Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hình tượng cái tôi trữ tình trong “ngư phong thi tập” của nguyễn quang bích...

Tài liệu Hình tượng cái tôi trữ tình trong “ngư phong thi tập” của nguyễn quang bích

.PDF
140
231
80

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Trần Nguyễn Thùy Dương HÌNH TƯỢNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG “NGƯ PHONG THI TẬP” CỦA NGUYỄN QUANG BÍCH LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Thành phố Hồ Chí Minh – 2012 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Trần Nguyễn Thùy Dương HÌNH TƯỢNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG “NGƯ PHONG THI TẬP” CỦA NGUYỄN QUANG BÍCH LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 60 22 34 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS LÊ THU YẾN Thành phố Hồ Chí Minh – 2012 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan: - Đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. - Các số liệu, tài liệu trích dẫn, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan, khoa học và nghiêm túc. Tác giả luận văn Trần Nguyễn Thùy Dương MỤC LỤC MỞ ĐẦU............................................................................................................................................ 6 1- Lí do chọn đề tài ........................................................................................................................ 6 2- Lịch sử vấn đề ............................................................................................................................ 7 3- Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................................. 13 4- Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................................... 13 5- Đóng góp của luận văn ............................................................................................................ 14 6- Cấu trúc luận văn: .................................................................................................................... 14 CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NHÀ THƠ NGUYỄN QUANG BÍCH .......................... 16 1.1- Thời đại ................................................................................................................................. 16 1.1.1- Sự khủng hoảng suy vong của vương triều Nguyễn ...................................................... 16 1.1.2- Sự xâm lược của thực dân Pháp và cuộc đấu tranh chống xâm lược của nhân dân ta ... 20 1.2- Cuộc đời................................................................................................................................ 24 1.3- Về khái niệm hình tượng cái tôi trữ tình ............................................................................... 30 CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG “NGƯ PHONG THI TẬP” CỦA NGUYỄN QUANG BÍCH ............................................................................................................... 33 2.1- Cái tôi trữ tình trong mối quan hệ với quốc gia, dân tộc: ..................................................... 34 2.1.1- Ý thức trách nhiệm cứu nước: ....................................................................................... 34 2.1.2- Lòng căm thù giặc và bè lũ tay sai bán nước: ................................................................ 45 2.2- Cái tôi trữ tình trong mối quan hệ với gia đình, đồng chí, người dân................................... 50 2.2.1- Tình gia đình .................................................................................................................. 50 2.2.2- Tình đồng chí ................................................................................................................. 56 2.2.3- Tình quan dân ................................................................................................................ 60 2.3- Cái tôi trữ tình tự đối thoại với chính mình .......................................................................... 64 2.3.1 –Cái tôi lạc quan, tự hào về phẩm chất của mình............................................................ 65 2.3.2- Cái tôi yếu mềm, buồn lo ............................................................................................... 71 2.4- Cái tôi trữ tình trong mối quan hệ với thiên nhiên................................................................ 78 CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG “NGƯ PHONG THI TẬP” ................................................................................................................................................ 86 3.1- Thể thơ ...................................................................................................................................... 86 3.2- Ngôn ngữ nghệ thuật............................................................................................................. 94 3.1.1- Từ ngữ............................................................................................................................ 94 3.1.2- Câu ............................................................................................................................... 103 3.2- Giọng điệu nghệ thuật ......................................................................................................... 121 3.2.1- Giọng ngợi ca............................................................................................................... 124 3.2.2- Giọng thương cảm, chua xót ........................................................................................ 130 KẾT LUẬN .................................................................................................................................... 136 TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................................. 138 1- Lí do chọn đề tài MỞ ĐẦU Văn học là nhân học, một khoa học về con người. Bất cứ một nền văn học nào cũng lấy con người làm đối tượng chủ yếu. Chính việc quan tâm và lí giải những vấn đề có liên quan đến con người làm nên đặc trưng của văn học nghệ thuật trong mối quan hệ so sánh với các bộ môn khoa học kĩ thuật. Tìm hiểu việc văn học lý giải các vấn đề thuộc con người tự nó trở thành một nhiệm vụ quan trọng của các nhà nghiên cứu văn học. Vấn đề con người cá nhân trong văn học từ lâu đã là đối tượng khảo sát và ngày càng thu hút mối quan tâm của các nhà nghiên cứu văn học trên thế giới. Bởi lẽ con người là chủ thể sáng tạo, đồng thời cũng là đối tượng nhận thức, phản ánh của văn chương. Nhận thức về điều này, Trần Đình Sử khái quát : “Không thể lý giải một hệ thống văn, thơ mà bỏ qua con người được thể hiện trong đó… Vấn đề quan niệm nghệ thuật về con người thực chất là vấn đề tính năng động của nghệ thuật trong việc phản ánh hiện thực, lý giải con người bằng các phương tiện nghệ thuật, là vấn đề giới hạn, phạm vi chiếm lĩnh đời sống của một hệ thống nghệ thuật, là khả năng thâm nhập của nó vào các miền khác nhau của cuộc đời”. Trong các vấn đề văn học cần được nghiên cứu của thời kỳ trung đại, vấn đề con người trong văn học có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Hình tượng cái tôi trữ tình của tác giả là một trong những vấn đề cần được khám phá và chiếm lĩnh. Nguyễn Quang Bích là một trong những tác giả lớn của văn học yêu nước chống Pháp cuối thế kỷ XIX. Lịch sử đã ghi nhận những đóng góp của ông cho phong trào Cần Vương kháng Pháp, văn học cũng ghi nhận những cống hiến của ông cho nền văn học của nước nhà. Bên cạnh tư cách là một lãnh tụ nghĩa quân lặn lội chống Pháp tại núi rừng Tây Bắc, Nguyễn Quang Bích còn là một nghệ sĩ ngày ngày cầm bút khắc họa khung cảnh nên thơ của chính địa bàn mà mình đã trường kì kháng chiến với tinh thần quyết tử. Vì lẽ đó không thể bỏ qua Nguyễn Quang Bích như một đại biểu quan trọng, một tiếng nói riêng độc đáo. Cái tôi trữ tình trong tác phẩm là tiếng nói thể hiện những tâm tư tình cảm, những rung động thẩm mỹ của nhà thơ. Với đề tài “Hình tượng cái tôi trữ tình trong Ngư phong thi tập của Nguyễn Quang Bích” chúng tôi muốn khám phá, tìm hiểu về con người của ông từ nhiều góc độ, đặt trong nhiều mối quan hệ khác nhau để đi đến một cái nhìn thống nhất về một tác giả lớn của văn học yêu nước chống Pháp cuối thế kỷ XIX. 2- Lịch sử vấn đề Trong công trình của nhiều tác giả giới thiệu về “Thơ văn Nguyễn Quang Bích” (NXB Văn học, Hà Nội, 1973) có phần giới thiệu thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Quang Bích. Phần đầu trình bày về Nguyễn Quang Bích với công cuộc chống Pháp. Phần sau giới thiệu chung về thơ văn của Ngư Phong. Về nội dung, các tác giả chỉ ra rằng tư tưởng yêu nước là tư tưởng chủ đạo của Ngư phong thi tập và chia thành 4 nội dung lớn : “Một ý thức cứu nước mãnh liệt”, “Một tình yêu thiên nhiên đất nước thắm thiết”, “ Một tình thương yêu đồng chí nồng nàn và một lòng căm thù giặc sâu sắc”, “Một sự gắn bó chân thành với nhân dân lao động”. Về nghệ thuật, các tác giả nhận định Ngư Phong thi tập có sự kết hợp đẹp đẽ giữa hai yếu tố hiện thực và trữ tình. Nguyễn Lộc trong bộ sách “Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX” (Tái bản có bổ sung và sửa chữa), Nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1976 có một chương viết về Nguyễn Quang Bích (Chương VI – Nguyễn Quang Bích). Trong tập sách này, Nguyễn Lộc đã giới thiệu sơ bộ về nhà thơ - nhà yêu nước Nguyễn Quang Bích. Phần đầu người viết giới thiệu về cuộc đời Nguyễn Quang Bích và phần sau giới thiệu nội dung thơ văn. Tác giả đã khẳng định giá trị của tập thơ Ngư Phong thi tập và giới thiệu những nội dung chính của tập thơ. Theo tác giả, Ngư Phong thi tập trước hết cho thấy “con người Nguyễn Quang Bích” – “một người đi nhiều và dường như cũng là một người thích nói nhiều về những nỗi buồn hơn là niềm vui, trong một trạng thái cô đơn.” “Nhìn chung thơ Nguyễn Quang Bích thường nói nhiều đến tâm sự riêng của ông, thường than thở, giãi bày. Nhà thơ than thở về nỗi bất lực của mình và giãi bày tấm lòng lúc nào cũng ưu ái đối với non sông đất nước.” Nguyễn Lộc còn chỉ ra một giá trị nữa cũng đặc biệt đáng chú ý trong Ngư Phong thi tập là những bài thơ Nguyễn Quang Bích viết về thiên nhiên và đời sống của nhân dân miền Tây Bắc. Nguyễn Lộc cho rằng “Có lẽ Nguyễn Quang Bích là người đầu tiên đem đến cho văn học vẻ đẹp hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc. (…) Nguyễn Quang Bích nói nhiều đến thiên nhiên mà không ai có cảm giác ông là nhà thơ sơn thủy, bởi vì thiên nhiên trong thơ ông thấm đượm một cái nhìn rất giàu chất thơ, rất giàu tình người.” Như vậy qua công trình nghiên cứu của mình, Nguyễn Lộc đã đưa ra được những nhận định khái quát về Ngư Phong thi tập của Nguyễn Quang Bích, bước đầu khẳng định giá trị của tập thơ. Trong quyển “Lịch sử Văn học Việt Nam” (Văn học viết tập 4A, thời kỳ II, giai đoạn I: 1858 – đầu thế kỷ XX) (In lần thứ 4 có sửa chữa), (NXB Giáo dục, 1976), ở Chương IV, Lê Trí Viễn đã trình bày ba luận điểm lớn khi giới thiệu Ngư Phong thi tập. Đó là : “Một cuốn nhật ký kháng chiến – một tâm hồn lành mạnh nhưng không tránh khỏi bi quan”, “Vùng núi Tây Bắc trong thơ văn Nguyễn Quang Bích”, và “Nguyễn Quang Bích có tâm hồn một nhà thơ”. Có thể nói, trong công trình nghiên cứu này, Lê Trí Viễn đã có những đánh giá rất xác đáng: “Đọc Ngư Phong thi tập người ta như thấy hiện lên hình ảnh cuộc chống Pháp ở núi rừng Tây Bắc hồi thế kỷ trước. Hình ảnh chưa thật trọn vẹn, chi tiết chưa được phong phú, tác giả thiên về tâm tư riêng biệt của mình nhiều hơn là biểu hiện cuộc chiến đấu, đó là những hạn chế của Ngư Phong thi tập. Nhưng hơn trăm bài thơ trong đó cũng gợi lên được một số nét tiêu biểu. Người đọc Ngư Phong thi tập sẽ theo tác giả mà sống lại những ngày kháng chiến ở Tây Bắc muôn thuở ấy. (…) Từ những trang nhật ký ấy nổi bật lên tính chất gian khổ của cuộc kháng chiến và mối tình của người kháng chiến với núi rừng và nhân dân Tây Bắc”. Lê Trí Viễn cũng có sự gặp gỡ với Nguyễn Lộc khi chú ý đến mảng đề tài Tây Bắc trong thơ Nguyễn Quang Bích:“Trái với thành kiến hàng nghìn năm phong kiến, Tây Bắc không phải là cảnh ma thiêng nước độc, mà là cảnh đẹp, cảnh hiền lành, thái bình. (…) Tây Bắc còn xinh đẹp với núi sông hùng vĩ.” Còn về những người dân vùng Tây Bắc, tác giả cho rằng Nguyễn Quang Bích “mới nói đến cảnh làm ăn thái bình, sung túc, chứ chưa nói đến cái gian khổ, đói nghèo, lạc hậu của họ”. Từ đó tác giả đi đến kết luận khái quát: “Rừng núi Tây Bắc tuy chưa phải cùng người “đánh giặc” như rừng núi Việt Bắc trong thơ ca kháng chiến của ta gần đây, nhưng cũng đã đi vào văn thơ với những màu sắc quê hương, những mùi vị của đất nước tươi mát và đậm đà, dưới ngòi bút của một nhà thơ thiết tha yêu nước.” Công trình “Nguyễn Quang Bích nhà yêu nước nhà thơ” (NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994) là kết quả tổng hợp của các lần kỷ niệm, khảo sát, điều tra và Hội thảo khoa học từ năm 1988 đến 1991. Cuốn sách chia làm ba phần lớn: Phần một – Tiến trình kỷ niệm Nguyễn Quang Bích; Phần hai – Chuyên khảo gồm ba chương (Chương mở đầu, Chương I : Gia đình, dòng họ, quê hương và sự hình thành cốt cách Nguyễn Quang Bích, Chương II: Từ ông quan Tuần phủ Hưng Hóa đến một lãnh tụ Cần Vương, Chương III: Vị trí của Ngư Phong thi văn tập); Phần ba – Thư mục, niên biểu và tư liệu. Ở phần hai có một chương quan trọng nghiên cứu thơ văn của Nguyễn Quang Bích. Trong đó có bảy tham luận khoa học của các tác giả nghiên cứu về thơ văn Nguyễn Quang Bích. Lại Văn Hùng có bài viết “Dáng vẻ tân kỳ trong thủ pháp tập cổ”. Tác giả đánh giá khá cao Nguyễn Quang Bích trên cái nền chung của thơ chữ Hán: “Nếu nhìn nhận trên ba bình diện : thể loại, ngôn ngữ và đề tài thì thơ Nguyễn Quang Bích cũng nằm trong dòng phát triển chung của thơ chữ Hán cuối thế kỷ XIX. Điều ông khác với các tác giả khác chủ yếu nằm ở nội dung của sự phản ánh. (…) Cũng là “tập cổ” nhưng thơ Nguyễn Quang Bích giàu chất hiện thực.” Cuối cùng tác giả đánh giá : “Vượt lên được quy phạm, thơ Nguyễn Quang Bích hướng cổ, tập cổ mà vẫn thoát ra được để bày tỏ cá nhân mình, thời đại mình.” Cũng được tập hợp trong công trình trên, tham luận của Nguyễn Huệ Chi “Truyền thống và cách tân trong thơ Nguyễn Quang Bích” đã tinh tế chỉ ra biểu hiện của cái cũ và mới trong tập thơ của Ngư Phong. “Câu thơ của Ngư Phong vẫn nhẹ nhàng, trầm mặc, như âm vận muôn thuở của hình thức thơ luật cổ điển, có nơi còn phảng phất phong vị thơ Đường, nhưng thực ra đã chứa đựng một lượng thông báo mới so với thơ ca cổ truyền của thế kỷ XIX.” Nguyễn Hữu Sơn cũng góp một bài nghiên cứu “Nhận diện con người cá nhân trong Ngư Phong thi tập”. Qua sự khảo sát tập thơ Ngư Phong thi tập của Nguyễn Quang Bích, tác giả đi đến các kết luận về đặc điểm sự xuất hiện con người cá nhân : “Có một bộ phận thơ triết lý, đề vịnh, khẩu khí không xuất hiện trực diện con người cá nhân tác giả”; “Có một bộ phận thơ ca mang tính tự thuật, hành trạng cuộc đời và cho thấy phần nào hình ảnh con người cá nhân”; “Có một bộ phận thơ ca tự bộc lộ tâm trạng, cảnh ngộ riêng tư và thể hiện khá rõ nét đời sống nội tâm tác giả.” Bên cạnh đó còn có tham luận của Trần Đình Sử : “Cái buồn trong thơ Nguyễn Quang Bích”. Tác giả cho rằng cái buồn trong thơ Nguyễn Quang Bích có những nét riêng cần được chú ý. “Cái buồn trong thơ Nguyễn Quang Bích không phải do thoái chí, chán nản, bạc nhược mà do tình thế bi kịch khách quan tạo nên, vì thế không nên gọi là tiêu cực.” Tác giả cũng truy tìm nguồn gốc cái buồn: “Ý niệm số mệnh là nguồn gốc sâu xa nhất của tính bi kịch, của cái buồn”; “Ý niệm thời gian đời người ngắn ngủi, mau qua là một cội nguồn khác của cái buồn”; “Ý niệm về thực trạng xơ xác, tiêu điều, đói kém là cơ sở hiện thực của cái buồn”; “Ý niệm về sự bất lực, lão lai tài tận là cơ sở chủ quan của cái buồn”. Trần Đình Sử tỏ ra là người tri âm với Nguyễn Quang Bích khi cho rằng: “Hiểu cái buồn của Ngư Phong là hiểu cái chí chưa thành nhưng không bao giờ chết của thơ ông, cũng là hiểu cái hữu hạn của con người trong lịch sử.” Nhà nghiên cứu Trần Thị Băng Thanh với tham luận “Ngư Phong thi tập - Những vần thơ “tâm ngữ tâm”” đi vào khía cạnh – tính chất độc thoại của Ngư Phong thi tập. Theo tác giả : “Nguyễn Quang Bích không viết những lời kêu gọi, đả kích hay đối thoại với kẻ thù hoặc người không cùng chí hướng mà thơ ông chủ yếu là để mình tự nói với mình và ngoài ra, có chăng cũng là để gửi gắm đôi chút nỗi niềm với hậu thế”. “Ngư Phong thi tập là “những vần thơ yên ngựa”, là một tác phẩm trong dòng văn thơ yêu nước nửa cuối thế kỷ XIX. Thế nhưng Nguyễn Quang Bích đã đóng góp một phong cách riêng cho dòng văn học này và một điểm quan trọng làm nên phong cách riêng đó là tính chất “tâm ngữ tâm” của tập thơ.” Đó là khẳng định của tác giả khi đánh giá về vai trò, đóng góp của Nguyễn Quang Bích trong dòng văn chương yêu nước chống Pháp cuối thế kỷ XIX. “Núi rừng Tây Bắc trong thơ Nguyễn Quang Bích” là bài viết của Trần Lê Văn trong công trình “Nguyễn Quang Bích nhà yêu nước, nhà thơ”. Tác giả khẳng định : “Trong văn học Việt Nam từ thế kỷ XIX trở về trước, không có nhà thơ nào sánh được với Nguyễn Quang Bích về khối lượng và chất lượng thơ viết về núi rừng Tây Bắc. Lịch sử đã tạo cho ông một hoàn cảnh đặc biệt là lấy vùng hiểm địa mà sơn kỳ thủy tú ấy làm đất dụng võ, cũng là đất dụng văn.” Người viết đã phân tích một số bài thơ của Nguyễn Quang Bích có hình ảnh núi rừng Tây Bắc. Từ đó cho rằng thơ kỷ sự của Nguyễn Quang Bích “là những bức tranh phác họa vùng đất Tây Bắc ở những góc độ khác nhau: phong tục kinh tế, sinh hoạt vật chất, sinh hoạt tinh thần,…” Cuối cùng là bài nghiên cứu “Chủ thể và khách thể - một phương pháp tư duy truyền thống” của Trần Nho Thìn. Trong bài viết này, Trần Nho Thìn trình bày một số suy nghĩ về mối quan hệ chủ thể - khách thể trong thơ ông nhằm góp phần làm sáng tỏ một khía cạnh của lịch sử tư tưởng Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX: Tại sao các văn thân Cần Vương biết rằng cuộc chiến đấu không cân sức chống lại giặc Pháp xâm lăng khó có thể kết thúc thắng lợi mà vẫn kiên quyết chiến đấu? Qua sự khảo sát sơ bộ thơ Nguyễn Quang Bích với hai nhóm “tức sự” và “ngôn hoài”, tác giả bài viết cho rằng mối quan hệ chủ thể - khách thể trong thơ Nguyễn Quang Bích mang đặc trưng của phương pháp tư duy truyền thống. “Khách thể không phải là đối tượng cảm nhận, suy ngẫm, phát hiện và hiểu biết và có quan hệ biện chứng với chủ thể, có thể tác động làm thay đổi chủ thể. Trái lại chủ thể chỉ cần đến khách thể như một chất xúc tác để bộc lộ bản chất của mình.” Như vậy, qua việc khảo sát lịch sử vấn đề ở trên, có thể thấy thơ văn Nguyễn Quang Bích đã ít nhiều được các nhà nghiên cứu chú ý nhưng khảo sát toàn bộ tập thơ một cách hệ thống để thấy được cái tôi trữ tình của nhà thơ vẫn là một công việc còn bỏ ngỏ. 3- Phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là toàn bộ tập thơ “Ngư Phong thi tập” – gồm 97 bài thơ. Văn bản mà chúng tôi lựa chọn là: Thơ văn Nguyễn Quang Bích, Nxb Văn học, Hà Nội, 1973 (In lần thứ hai, có sửa chữa). Phạm vi nghiên cứu của chúng tôi là khảo sát hình tượng cái tôi trữ tình trong Ngư phong thi tập của Nguyễn Quang Bích. 4- Phương pháp nghiên cứu Chúng tôi sử dụng phương pháp hệ thống để nghiên cứu toàn bộ tác phẩm thơ Nguyễn Quang Bích, nhằm đem đến một cái nhìn toàn diện, khái quát về nội dung tư tưởng cũng như phong cách nghệ thuật của ông. Mặt khác, chúng tôi cũng đặt thơ Nguyễn Quang Bích trong hệ thống thơ ca trung đại Việt Nam nói chung và thơ ca Việt Nam cuối thế kỉ XIX nói riêng để tìm ra những nét tương đồng và dị biệt. Đối với từng tác phẩm chúng tôi cũng xem xét nó như một chỉnh thể nghệ thuật với sự thống nhất giữa các yếu tố nội tại. Phương pháp nghiên cứu lịch sử xã hội cũng hết sức cần thiết cho chúng tôi khi nghiên cứu thơ Nguyễn Quang Bích. Không ai có thể phủ nhận mối liên hệ chặt chẽ giữa văn học với điều kiện lịch sử, xã hội sản sinh ra nó. Hơn nữa, thời đại mà ông sống là một thời đại đầy bão táp và tập thơ Ngư Phong thi tập như lời của chính ông thực sự là một tập nhật kí bằng thơ về cuộc đời ông cũng như về một giai đoạn bi tráng của lịch sử dân tộc. Vận dụng phương pháp lịch sử xã hội không chỉ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tác phẩm mà qua đó còn thấy được những đóng góp của nhà thơ trong việc ghi lại hiện thực xã hội đương đời. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp để đi vào phân tích những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong việc biểu hiện hình tượng cái tôi trữ tình ở các bài thơ trong “Ngư Phong thi tập” của Nguyễn Quang Bích, từ đó thấy được cá tính sáng tạo, đóng góp của thơ ông đối với văn học trung đại Việt Nam. Các phương pháp trên được sử dụng một cách linh hoạt, kết hợp với các thao tác: thống kê và so sánh, đối chiếu. 5- Đóng góp của luận văn Luận văn khảo sát về hình tượng cái tôi trữ tình trong toàn bộ tập thơ “Ngư Phong thi tập” nhằm giới thiệu chân dung một nhà thơ, một con người hiện thân của tinh thần chống Pháp của quần chúng và sĩ phu Bắc Bộ trong bối cảnh cuộc kháng chiến đặc biệt gay go, gian khổ của núi rừng Tây Bắc vào giai đoạn “khổ nhục nhưng vĩ đại của dân tộc” ở nửa cuối thế kỷ XIX. Từ đó, xác định vị trí thơ văn Nguyễn Quang Bích trong kho tàng văn học Việt Nam thời trung đại. 6- Cấu trúc luận văn: Ngoài phần dẫn nhập và phần kết luận, luận văn gồm 3 chương chính Chương 1- Giới thiệu chung về nhà thơ Nguyễn Quang Bích Trong chương này, chúng tôi giới thiệu khái quát về thời đại, những biến cố lịch sử ở cuối thế kỷ XIX. Bên cạnh đó là trình bày những nét chính về cuộc đời, sự nghiệp văn học của Nguyễn Quang Bích. Một phần không thể thiếu trong chương một là khái niệm về hình tượng cái tôi trữ tình – một tiền đề lí luận để người viết tìm hiểu về cái tôi trữ tình trong “Ngư Phong thi tập” của Nguyễn Quang Bích. Chương 2- Nội dung cái tôi trữ tình trong “Ngư Phong thi tập” của Nguyễn Quang Bích Ở chương hai, chúng tôi khảo sát nội dung cái tôi trữ tình trong “Ngư Phong thi tập” , đặt cái tôi trữ tình trong các mối quan hệ khác nhau : Cái tôi trữ tình trong mối quan hệ với quốc gia, dân tộc; Cái tôi trữ tình trong mối quan hệ với gia đình, đồng chí, người dân; Cái tôi trữ tình tự đối thoại với chính mình; Cái tôi trữ tình trong mối quan hệ với thiên nhiên. Chương 3: Nghệ thuật biểu hiện cái tôi trữ tình trong “Ngư Phong thi tập” Đến chương ba, chúng tôi khảo sát về nghệ thuật biểu hiện cái tôi trữ tình trong “Ngư Phong thi tập” ở ba phương diện chính : thể thơ, ngôn ngữ nghệ thuật, và giọng điệu nghệ thuật. CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NHÀ THƠ NGUYỄN QUANG BÍCH 1.1- Thời đại 1.1.1- Sự khủng hoảng suy vong của vương triều Nguyễn Chế độ phong kiến Việt Nam đã khủng hoảng từ cuối thế kỷ XVIII. Những mầm mống đầu tiên của chủ nghĩa tư bản trong nước đã xuất hiện ngày càng mâu thuẫn đối kháng với quan hệ kinh tế phong kiến bảo thủ, lạc hậu bao đời thống trị xã hội Việt Nam. Nền kinh tế tiểu nông đang cần được phát triển nhưng bị chế độ chiếm hữu và bóc lột phong kiến uy hiếp nghiêm trọng. Đây cũng là thời kỳ bùng nổ các cuộc khởi nghĩa nông dân trên một quy mô rộng lớn trên phạm vi cả nước. Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn thắng lợi đã mở ra nhiều triển vọng cho sự phát triển của lực lượng sản xuất theo hướng tư bản chủ nghĩa. Nhưng dựa vào thế lực tư bản Pháp, Nguyễn Ánh đã đánh thắng Tây Sơn. Ngay sau khi lên ngôi (1802), Nguyễn Ánh lấy niên hiệu là Gia Long và các vua tiếp theo (Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức) vừa ra sức phục hồi và củng cố quan hệ sản xuất cũ, vừa cố tình bóp nghẹt lực lượng sản xuất mới đã manh nha phát triển từ thế kỷ XVIII. Mọi chính sách chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội triều Nguyễn ban hành đều nhằm mục đích duy nhất là bảo vệ đặc quyền đặc lợi cho tập đoàn phong kiến nhà Nguyễn. Bộ máy chính trị triều Nguyễn ngay từ đầu đã mang nặng tính chất quan liêu, độc đoán. Từ vua đến quan đều rất tự cao tự đại với mớ học thuyết Khổng Mạnh lỗi thời, xem trật tự phong kiến là bất di bất dịch, mãi đến lúc súng giặc nổ ầm bên tai mới bàng hoàng tỉnh giấc. Trong hoàn cảnh đó, đời sống của người nông dân trong các thôn xã vô cùng cơ cực. Nền kinh tế tư hữu của nông dân bị xâm phạm nghiêm trọng. Ruộng đất phần nhiều tập trung vào tay bọn quan lại, địa chủ. Nông dân không có ruộng cày, đời sống vô cùng cực khổ. Hiện tượng nông dân không có ruộng đất cày cấy phải bỏ làng đi tha phương cầu thực là nét phổ biến dưới triều Nguyễn. Cộng thêm vào đó là tô thuế rất nặng nề. Đó là chưa kể tới tình trạng vỡ đê, lụt lội, mất mùa đói kém thường xảy ra, hầu như không năm nào không có. Ngay trước khi tư bản Pháp sắp nổ súng vào Đà Nẵng (1858), một trận đói ghê gớm đã xảy ra làm cho hàng chục vạn nhân dân các tỉnh Trung Bắc Kì bị chết. Đồng thời, cũng do sự bất lực của bọn phong kiến thống trị lúc bấy giờ, nạn dịch đã hoành hành dữ dội, giết hại hàng chục vạn người. Trong khi nông nghiệp lâm vào tình trạng tiêu điều xơ xác như vậy thì công nghiệp trong tay bọn phong kiến triều Nguyễn cũng ngày một bế tắc. Phong kiến nhà Nguyễn nắm trong tay những ngành kinh doanh lớn. Các công xưởng lớn đúc súng, đóng tàu, đúc tiền; các xưởng nhỏ chuyên chế tạo đồ dùng riêng cho nhà vua, vàng bạc, gấm vóc; các công trường xây dựng cung điện, thành quách, lăng tẩm đều do bộ Công của triều đình quản lý. Chế độ làm việc trong các công xưởng này là chế độ “công tượng” mang nặng tính chất cưỡng bức lao động. Những người thợ giỏi ở các địa phương bị bắt về đây được biên chế thành đội ngũ, làm việc tập trung với một số lương rất thấp, lại chịu sự kiểm soát nghiêm ngặt của quan lại nên rất bất mãn, không phấn khởi với công việc. Triều đình phong kiến còn giữ độc quyền ngành khai thác mỏ. Lối sản xuất thủ công cá thể với những hình thức bóc lột phong kiến mang nặng tính chất nô dịch đã làm năng suất trong các công trường mỏ thường rất thấp. Nhiều phép tắc vô lý làm hạn chế sự phát triển của ngành khai thác mỏ như quy định những khu vực cấm khai thác mỏ, giữ độc quyền thu mua các kim loại khai thác được theo giá quy định. Các nghề thủ công trong nhân dân không có điều kiện phát triển. Các mối quan hệ phức tạp giữa chủ và thợ, giữa thợ cả và thợ bạn, giữa các làng chuyên nghiệp với nhau với rất nhiều luật lệ cấm đoán của triều đình đã làm cho sáng kiến, tài năng của người thợ ngày càng bị bóp nghẹt. Các nghề thủ công nhỏ và nghề phụ gia đình ở nông thôn còn bị đình đốn vì nông dân đói khổ, li tán. Thủ công nghiệp hầu như bị tê liệt. Thương nghiệp dưới triều Nguyễn sút kém một cách rõ rệt. Chính sách “trọng nông ức thương” của triều đình đã kìm hãm thương nghiệp. Về nội thương, một mặt chúng nắm độc quyền buôn bán nguyên liệu công nghiệp vì sợ nhân dân chế vũ khí chống lại. Mặt khác, chúng đặt ra nhiều luật lệ chặt chẽ để hạn chế việc chuyên chở trao đổi giữa các vùng trong nước, cấm nhân dân họp chợ. Việc giao lưu giữa các địa phương vì vậy gặp rất nhiều trở ngại, thị trường trong nước không tập trung và thống nhất. Ngoại thương cũng bị triều đình nắm độc quyền. Chính sách bế quan tỏa cảng đã làm cho việc buôn bán với nước ngoài sa sút rõ rệt. Nói tóm lại, nền kinh tế tài chính của nước ta trong nửa đầu thế kỷ XIX đã suy đốn trầm trọng về mọi mặt nông, công thương nghiệp. Do chính sách phản động của triều Nguyễn, các yếu tố tư bản chủ nghĩa mới nảy sinh trong các khu vực kinh tế, đang trên đà phát triển tự nhiên và tiến bộ, phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội lúc bấy giờ đều bị bóp nghẹt. Nền kinh tế hàng hóa vì vậy đã bị co hẹp lại. Trên cơ sở đó, nền tài chính quốc gia ngày một kiệt quệ. Đời sống nhân dân ngày càng cực khổ. Mâu thuẫn giữa bọn phong kiến thống trị với nhân dân mà chủ yếu là nông dân đã trở nên vô cùng gay gắt và đã bộc lộ ra ngoài một cách sâu sắc với hàng loạt các cuộc khởi nghĩa nông dân suốt cả mấy đời vua triều Nguyễn. Để duy trì chế độ xã hội thối nát nhằm bảo vệ đặc quyền đặc lợi, phong kiến nhà Nguyễn đã ra sức củng cố trật tự bằng mọi cách. Về đối nội, triều Nguyễn ra sức đàn áp khủng bố các phong trào của quần chúng, huy động những lực lượng quân sự to lớn vào việc dập tắt các cuộc khởi nghĩa nông dân trong biển máu. Các cuộc hành quân liên miên một mặt đã làm cho chính lực lượng quân sự của triều đình suy yếu dần, mặt khác cũng làm hủy hoại khả năng kháng chiến lớn lao của dân tộc, càng tạo thêm điều kiện thuận lợi cho tư bản Pháp thôn tính nước ta. Về đối ngoại, triều đình đẩy mạnh thủ đoạn xâm lược đối với các nước láng giềng như Cao Miên, Lào làm cho quân lực bị tổn thất, tài chính quốc gia và tài lực nhân dân bị khánh kiệt. Còn đối với các nước tư bản phương Tây thì triều Nguyễn ban hành ngày một thêm gắt gao chính sách bế quan tỏa cảng và cấm đạo, giết đạo. Trước âm mưu xâm lược ngày càng ráo riết của bọn tư bản nước ngoài – nhất là tư bản Pháp- phong kiến nhà Nguyễn tưởng làm như vậy là tránh được nạn lớn. Triều đình nhà Nguyễn không thấy được muốn bảo vệ độc lập dân tộc, muốn giữ gìn đất nước trong điều kiện quốc gia và quốc tế bấy giờ, biện pháp thích hợp nhất là mở rộng cửa biển giao thương để duy tân xứ sở, đẩy mạnh phát triển nông công thương trong nước, trên cơ sở đó nhanh chóng bồi dưỡng sức dân, sức nước để có thể đối phó kịp thời và hiệu quả với những âm mưu xâm lược ngày càng được đẩy mạnh của tư bản nước ngoài. Trái lại càng đóng chặt cửa và càng cấm đạo, giết đạo lại càng tạo thêm lý do cho chúng nổ súng xâm lược sớm hơn. Rõ ràng là với những chính sách nói trên, nước Việt Nam đã suy yếu về mọi mặt và trở thành miếng mồi ngon đối với các nước tư bản phương Tây. Đặc biệt đối với tư bản Pháp từ lâu đã có cơ sở bên trong nước ta nhờ sự hoạt động ngấm ngầm và liên tục của bọn gián điệp đội lốt con buôn và giáo sĩ. Lịch sử lúc này đã đi tới một bước ngoặt. Một là triều Nguyễn bị đánh đổ và thay thế vào đó là một triều đại khác tiến theo hướng mới của tư bản chủ nghĩa có khả năng duy tân đất nước và bảo vệ nền độc lập dân tộc. Hai là nước Việt Nam bị mất vào tay tư bản Pháp để trở thành một xứ thuộc địa. Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng khi tiếng súng xâm lược của tư bản Pháp bùng nổ, giai cấp phong kiến Việt Nam đã phân hóa ra hai phái chủ chiến và chủ hòa, phái chủ hòa gồm phần đông bọn đại phong kiến và quan lại lớn với Tự Đức đứng đầu sẽ nhanh chóng câu kết với bọn cướp nước để làm tay sai cho chúng đàn áp và bóc lột nhân dân cả nước. 1.1.2- Sự xâm lược của thực dân Pháp và cuộc đấu tranh chống xâm lược của nhân dân ta Tiếng súng bắn vào cửa biển Đà Nẵng ngày 31 tháng 8 năm 1858 mở màn cho cuộc xâm lược của thực dân Pháp đồng thời báo hiệu một sự chuyển biến lớn lao trong lịch sử dân tộc ta. Từ đó đến cuối thế kỷ, theo quan điểm của bọn thực dân là thời kỳ “chinh phục và bình định”. Đứng về phía ta mà nói thì đó là thời kỳ nhân dân ta đứng lên với tư cách người dân một nước độc lập, đương diện đấu tranh gìn giữ Tổ quốc chống bọn xâm lược nhưng rồi thất bại. Trong việc chinh phục nước ta, đế quốc Pháp theo chiến lược tằm ăn lá dâu, đánh chiếm dần từng mảnh: Nam kỳ, Bắc kỳ rồi toàn quốc. Trước sức tấn công ồ ạt của Pháp, ngay từ đầu, giai cấp phong kiến cầm quyền có trách nhiệm bảo vệ độc lập dân tộc đã tỏ ra hèn nhát và bất lực, trong nội bộ đã sớm có sự phân hóa thành hai phái chủ chiến và chủ hòa. Tiếng súng xâm lược của giặc đã nổ ầm ầm bên tai mà triều đình còn bận bàn cãi, nghị luận lung tung, kẻ hòa, người đánh, trên dưới không nhất trí, đánh hòa không ngã ngũ. Nhưng tựu trung, ý kiến được nhiều người tán thành là chủ hòa. Điều đó khẳng định một thực tế là ngay từ đầu, đại bộ phận hàng ngũ phong kiến cầm quyền đã mang nặng tư tưởng thất bại và có tư tưởng sợ giặc. Trong thời kỳ đầu, vì quyền lợi giai cấp bị trực tiếp đụng chạm nên họ có phản ứng lại. Nhưng vì bất đắc dĩ phải chống cự lại quân thù nên sức chống cự rất hạn chế, để rồi đầu hàng từng bước trước kẻ thù, cuối cùng dâng toàn vẹn lãnh thổ cho chúng. Trong lúc đó, nhân dân ta với truyền thống bất khuất của dân tộc, cương
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan