong những tác phẩm được yêu thích. Song để nghiên cứu về hình tượng nhân vật Quasimodo thì đây là một đề tài còn tương đối khá mới mẻ. Như vậy từ trước tới nay đã có rất nhiều các công trình khác nhau nghiên cứu tìm hiểu về tác phẩm Nhà thờ Đức bà Paris. Tuy nhiên, vấn đề hình tượng nhân vật Quasimodo là một phương diện còn để ngỏ thôi thúc sự khám phá kiếm tìm bởi những người yêu thích và khám phá văn chương. Vì vậy, tôi mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu tên là:“Hình tượng nhân vật Quasimodo trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Paris của Victo Hugo”. 3. Phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp, trong đó chú trọng đến các phương pháp sau đây: 3.1. Phương pháp thống kê: Đây là phương pháp quan trọng, dựa vào những khảo sát cụ thể để chứng minh cho những nhận định đánh giá. 3.2. Phương pháp so sánh đối chiếu: - So sánh đồng đại: Đặt tác phẩm trong mối quan hệ với các tác phẩm cùng thời. - So sánh lịch đại: Đặt tác phẩm trong mối quan hệ với các tác phẩm khác thời. - So sánh đối chiếu nhân vật Quasimodo của tác giả Victo Hugo với các nhân vật khác trong sáng tác của ông, đồng thời so sánh Quasimodo với các 6 nhân vật khác của các nhà văn khác. Qua đó chỉ ra được nét tương đồng và khác biệt. Từ đây làm nổi bật hình tượng nhân vật Quasimodo. 3.3. Phương pháp phân tích: Đây là phương pháp cơ bản được sử dụng thường xuyên trong quá trình nghiên cứu tác phẩm văn học. Tuy nhiên, có một số nhân vật được phân tích tương đối hoàn chỉnh và toàn diện, một số nhân vật chỉ được phân tích một mặt nào đó để làm sáng tỏ những nhận định, những đánh giá xoay quanh nghệ thuật xây dựng nhân vật của tác giả trong tác phẩm “Nhà thờ Đức bà Paris”. 3.4. Phương pháp tổng hợp: Nhằm khái quát những vấn đề lí luận, khái quát tổng hợp thành những nhận định, kết luận tổng quát về nghệ thuật xây dựng nhân vật của Victo Hugo trong tác phẩm Nhà thờ Đức bà Paris. 4. Đối tƣợng, phạm vi, nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Hình tượng nhân vật Quasimodo trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Paris của Victo Hugo. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Tác phẩm Nhà thờ Đức bà Paris của Victo Hugo - NXB Văn học, 2004 của dịch giả Nhị Ca. 4.3. Nhiệm vụ nghiên cứu: Khóa luận có nhiệm vụ làm sáng tỏ hình tượng nhân vật Quasimodo trong Nhà thờ Đức bà Paris trên hai phương diện: đặc trưng hình tượng và nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật. 5. Đóng góp mới của khóa luận Trên cơ sở tiếp thu những công trình nghiên cứu của những tác giả đi trước và qua khảo sát đánh giá của bản thân, khóa luận sẽ đi tìm hiểu, khám phá hình tượng nhân vật Quasimodo trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Paris.Từ đó khóa luận bước đầu khám phá những nét đặc sắc cơ bản trong việc khắc hoạ hình tượng nhân vật Quasimodo trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Paris của Victo Hugo. 6. Cấu trúc của khóa luận Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, khóa luận gồm 3 chương sau: Chương 1. Giới thuyết chung. Chương 2. Hình tượng nhân vật Quasimodo trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Paris của Victo Hugo. Chương 3. Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật Quasimodo trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Paris của Victo Hugo. 7 CHƢƠNG 1. GIỚI THUYẾT CHUNG Với tác phẩm này, Victo Hugo đã rất chú ý xây dựng hình tượng các nhân vật, đặc biệt là nhân vật Quasimodo. Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật của ông trong tác phẩm này rất sắc sảo, độc đáo, qua đó giúp tác giả làm nổi bật được tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Xuất phát từ đối tượng, nhiệm vụ của đề tài đã xác định trước đó, trong chương một này, tôi sẽ trình bày khái quát một số vấn đề lí luận về nhân vật và đi sâu tìm hiểu một số đặc điểm về cuộc đời, sự nghiệp của tác giả Victo Hugo cũng như tác phẩm Nhà thờ Đức bà Paris của ông. Những kiến thức đó sẽ là nền tảng lí luận, văn học sử để triển khai cho các chương sau. 1.1. Nhân vật văn học 1.1.1. Khái niệm nhân vật văn học Nói đến nhân vật văn học là nói đến“con người được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm bằng phương tiện văn học” [23, 277]. Nhân vật văn học là khái niệm dùng để chỉ hình tượng các cá thể con người trong tác phẩm văn học - cái đã được nhà văn nhận thức, tái tạo, thể hiện bằng các phương tiện riêng của nghệ thuật ngôn từ. Nhân vật là con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học. Nhân vật có thể có tên riêng hoặc không có tên riêng, có khi được sử dụng như một ẩn dụ, không chỉ một con người cụ thể nào cả, mà chỉ một hiện tượng nổi bật nào đó trong tác phẩm. Nhân vật là phương tiện khái quát tính cách số phận con người (tính cách nhân vật là một hiện tượng xã hội lịch sử xuất hiện trong một hiện thực khách quan), (trong câu chuyện thần thoại ). Qua đó, nhân vật dẫn dắt ta đến với đời sống xã hội. 1.1.2. Vai trò, vị trí của nhân vật văn học Nói một cách khái quát, nhân vật là điều kiện thiết yếu đảm bảo cho sự miêu tả thế giới của văn học có được chiều sâu và tính hình tượng. Khi nhân vật xuất hiện, cái gọi là “hiện thực cuộc sống” không còn tồn tại như một khái niệm khô khan, trừu tượng nữa mà trở nên có hình khối rõ ràng, có đủ “ba chiều” để mời gợi người đọc tưởng tượng, khám phá và suy ngẫm. Hơn thế, nhân vật nhiều khi trở thành những chủ đề đối thoại thực sự có ý nghĩa về cuộc đời và con người. Đầu tiên, nhân vật có vai trò miêu tả và khái quát các loại tính cách xã hội. Với vai trò, vị trí này, nhân vật chứng tỏ được ưu thế vô song của văn học trong 8 việc phản ánh bản chất của đời sống xã hội qua một hình tượng mang tính chất kết tinh là tính cách.Trong đời sống, ta được tiếp xúc với rất nhiều loại tính cách khác nhau. Đây chính là một hiện tượng thú vị của thực tế khách quan, đòi hỏi được văn học nghiên cứu và thể hiện. Tìm hiểu các nhân vật văn học được xây dựng một cách thành công, trước hết ta có cảm tưởng như vừa gặp lại những con người của đời sống thực, rất rõ nét, sau nữa, ta nhận thấy nhiều mối tương quan cơ bản và có tính lịch sử của thực tại được tái hiện sinh động trong đó. Vì sao vậy? Vì phẩm chất riêng, nổi bật và bền vững của một con người là sản phẩm của sự kết hợp theo quy luật nhất định vô số yếu tố vừa chủ quan, vừa khách quan. Với nhân vật Hăm let (trong bi kịch Hăm let ), W. Shakespeare vừa gợi cho ta niềm cảm phục một tính cách cao thượng đặc trưng của thời Phục hưng, vừa giúp ta thấy được nhiều vấn đề lớn của chính thời đại đó, cảm nhận được sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa nhân văn trong cuộc đối đầu với những thế lực hắc ám tượng trưng cho một thời trung cổ đương qua. Với nhân vật Grangđê (trong tiểu thuyết Eugenie Grandet ), H. de Balzac vừa tạo cho độc giả thái độ căm ghét loại tính cách keo cú, bủn xỉn đặc trưng của giai cấp tư sản (thời tích luỹ tư bản), vừa chứng minh một cách thuyết phục khả năng huỷ hoại nhân tính khủng khiếp của đồng tiền trong xã hội Pháp thế kỷ XIX. Nhà văn Nga - Xô viết K.A. Fedin từng hình dung nhân vật giống như “một công cụ” hữu hiệu giúp người viết nhận ra bản chất của đời sống và giúp độc giả thấu hiểu những quy luật sâu xa đang ngầm chi phối mọi đột biến của lịch sử. Quả vậy, nếu không có một nhân vật mang tính chất đa diện của con người thời Âu hoá và có số phận may mắn lạ lùng là Xuân Tóc Đỏ, làm sao Vũ Trọng Phụng có thể thâu tóm thần tình đến vậy bản chất của cả một xã hội - xã hội thực dân nửa phong kiến, mà ông định nghĩa bằng hai từ “chó đểu”. Nhân vật còn có vai trò tương tự như một chiếc chìa khoá, giúp nhà văn mở cánh cửa bước vào hiện thực rộng lớn, tiếp cận những đề tài, chủ đề mới mẻ. Theo một góc nhìn nào đó, có thể nói đề tài miền núi trong văn học cách mạng Việt Nam sau 1945 đã “đẻ ra” một loại nhân vật mới trước đây ta chưa từng gặp như Mị, A Phủ, ông Mong, Ính, Sạ…( trong truyện Tây Bắc của Tô Hoài). Nhưng có thể nói ngược lại: chính những nhân vật nói trên đã tạo nên tiền đề quan trọng giúp nhà văn đi vào khai phá đề tài cuộc sống của những dân tộc vùng cao - một đề tài lớn còn ít được quan tâm, do vậy mà hứa hẹn nhiều đóng góp có ý nghĩa. Như đã trình bày ở trên, nhân vật là một hình tượng thẩm mĩ. Bởi vậy không thể quên một vai trò khác của nhân vật đó là biểu hiện quan niệm nghệ 9 thuật của nhà văn về thế giới, con người. Dĩ nhiên, quan niệm nghệ thuật về thế giới, con người của nhà văn không chỉ được biểu hiện qua nhân vật, mà qua tổng gộp toàn bộ các yếu tố hợp thành tác phẩm hay một sự nghiệp sáng tác. Nhưng phải thừa nhận rằng với các nhân vật cụ thể, thái độ đánh giá về các tính cách, các vấn đề xã hội của nhà văn có được điều kiện bộc lộ tốt hơn, tập trung hơn. Cần khẳng định thêm là dù nhân vật được xây dựng theo“mô hình xác thực” hay theo“mô típ hư cấu”, phần chủ quan của người viết luôn chiếm tỉ trọng lớn, và nó phải là yếu tố có tính thứ nhất mà ta cần quan tâm tới khi đi phân tích một nhân vật văn học. Vai trò, vị trí cuối cùng mà ta có thể nói tới của nhân vật chính là tạo nên mối liên kết giữa các sự kiện trong tác phẩm và cái vẫn thường được gọi là cốt truyện. Một phần lớn nhờ nhân vật mà kết cấu nhiều tác phẩm đạt được sự thống nhất, hoàn chỉnh chặt chẽ và nhiều tiềm năng biểu đạt của các phương tiện ngôn từ được phát lộ, để rồi tự chúng trở thành những phương tiện nghệ thuật độc lập, có thể được nghiên cứu riêng như một đối tượng thẩm mĩ chuyên biệt. 1.2. Nhân vật của chủ nghĩa lãng mạn 1.2.1. Chủ nghĩa lãng mạn Theo Từ điển Thuật ngữ văn học vào thế kỉ XVIII thì từ “lãng mạn” vốn được dùng để chỉ tất cả những cái gì hoang đường, kì lạ khác thường chỉ thấy có ở trong sách chứ không có trong hiện thực. Vào khoảng giữa thế kỉ XVIII và nửa đầu thế kỉ XIX, chủ nghĩa lãng mạn trở thành một thuật ngữ dùng để chỉ một khuynh hướng văn học mới đối lập với chủ nghĩa cổ điển. Chủ nghĩa lãng mạn là một trong những trào lưu văn hoá lớn nhất của Âu Mĩ vào cuối thế kỉ XVIII và nửa đầu thế kỉ XIX, có ảnh hưởng và ý nghĩa lớn đối với sự phát triển văn hoá toàn thế giới. Tiền đề tư tưởng - xã hội cơ bản của nó là sự thất vọng đối với kết quả của cuộc cách mạng Pháp 1789 và đối với nền văn minh tư sản nói chung. Sự bất bình với lối sống tư sản, sự chống lại cái dung tục, tầm thường, không tình nghĩa và thói ích kỉ của những quan hệ tư sản đã sớm được thể hiện trong chủ nghĩa tình cảm và tiền lãng mạn đến các nhà văn sáng tạo theo chủ nghĩa lãng mạn càng trở nên đặc biệt gay gắt. Bác bỏ cuộc sống tầm thường của xã hội văn minh tư sản, các nhà lãng mạn chủ nghĩa hướng về một thế giới khác thường mà họ tìm thấy trong các truyền thuyết và sáng tác dân gian, trong các thời đại lịch sử đã qua, trong những bức tranh kỳ diệu của thiên nhiên, trong đời sống sinh hoạt tập quán của 10 các dân tộc và đất nước xa xôi. Họ đem những ước vọng cao cả và những biểu hiện cao nhất của đời sống tinh thần như nghệ thuật, tôn giáo, triết học, đối lập với thực tiễn vật chất tầm thường. Theo Từ điển Thuật ngữ Văn học, những nét tiêu biểu nhất trong mô hình thế giới của các nhà văn sáng tác theo chủ nghĩa lãng mạn là:“một cá nhân cô đơn xung đột với môi trường xung quanh, một khát vọng tự do cá nhân vô hạn tách biệt hoàn toàn với xã hội, dẫn tới sự thích thú với những tình cảm mạnh mẽ, những tương phản gay gắt, những vận động bí ẩn, tối tăm của tâm hồn” [14, 74]. Đó còn là vai trò to lớn của cái trực giác, vô thức. Đồng thời là sự ý thức đầy đủ về vai trò của cá tính sáng tạo, của nghệ sĩ đối lập với sự “bắt chước tự nhiên” của chủ nghĩa cổ điển. Chủ nghĩa lãng mạn cho rằng nghệ sĩ có quyền cải biến thế giới hiện thực bằng cách tạo ra cho mình một thế giới riêng đẹp hơn, chân thực hơn và vì thế hiện thực hơn. Nó thích sự tưởng tượng phóng khoáng và bác bỏ tính quy phạm trong mĩ học và sự quy định có tính chất duy lí trong nghệ thuật. Chủ nghĩa lãng mạn đòi hỏi tính lịch sử và tính dân tộc của nghệ thuật với ý nghĩa chủ yếu là tái hiện lại màu sắc địa phương và thời đại. Tùy theo thái độ phản ứng lại đối với thực tại đời sống và cách tìm lối thoát của các nghệ sĩ, người ta chia chủ nghĩa lãng mạn thành các khuynh hướng khác nhau. Thứ nhất, khuynh hướng tiêu cực với thái độ bi quan thực tại, tình cảm chán chường và hoài niệm quá khứ. Các đại diện xuất sắc của khuynh hướng này là: Satobriang, Lamactin, A.Vinhi. Thứ hai, khuynh hướng tích cực tràn trề niềm tin vào thực tại và tương lai, lạc quan về nhân dân và khả năng sáng tạo đời sống. Tiêu biểu cho khuynh hướng này là V.Hugo, A. Muytxê, G. Xăng. Họ nuôi dưỡng cho người đọc hoài vọng với lí tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, gợi ra một thế giới tốt đẹp mà mọi người đều sống trong sự hoà hợp vì tình yêu thương. Đối với từng tác phẩm cụ thể và đôi khi cả từng tác giả, việc tách bạch thành hai khuynh hướng như trên là không đơn giản. Trong đánh giá, cũng cần tránh xu hướng khắt khe, máy móc. Chủ nghĩa lãng mạn đã có công sáng tạo ra các thể loại văn học mới như: tiểu thuyết lịch sử, kịch lịch sử, truyện viễn tưởng, trường ca trữ tình - sử thi, đặc biệt là đã đưa thơ trữ tình phát triển đến độ rực rỡ chưa từng thấy. Đồng thời, nó cũng đã có những cải cách đáng kể trên lĩnh vực sân khấu. 11 1.2.2. Nhân vật của chủ nghĩa lãng mạn Nhân vật của chủ nghĩa lãng mạn thường là kiểu nhân vật chức năng, tức là mang các đặc điểm, phẩm chất cố định, thường không thay đổi từ đầu đến cuối. Nhân vật có chức năng thực hiện một số nhiệm vụ nhất định nhưng không có đời sống nội tâm, do đó cũng không có sự phát triển đời sống nội tâm. Nhân vật lãng mạn thường là các biểu tượng, thường mang tính chất nguyên phiến. Con người lí tưởng của chủ nghĩa lãng mạn tiêu cực thoát li thực tế, quay về với quá khứ, hoặc đi vào ảo mộng hoặc thu mình trong cái tôi nhỏ bé. Trong Tôi học viết như thế nào? M. Gorki nói:“Chủ nghĩa lãng mạn tiêu cực tìm cách làm cho con người thoả hiệp với thực tại bằng cách tô vẽ thực tại, hay là trốn tránh thực tại để đi sâu vào thế giới nội tâm với những tư tưởng về những bí ẩn thiên định của cuộc đời, về ái tình và cái chết” [22, 512]. Nhân vật trung tâm của Lamactin ca ngợi cái chết, mà nếu sống thì với một tâm trạng cô đơn não nuột: … “Khi lá rừng xa rời về đồng cỏ Để gió chiều hôm cuốn vội thung sâu Và thân tôi như tấm lá úa màu Gió hỡi gió cuốn ta đi cùng lá” (Trầm tư đầu tiên: “Hiu quạnh”) Nhân vật Role trong tác phẩm cùng tên của Satobriang bỏ tổ quốc Pháp ra đi sinh sống với người da đỏ Châu Mĩ, không phải chỉ là câu chuyện di chuyển về không gian mà còn là việc quay ngược lại thời gian - từ bỏ văn minh Châu Âu quay về sống với những bộ tộc bản khai. Điều đó thể hiện lí tưởng xã hội thẩm mĩ thoát li hiện thực của chủ nghĩa lãng mạn tiêu cực. Role phải ra đi như vậy có phần vì mối tình oan trái với người chị gái - một mối tình vô vọng, người chị phải đi vào nhà tu kín. Song chỉ có thế thì bỏ nhà ra đi, nhưng sở dĩ Role không chỉ từ bỏ gia đình, mà từ bỏ luôn Tổ quốc bởi vì nước Pháp sau cách mạng không còn là Tổ quốc của những chàng thanh niên quý tộc như Role nữa. Điều này thể hiện đúng nguyên nhân ra đời của chủ nghĩa lãng mạn tiêu cực ở Pháp, đó là sự phản ứng chống lại Đại cách mạng tư sản Pháp. Role chán chường buồn bất lực, cô liêu với một trạng thái tâm hồn mông lung, ảo não. Đó là cái tình điệu chung của các nhân vật lãng mạn tiêu cực. Nếu nhân vật hành động tranh đấu thì cũng vì mục đích củng cố quyền lợi của bọn phong kiến quý tộc thoái hoá, như trường hợp của anh chàng quý tộc trẻ tuổi trong tác phẩm Xanh Mác của Vinhi: “đó là một tên quý tộc trẻ tuổi cầm đầu một vụ âm mưu 12 chống giáo chủ Risolio mà tác giả miêu tả là một kẻ biện hộ cho chế độ chuyên chế” (Abramovich). Cũng trong bài Tôi học viết như thế nào?, M. Gorki cho rằng:“chủ nghĩa lãng mạn tích cực tăng cường ý chí con người đối với cuộc sống, thức tỉnh lòng bất phục tùng đối với thực tại, đối với mọi đè nén, áp bức” [23, 513]. Nói chung, nhân vật trung tâm của chủ nghĩa lãng mạn tích cực là những con người phản kháng, những chiến sĩ đấu tranh đòi giải phóng nhân loại bị áp bức, hướng về một tương lai tốt đẹp nhưng còn mơ hồ, theo đuổi một lí tưởng tích cực mặc dù rất không tưởng. GiăngVangiăng trong Những người khốn khổ của Victo Hugo với tất cả những nét riêng của nó có tính chất tiêu biểu cho những nhân vật lãng mạn tích cực, tượng trưng cho lí tưởng “lấy điều thiện để chống lại điều ác”. Chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng, qua nhân vật GiăngVangiăng, V.Hugo muốn nêu lên rằng việc tu dưỡng đạo đức lòng thương yêu con người có thể cải tạo được xã hội. Đặc trưng của nhân vật lãng mạn trong tiểu thuyết V.Hugo là họ đều là những con người cô độc, họ cũng là nạn nhân của xã hội chỉ sản sinh ra những nạn nhân ấy. Nhưng, họ biết san sẻ mình cho lí tưởng, cho lòng nhân từ mà tác giả đã nhận được trong cuộc đời. Họ là những người làm nhiệm vụ của đạo đức, là người phát ngôn cho lý tưởng “sống là yêu thương” mà Victo Hugo suốt đời theo đuổi. 1.3. Tác giả Victo Hugo 1.3.1. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác Victo Hugo (1802 - 1885) là nhà văn lãng mạn tiến bộ ưu tú của nước Pháp. Người mẹ của Victo Hugo có tư tưởng bảo hoàng song không phải do một ý thức hệ sâu xa gì trong cội rễ cũng như ảnh hưởng. Bố của Hugo là một vị tướng của Napoleong và tước vị cũng là do Đế chế I ban phát chứ không phải do nguồn gốc quý tộc nhà nòi. Nhìn chung, sự nghiệp sáng tác của Victo Hugo vừa phong phú về thể loại, vừa trác tuyệt về chất lượng. Trong hơn 60 năm sáng tác, ông đã để lại hơn 20 vở kịch, 10 tiểu thuyết lớn và truyện vừa, 15 tập thơ gồm 153873 câu thơ, hàng trăm bài chính luận, lí luận văn chương, hàng nghìn bức thư tình là những áng văn hay và 3000 bức tranh nổi tiếng. Sự phong phú về sáng tác của Hugo bắt nguồn từ mối liên hệ của ông với đời sống nhân dân, sự tham gia trực tiếp vào các phong trào chính trị và văn hoá tiến bộ. Bước vào văn đàn lúc 17 tuổi, với cuộc sống kéo dài trong hơn 80 năm 13 đầy ắp những biến cố sôi động, Hugo đã có mãnh lực thu hút áp đảo độc giả trên nhiều lĩnh vực khác nhau của văn chương nghệ thuật và một cường độ sáng tạo hiếm hoi trong lịch sử văn học xưa nay. Ngoài ra, Victo Hugo còn có rất nhiều các tác phẩm có giá trị khác như: Những người khốn khổ, Nhà thờ Đức bà Paris. Trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Paris, Hugo đã ca ngợi tình thương yêu của những con người bình thường. Tác phẩm lớn Những người khốn khổ miêu tả những cảnh đau lòng dưới đáy xã hội Pháp với cả chiều rộng và chiều sâu. V. Hugo hi vọng giải quyết ba vấn đề: Sự sa đoạ của đàn ông vì bán sức lao động, sự truỵ lạc của đàn bà vì đói khát, sự cằn cỗi của trẻ thơ vì tối tăm… Những con người bị vùi dập hiện ra trong tác phẩm với tất cả vẻ đẹp cao cả. V. Hugo tin rằng lòng yêu thương tuyệt đối có khả năng tiêu diệt điều ác và mang lại hạnh phúc trong tương lai cho số phận những con người khốn khổ. Những rung động đầy chất thơ được nâng lên sự suy tưởng có tính chất triết lý đó giải quyết vấn đề xoá bỏ nỗi đau khổ của nhân loại trong thời kì hiện đại. V. Hugo mất ngày 25/5/1885. Nhân dân Pháp đã thực hiện tâm nguyện cuối cùng trong bản di chúc của Victo Hugo, tiễn đưa ông đến nơi an nghỉ cuối cùng “trong chiếc quan tài của kẻ khó”. Thi hài ông được đưa vào viện Pantheon. Victo Hugo là một trong những thiên tài văn chương hiếm hoi của Pháp và của thế giới, là tấm gương tranh đấu không biết mệt mỏi cho nền tự do, dân chủ của nhân loại tiến bộ. Nhìn chung, Victo Hugo là nhà văn, nhà thơ, nhà chính trị lớn của nước Pháp. Sự rộng lượng trong tư tưởng của ông, sự ân cần trong cách diễn tả đã làm rung động tâm hồn người đọc. Ông là một nhà thơ bình dân, đã viết văn và làm thơ với đặc tính giản dị nhưng bao hàm bên trong sức mạnh, đề cập cả niềm vui, nỗi buồn nhiều người. Di sản văn học mà ông để lại có giá trị về nhiều mặt, mà nổi bật lên là giá trị nhân đạo lớn lao. Với những gì đóng góp cho dân tộc và nhân loại, Hugo xứng đáng với danh hiệu“lương tâm của các danh hiệu”. Nói đến Hugo là người ta nói đến chủ nghĩa nhân đạo, tấm lòng thương yêu của ông đối với những người lao động nghèo đói, bị áp bức. Dù nhân loại có tiến bộ đến chừng nào đi chăng nữa thì chủ nghĩa nhân đạo của ông vẫn rất cần thiết cho mọi thời đại. Nó làm cho con người xích lại gần nhau, hiểu nhau hơn trong sự hoà nhập nền văn hoá toàn cầu. 1.3.2. Quan niệm nghệ thuật về thế giới con người của Victo Hugo Người ta thường gọi Hugo là “Con người đại dương” bởi sự vĩ đại của tư tưởng và sự mênh mông của tình cảm của ông đối với nhân dân và nhân loại, 14 bởi sự nghiệp đồ sộ của ông bao hàm mọi thể loại văn học và phi văn học, bởi sự đa dạng của những tài năng của ông in dấu ấn trong mọi lĩnh vực hơn hai thế kỉ qua trong nền văn học và văn hoá Pháp. Đến độ có nhà nghiên cứu cho rằng: “Tất cả những vấn đề lớn của nhân loại đều hàm chứa trong các tác phẩm của V.Hugo như tất cả được lồng vào tất cả”…[6, 70]. Hugo đã bộc bạch: “Tôi ưa thích đôi điều ở tất cả mọi sự, hơn là tất cả mọi sự ở đôi điều”( Truyền kỳ các thế kỷ, đoạn viết năm 1860), ý của ông muốn diễn tả qua các phương thức tương phản và chơi chữ ở đây là sự quan tâm có tính chất bách khoa của ông, sự chú tâm hiếu kì của ông đối với tất cả mọi lĩnh vực của cuộc sống, vũ trụ, con người hơn là chỉ đào sâu đến cùng tận, đến tất cả một vài điều. Hoặc ông còn viết:“Thơ phải đi hẳn vào đáy sâu của cuộc sống, công tác với nó, lấy ở nó động lực của sự tồn tại” [6, 75]. Tuy nhiên, sự vĩ đại đó còn có ở chỗ cảm quan nghệ thuật về con người của ông gắn chặt với sự tiến bộ và nhân dân: “Tiến bộ là sợi chỉ. Sợi chỉ lớn lao bí ẩn xuyên suốt đường đi lắt léo như mê cung của nhân loại”, hay“Nghệ thuật là ánh sáng đất trời rạng ngời trên vầng trán nhân dân, như ngàn sao lấp lánh trên trán Người, thượng đế, nghệ thuật - người biến nhân dân nô lệ thành tự do, người biến nhân dân tự do thành vĩ đại”(trong Nghệ thuật với nhân dân 7/11/1851), “Những ai suy tưởng là kẻ chiến đấu” [6, 90]. Nhà thơ là người chiến đấu chống bất công áp bức: “Ta sẽ đến ngời ngời ánh sáng, với công lí trong lòng, roi ở trong tay, quất tung những lời thơ uất hận” [6, 91]. Dostoievski là người hiểu tư tưởng nghệ thuật của Hugo một cách sâu sắc khi ông viết:“Tư tưởng của Victo Hugo là tư tưởng cơ bản của toàn bộ nghệ thuật thế kỉ XIX và ông là người đầu tiên phát ngôn cho tư tưởng đó … định thức của tư tưởng đó là: phục sinh con người đã chết, đã bị đè bẹp hết sức bất công dưới ách áp bức của hoàn cảnh xã hội, của tình trạng trì trệ bao thế kỉ và những định kiến xã hội” [6, 525]. Hugo luôn gắn liền nhân dân với lịch sử, tin tưởng nhân dân trên con đường phát triển lịch sử. Đả kích kẻ thù, tin tưởng nhân dân, Hugo mơ ước một tương lai xán lạn lúc mà“ nhân dân ra khỏi vực thẳm, vượt qua sa mạc ảm đạm”. Chính lòng yêu thương nhân dân, lòng căm thù giặc sâu sắc đã bồi dưỡng cho ngòi bút Hugo thêm sức mạnh chiến đấu. Nói tóm lại, quan điểm về thế giới con người của Victo Hugo luôn gắn liền với tự do, dân chủ, hoà bình và tiến bộ. Ông mơ ước tất cả loài người sẽ được sống trong một thế giới tươi đẹp, hạnh phúc, loài người sẽ không phải đối mặt với những bất công ngang trái, dẫm đạp. Con người sẽ không còn bị tha hoá, 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan