Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hình phạt tù chung thân trong luật hình sự việt nam luận văn ths. luật...

Tài liệu Hình phạt tù chung thân trong luật hình sự việt nam luận văn ths. luật

.PDF
91
394
94

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ HẢI YẾN HÌNH PHẠT TÙ CHUNG THÂN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2012 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ HẢI YẾN HÌNH PHẠT TÙ CHUNG THÂN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Mạnh Hùng HÀ NỘI - 2012 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng 1.1. MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT TÙ CHUNG THÂN 7 Khái niệm, đặc điểm của hình phạt tù chung thân 7 1.1.1. Khái niệm hình phạt tù chung thân 7 1.1.2. Đặc điểm của hình phạt tù chung thân 8 1.2. Mục đích của hình phạt tù chung thân 15 1.3. Phân biệt hình phạt tù chung thân với các hình phạt chính khác 20 1.3.1. Phân biệt hình phạt tù chung thân và hình phạt tù có thời hạn 21 1.3.2. Phân biệt hình phạt tù chung thân với hình phạt tử hình 23 1.3.3. Phân biệt hình phạt tù chung thân với các loại hình phạt chính khác 26 Hình phạt tù chung thân trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới 27 1.4. 1.4.1. Tổng quan về hình phạt tù chung thân trên thế giới 27 1.4.2. Quy định hiện hành về hình phạt tù chung thân trong luật hình sự của một số nước trên thế giới 33 Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ 38 HÌNH PHẠT TÙ CHUNG THÂN 2.1. Khái quát lịch sử các quy định về hình phạt tù chung thân trong luật hình sự Việt Nam 38 2.1.1. Các quy định của luật hình sự Việt Nam về hình phạt tù chung thân thời kỳ trước năm 1945 38 2.1.2. Các quy định của luật hình sự Việt Nam về hình phạt tù chung thân thời kỳ từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi có Bộ luật Hình sự năm 1985 41 2.1.3. Các quy định của luật hình sự Việt Nam về hình phạt tù chung thân thời kỳ từ 1985 đến 1999 49 Các quy định hiện hành về hình phạt tù chung thân trong luật hình sự Việt Nam 53 2.2.1. Hình phạt tù chung thân theo các quy định thuộc phần chung Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) 53 2.2.2. Hình phạt tù chung thân theo các quy định thuộc Phần Các tội phạm Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 64 2.2. Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ CHUNG THÂN 72 Ở NƢỚC TA VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT NÀY 3.1. Thực tiễn áp dụng hình phạt tù chung thân ở nước ta trong những năm gần đây 72 3.2. Những nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế trong áp dụng hình phạt tù chung thân 75 3.3. Những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt tù chung thân 85 KẾT LUẬN 91 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 94 PHỤ LỤC 99 Danh môc c¸c b¶ng Sè hiÖu b¶ng Tªn b¶ng Trang 1.1 Hình phạt tù chung thân ở một số quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới 29 2.1 Phân loại tội phạm theo Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 (tính theo cấu thành tội phạm) 65 2.2 Các hình phạt trong Phần các tội phạm Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 (tính theo điều luật) 67 2.3 Các tội danh trong Bộ luật Hình sự 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định có áp dụng hình phạt tù chung thân 68 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Để thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng và chống tội phạm, Nhà nước ta đã sử dụng đồng thời nhiều biện pháp về kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục, pháp lý… Trong các biện pháp đó, hình phạt giữ một vai trò rất quan trọng. Nhà làm luật đã xây dựng một hệ thống hình phạt đa dạng với nội dung cưỡng chế, thuyết phục, giáo dục nặng, nhẹ khác nhau, bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Hình phạt tù chung thân là một trong bảy hình phạt chính của hệ thống hình phạt được quy định trong Bộ luật Hình sự hiện hành. Việc quy định hình phạt tù chung thân trong hệ thống hình phạt của Nhà nước ta tạo ra khả năng phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt đối với các loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Hình phạt này giữ vị trí trung chuyển giữa hình phạt tù có thời hạn tối đa là 20 năm và tử hình, làm cho hệ thống hình phạt giữ được tính thống nhất nội tại của nó. Tuy vậy, thực tiễn áp dụng hình phạt tù chung thân đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần được nghiên cứu để đưa ra các giải pháp hoàn thiện các quy định liên quan đến hình phạt này nhằm nâng cao hiệu quả của nó trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Trong bối cảnh hội nhập, mở rộng hợp tác giao lưu quốc tế, Đảng ta có quan điểm, chủ trương mới về cải cách tư pháp: Công tác tư pháp phải ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm hình sự, đặc biệt là các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm nhũng và các loại tội phạm có tổ chức; bảo vệ trật tự kỷ cương; bảo đảm và tôn trọng quyền dân chủ, quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân [10, tr. 3]; Sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù hợp mục tiêu của chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội …Quy định trách nhiệm hình sự nghiêm khắc hơn đối với những tội phạm là người có thẩm quyền trong thực thi pháp luật, những người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội [11, tr. 42]. Để thể chế hóa được những quan điểm, chủ trương của Đảng, chúng ta cần phải nghiên cứu một cách cơ bản, toàn diện về hình phạt nói chung và hình phạt tù chung thân nói riêng phản ánh những đặc điểm và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong điều kiện hội nhập quốc tế, củng cố pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đó sửa đổi, bổ sung cho phù hợp cũng như có những giải pháp cụ thể nâng cao hiệu quả áp dụng chúng. Với những lý do trên, tôi đã chọn đề tài: "Hình phạt tù chung thân trong luật hình sự Việt Nam" làm luận văn tốt nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu 2.1. Trên thế giới Vấn đề hình phạt được rất nhiều chuyên gia trên thế giới nghiên cứu. Đặc biệt là ở Liên Xô trước đây, cụ thể như: Cudriapxep V.N với công trình "Luật pháp và hành vi", Matxcơva 1983 ; Galperin I.M với công trình "Hình phạt, chức năng xã hội và thực tiễn ứng dụng", Matxcơva, 1983; Sargorotxki với công trình "Hình phạt, mục đích và hiệu quả của nó"; Leningrat 1973, Lưxôp M.D với công trình "Hình phạt và việc áp dụng nó đối với các tội chức vụ", Cazan 1987... Song song với xu hướng xóa bỏ hình phạt tử hình trên thế giới trong những thập kỷ gần đây, hình phạt tù chung thân cũng được đưa ra nghiên cứu với tư cách là hình phạt lựa chọn thay thế cho hình phạt tử hình. Trung tâm nghiên cứu về hình phạt tử hình, Trường Luật, Đại học Westminster (Vương quốc Anh) đang nghiên cứu về các hình phạt thay thế hình phạt tử hình trong các quốc gia thành viên của Hội đồng Châu Âu đưa ra sự mâu thuẫn trong bản thân thuật ngữ "tù chung thân" giữa các quốc gia thành viên của Hội đồng Châu âu: sự mâu thuẫn thể hiện ở quy định về thời hạn áp dụng hình phạt tù chung thân. Một số các quốc gia lựa chọn hình thức tù chung thân có thể được ân giảm, còn có một số các quốc gia lại lựa chọn hình phạt tù chung thân suốt đời (không được ân giảm) là hình phạt thay thế cho hình phạt tử hình. Ở Anh cũng có rất nhiều tài liệu nghiên cứu về vấn đề hình phạt tù chung thân - chế tài thay thế hình phạt tử hình: Nigel Walker, "Tội phạm và hình phạt ở Anh", Nhà xuất bản Đại học Edinburgh, 1965; Giáo sư Dirk Van Zyl Smit, bài viết "Thi hành hình phạt tù chung thân nghiêm khắc trong pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế"; Hội đồng tư vấn về hệ thống hình sự, "Các hình phạt tù: xem xét các hình phạt tối đa", HMSO, London, 1978; "Báo cáo của Ủy ban đặc biệt thuộc Thượng viện về tội giết người và án phạt tù chung thân", (HL paper. 78), HMSO, London, 1989; "Kết án chung thân: cải cách pháp luật và thủ tục đối với những người bị kết án tù chung thân", Tạp chí Tư pháp, 1996; Nicola Padfield, "Trên cả thuế quan - quyền con người và phóng thích tù nhân án chung thân", NXB Willan, Devon, 2002; "Những tù nhân án chung thân - Xem xét liên chủ đề bởi cơ quan điều tra nhà nước về nhà tù và trại giam", 1999, http://WWW.homeoffice.gov.uk/docs/lifers1.html; Nicola Padfield, Alison Liebling với Helen Arnold, "Khảo sát việc ra quyết định án chung thân theo quyền tự quyết của Hội đồng xét xử", Nghiên cứu của Văn phòng Bộ Nội vụ, 2000; Andrew Coyle (Giáo sư Đại học London), "Về quản lý tù nhân tù chung thân và tù dài hạn trên thế giới trong bối cảnh quyền con người"; Roger Hood và Stephen Shute với Aidan Wilcox, "Hệ thống ân giảm thực tế: nghiên cứu việc ra quyết định dựa trên rủi ro", Nghiên cứu lý thuyết, số 202, 2000; Nicola Padfield, Alison Liebling với Helen Arnold, "Tìm hiểu việc ra quyết định ở các Ban ân giảm đối với người bị kết án tù chung thân", Nghiên cứu lý thuyết, số 213, 2000. Mỹ là một trong số ít các quốc gia áp dụng hình phạt tù chung thân không được ân giảm. Mỹ đã phải bỏ ra một khoản khổng lồ trong ngân sách quốc gia để đáp ứng yêu cầu giam giữ những phạm nhân bị kết án tù chung thân đang ngày càng già đi và những chi phí để xét ân giảm. Nhìn thấy thực trạng như vậy, các nhà bình luận ở Mỹ đã có một số các nghiên cứu có giá trị để đánh giá về quá trình ra quyết định của các hội đồng xét ân giảm đối với người bị kết án tù chung thân như: James Marquart và Jonathan Sorensen, "Nghiên cứu quốc gia về người phạm tội được áp dụng hình phạt thay thế", Nhà xuất bản Đại học Oxford, 1997. Như vậy, ở những quốc gia đã xóa bỏ hoàn toàn hình phạt tử hình, có rất nhiều nghiên cứu xoay quanh vấn đề áp dụng hình phạt tù chung thân như thế nào đối với những người phạm tội có khung hình phạt tử hình: Áp dụng hình phạt tù chung thân được ân giảm hay áp dụng hình phạt tù chung thân suốt đời, áp dụng loại nào vừa đảm bảo công bằng xã hội, vừa ngăn ngừa họ phạm tội mới, lại vừa mang tính nhân đạo sâu sắc; và có nên áp dụng các hình thức chế tài bổ sung khi áp dụng hình phạt tù chung thân thay cho hình phạt tử hình hay không; điều kiện để tù nhân tù chung thân được xét ân giảm thời hạn chấp hành hình phạt như thế nào cho phù hợp. Cũng có rất nhiều nghiên cứu về vấn đề cách đối xử với người bị thi hành hình phạt tù chung thân và những quyền mà tù nhân tù chung thân nhất thiết phải được bảo đảm. Về vấn đề này, trong Báo cáo của Ngành tư pháp hình sự của Liên hợp quốc năm 1996 cũng đưa ra những khuyến nghị về hình phạt tù chung thân; Hội đồng Châu âu cũng có những hướng dẫn về việc quản lý những phạm nhân tù chung thân và dài hạn. 2.2. Ở Việt Nam Ở Việt Nam, trong những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu ở các mức độ khác nhau về vấn đề hình phạt và hệ thống hình phạt, trong đó có hình phạt tù chung thân. Đó là các công trình như: "Chính sách hình sự và hình phạt" của Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Đào Trí Úc; "Tội phạm học, luật hình sự và tố tụng hình sự" của tập thể tác giả do Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Đào Trí Úc chủ biên; Luận án tiến sĩ Luật học "Các hình phạt chính trong Luật hình sự Việt Nam" của Tiến sĩ Nguyễn Sơn; Luận văn Thạc sĩ Luật học "Hệ thống hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam" của Nguyễn Văn Vĩnh; "Hệ thống hình phạt trong Luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" của Đặng Đức Thạo. Ngoài ra còn có một số bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành về vấn đề này như: "Hình phạt: một số vấn đề lý luận" của Nguyễn Mạnh Kháng, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 10/2000; "Bàn về bản chất và chức năng của hình phạt" của Nguyễn Sơn, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 9/2002; "Một số điểm mới của Bộ luật Hình sự 1999 về hình phạt và quyết định hình phạt" của Đinh Văn Quế, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 02/2001; "Hoàn thiện các quy định của Bộ luật Hình sự về hệ thống hình phạt và quyết định hình phạt" của Phạm Mạnh Hùng, Tạp chí Kiểm sát số 4/2001... Nhìn chung, các công trình đó đã nghiên cứu một cách tổng quát, khái quát về những vấn đề chung của hình phạt và hệ thống hình phạt hoặc về một loại hình phạt nào đó dưới góc độ của luật hình sự thực định. Nhưng cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về lịch sử hình phạt tù chung thân cả trên phương diện luật thực định và thực tiễn áp dụng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Luận văn nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ những nội dung cơ bản về hình phạt tù chung thân (về lý luận, về lịch sử, về so sánh, về xã hội học), từ đó đưa ra kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt tù chung thân trong Luật hình sự Việt Nam. Xuất phát từ mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ cơ bản sau: - Làm sáng tỏ những vấn đề chung về hình phạt tù chung thân trong Luật hình sự Việt Nam: Khái niệm, đặc điểm, lịch sử phát triển, phân biệt với các hình phạt khác trong hệ thống hình phạt; - Đưa ra quy định về hình phạt tù chung thân trong pháp luật một số nước trên thế giới; - Phân tích những quy định về hình phạt tù chung thân trong Bộ luật Hình sự năm 1999 và thực tiễn áp dụng hình phạt này; - Phân tích những nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế trong áp dụng hình phạt tù chung thân và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả của hình phạt này. 4. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài này là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm. Phương pháp nghiên cứu cụ thể là: Phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp xã hội học, phương pháp logic, phương pháp tổng hợp. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn có 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về hình phạt tù chung thân. Chương 2: Hình phạt tù chung thân trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành. Chương 3: Thực tiễn áp dụng hình phạt tù chung thân ở nước ta và một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt tù chung thân. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT TÙ CHUNG THÂN 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA HÌNH PHẠT TÙ CHUNG THÂN 1.1.1. Khái niệm hình phạt tù chung thân Hình phạt tù chung thân là một loại hình phạt chính trong hệ thống hình phạt, nên khái niệm hình phạt nói chung bao trùm cả khái niệm hình phạt tù chung thân. Do vậy, muốn hiểu rõ được khái niệm hình phạt tù chung thân, trước hết chúng ta phải nghiên cứu thế nào là hình phạt. Hệ thống pháp luật là một chỉnh thể thống nhất cấu thành bởi các ngành luật khác nhau. Gắn liền với các ngành luật đó là những biện pháp trách nhiệm pháp lý khác nhau và những chế tài cụ thể khác nhau. Gắn liền với ngành luật hình sự là biện pháp trách nhiệm hình sự và chế tài cụ thể để thực hiện trách nhiệm hình sự là hình phạt. Hình phạt là biện pháp cưỡng chế đặc thù của luật hình sự được áp dụng đối với người thực hiện tội phạm. Lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp khái niệm về hình phạt được quy định rõ ràng, cụ thể trong Bộ luật Hình sự năm 1999. Trước khi khái niệm về hình phạt được quy định chính thức trong Bộ luật Hình sự, thì khái niệm về hình phạt chỉ được nghiên cứu như là một khái niệm có tính chất khoa học trên các tạp chí khoa học, tạp chí chuyên ngành hoặc trong các giáo trình của các trường đại học. Việc Bộ luật Hình sự năm 1999 dành một điều quy định khái niệm về hình phạt là một bước tiến trong công tác lập pháp. Khái niệm hình phạt quy định tại Điều 26 Bộ luật Hình sự đã nêu đầy đủ nội dung, bản chất của hình phạt: "Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong Bộ luật Hình sự và do Tòa án quyết định" [33]. Khái niệm này là sự tiếp thu những kết quả nghiên cứu về hình phạt trong lý luận luật hình sự nước ta. Hiện nay, giới luật học Việt Nam về cơ bản đều thống nhất với khái niệm này. Điều 34 Bộ luật Hình sự hiện hành quy định về hình phạt tù chung thân như sau: "Tù chung thân là hình phạt tù không thời hạn được áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, nhưng chưa đến mức bị xử phạt tử hình" [33]. Tù chung thân là hình phạt tù không thời hạn, tác động trực tiếp đến quyền và lợi ích thiết thân của người bị kết án. Người bị kết án sẽ bị giam giữ trong trại giam, nơi có chế độ giam giữ và cải tạo rất chặt chẽ và nghiêm khắc. Có nghĩa là, tù chung thân là hình phạt tước đi quyền tự do của người bị kết án đến hết đời, cách ly họ vĩnh viễn khỏi môi trường sống bình thường, hay có thể gọi là tù suốt đời. Theo Khoản 3 Điều 8 Bộ luật Hình sự hiện hành, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt là trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Tù chung thân được áp dụng đối với người phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, có thể hiểu là những trường hợp tội phạm xâm hại đến những khách thể rất quan trọng của pháp luật hình sự, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi người phạm tội rất lớn, việc thực hiện tội phạm gây ra hậu quả đặc biệt lớn về an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tính mạng, sở hữu tài sản. Trên cơ sở Khoản 3 Điều 8 Bộ luật Hình sự, Điều 26 Bộ luật Hình sự, Điều 34 Bộ luật Hình sự, có thể đưa ra khái niệm hình phạt tù chung thân như sau: Tù chung thân là hình phạt tù tước quyền tự do của người bị kết án đến hết đời, được áp dụng đối với người phạm tội có tính nguy hiểm đặc biệt lớn cho xã hội, nhưng chưa đến mức bị xử phạt tử hình. 1.1.2. Đặc điểm của hình phạt tù chung thân * Đặc điểm chung: Với tư cách là một loại hình phạt trong hệ thống hình phạt, Hình phạt tù chung thân có đầy đủ những đặc điểm chung của hình phạt như sau: Một là, hình phạt tù chung thân là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước Cưỡng chế là thuộc tính của pháp luật nói chung. V.I.Lênin đã từng nói: "Pháp luật không có gì hết, nếu thiếu bộ máy bảo đảm cưỡng chế sự tuân theo các quy định của pháp luật" [19]. Trong đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm thì hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất, được áp dụng phổ biến và có lịch sử lâu đời. Tính cưỡng chế của hình phạt là dùng quyền lực nhà nước bắt phải tuân theo. Tức là, hình phạt được bảo đảm bằng sức mạnh của quyền lực nhà nước. Trong lịch sử loài người, mọi hình thức nhà nước đều sử dụng hình phạt như là biện pháp cưỡng chế để điều chỉnh các quan hệ xã hội và áp dụng các biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc đối với những cá nhân có hành vi gây nguy hiểm cho sự tồn tại của xã hội. Tính nghiêm khắc của hình phạt tù chung thân thể hiện ở chỗ, khi được áp dụng hình phạt có thể tước bỏ hoặc hạn chế những quyền và lợi ích thiết thân nhất của người bị kết án đến hết đời, như quyền tự do, quyền chính trị, quyền sở hữu…; gây nên những tổn hại về thể chất, vật chất và tinh thần không chỉ cho người bị kết án mà còn cho gia đình, những người thân thích của họ. Với tư cách là hình phạt hình sự, bất kể nặng hay nhẹ đều dẫn tới hậu quả pháp lý chung là làm cho người bị kết án phải mang án tích trong một thời hạn nhất định. Án tích là hậu quả tất yếu của hình phạt nói chung và của hình phạt tù chung thân nói riêng. Đó là dấu hiệu pháp lý rất đặc trưng của hình phạt, án tích có thể làm cho người bị kết án chịu một số hạn chế nhất định. Và "tình tiết có án tích sẽ là đặc điểm về nhân thân bất lợi cho người có đặc điểm đó trong nhiều hoạt động của đời sống xã hội cũng như khi có hành vi phạm pháp hay phạm tội" [14, tr. 27]. Hai là, Hình phạt tù chung thân gắn liền với tội phạm Với tính chất là một dạng của trách nhiệm hình sự và một hình thức để thực hiện trách nhiệm hình sự, hình phạt chỉ có thể xuất hiện khi có sự việc phạm tội. Không có tội phạm thì không thể có hình phạt. Hình phạt là hậu quả pháp lý của hành vi phạm tội, là thước đo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Như vậy, giữa tội phạm và hình phạt có mối quan hệ nhân quả. Quan niệm như thế nào về tội phạm thì sẽ có quan niệm tương ứng về hình phạt. Tội phạm và hình phạt có mối quan hệ biện chứng với nhau, người nào thực hiện tội phạm mới phải chịu hình phạt và ngược lại hình phạt chỉ áp dụng với người thực hiện tội phạm. Tội phạm càng nghiêm trọng thì hình phạt càng nghiêm khắc. Sự cân đối giữa hình phạt với tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm tạo cơ sở để áp dụng luật hình sự một cách hợp lý, công bằng và có hiệu quả. Ba là, hình phạt tù chung thân được quy định trong Luật Hình sự Trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985, Luật hình sự của nước ta chưa đầy đủ, nên nhiều hành vi có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đáng kể cần phải xử lý về hình sự nhưng chưa được quy định trong các văn bản pháp luật hình sự và cũng chưa có điều kiện bổ sung pháp luật hình sự một cách kịp thời, Nhà nước đã cho phép Tòa án áp dụng pháp luật tương tự để xét xử những người thực hiện hành vi ấy. Ví dụ như: Pháp lệnh ngày 30/7/1967 về trừng trị các tội phản cách mạng quy định: "Đối với những tội phản cách mạng chưa nêu trong pháp lệnh này thì áp dụng những điều về tội phạm tương tự trong Pháp lệnh này mà xét xử". Hai pháp lệnh cùng ngày 21/10/1970 về trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và về trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân cũng quy định như vậy. Nhược điểm của nguyên tắc này là có khả năng dẫn đến sự tùy tiện trong công tác điều tra, truy tố, xét xử. Trong các công tác này, sự tùy tiện có thể có hại trên cả hai mặt: hoặc không bảo vệ đúng đắn lợi ích của nhà nước, của tập thể; hoặc vi phạm các quyền tự do dân chủ của nhân dân. Vì vậy, sau các lần pháp điển hóa, Pháp luật hình sự nước ta không cho phép áp dụng hình phạt đối với những hành vi không được quy định trong Bộ luật Hình sự là tội phạm và nếu hình phạt ấy cũng không được quy định trong hệ thống hình phạt hiện hành và trong chế tài của điều luật cụ thể. Quy định này đã khẳng định không áp dụng pháp luật tương tự trong luật hình sự. Và đây là một yêu cầu nghiêm khắc của nguyên tắc pháp chế, bảo đảm cho pháp luật hình sự được áp dụng thống nhất. Chỉ có Bộ luật Hình sự mới được quy định hệ thống hình phạt hình sự; nội dung, phạm vi, điều kiện cho phép áp dụng từng loại hình phạt cũng như khung hình phạt của từng tội phạm cụ thể. Hiện nay, văn bản luật duy nhất quy định các loại hình phạt là Bô luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (Bộ luật Hình sự hiện hành). Trong Bộ luật Hình sự, hình phạt tù chung thân được quy định ở cả phần chung và phần các tội phạm. Ở phần chung, Điều 34 quy định hình phạt tù chung thân với tư cách là hình phạt chính với nội dung: đưa ra khái niệm hình phạt tù chung thân, các trường hợp được áp dụng và không được áp dụng hình phạt tù chung thân. Ở phần các tội phạm, hình phạt tù chung thân được quy định là chế tài lựa chọn kèm theo các tội phạm cụ thể; được quy định chủ yếu trong các chương về các tội xâm phạm an ninh quốc gia; các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh; các tội đặc biệt nghiêm trọng trong các chương xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; các tội xâm phạm sở hữu; các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; các tội phạm về ma túy; các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng; các tội phạm về chức vụ và các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Theo Bộ luật Hình sự hiện hành, hình phạt tù chung thân được quy định tại 58/272 điều luật quy định về tội phạm. Bốn là, Hình phạt tù chung thân do tòa án áp dụng đối với người bị kết án Trong lĩnh vực hình sự, việc giải quyết vụ án phải thông qua các giai đoạn tố tụng hình sự được quy định rất chặt chẽ, nghiêm ngặt trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam. Toàn bộ quá trình tố tụng hình sự đều do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện: Ở giai đoạn điều tra, do cơ quan điều tra thực hiện các hoạt động điều tra tội phạm dưới sự kiểm sát của Viện kiểm sát; ở giai đoạn truy tố, do Viện kiểm sát thực hành quyền công tố, thay mặt Nhà nước truy tố bị can và buộc tội bị cáo trước tòa; ở giai đoạn xét xử, Tòa án là cơ quan xét xử của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 127, Hiến pháp năm 1992). Chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động, hành chính (Điều 1, Luật Tổ chức Tòa án năm 2002). Chỉ có tòa án mới có quyền nhân danh Nhà nước quyết định một người có tội hay không có tội, có phải chịu hình phạt hay không và nếu phải chịu thì loại và mức hình phạt cụ thể được áp dụng như thế nào (Điều 26 Bộ luật Hình sự). Hình phạt do tòa án quyết định phải được tuyên bằng một bản án trong một phiên tòa xét xử công khai theo trình tự, thủ tục do Luật tố tụng hình sự quy định. Tòa án có toàn quyền xét xử và quyết định hình phạt độc lập không lệ thuộc vào bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào. Tòa án là cơ quan nhân danh Nhà nước thông qua việc xét xử để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo tôn trọng, tự do tính mạng, tài sản, danh dự nhân phẩm của công dân… góp phần giáo dục công dân tôn trọng và chấp hành pháp luật trong cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. Năm là, Hình phạt tù chung thân chỉ được áp dụng đối với cá nhân người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm. Khác với Luật hình sự một số nước trên thế giới (như Anh, Mỹ, Pháp, Hà Lan, Bỉ, Nhật, Trung Quốc…) có quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân, theo Luật Hình sự Việt Nam thì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm hình sự cá nhân. Vì vậy, hình phạt nói chung và hình phạt tù chung thân nói riêng chỉ có thể áp dụng đối với chính người có hành vi phạm tội, chứ không được phép áp dụng với các thành viên trong gia đình hoặc đối với những người thân thiết khác của người phạm tội, ngay cả trong những trường hợp người phạm tội lẩn tránh hình phạt. Tòa án không được áp dụng hình phạt đối với pháp nhân hoặc tổ chức, vì luật hình sự Việt Nam không thừa nhận pháp nhân hoặc tổ chức là chủ thể của tội phạm. Dấu hiệu này nói lên tính chất cá nhân của hình phạt. * Đặc điểm riêng: Là công cụ bảo đảm cho Luật Hình sự thực hiện được nhiệm vụ bảo vệ và đấu tranh phòng, chống tội phạm, bên cạnh những đặc điểm chung, hình phạt tù chung thân có những đặc điểm riêng vốn có của nó. Cụ thể là: Một là, mức độ nghiêm khắc của hình phạt tù chung thân trong hệ thống hình phạt chỉ đứng sau hình phạt tử hình: Hình phạt tù chung thân là hình phạt có khả năng tước đoạt tự do đến hết đời, bị cách ly vĩnh viễn khỏi môi trường sống bình thường. Có nghĩa là, người bị kết án có thể phải sống phần đời còn lại của mình trong trại giam, toàn bộ hoạt động của người bị thi hành án tù chung thân đều bị kiểm soát chặt chẽ và phải tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật: lao động, học tập, các sinh hoạt cá nhân, công việc hàng ngày, chế độ ăn, ngủ… Hình phạt này giữ vị trí trung chuyển giữa hình phạt tù có thời hạn tối đa là 20 năm và hình phạt tử hình, làm cho hệ thống hình phạt giữ được tính thống nhất nội tại của nó; tạo ra khả năng phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa trách nhiệm hình sự đối với các loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tù chung thân chỉ được áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, nhưng chưa đến mức bị xử phạt tử hình. Theo thực tiễn xét xử, đó là những trường hợp phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng về an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tính mạng, sở hữu tài sản và có nhiều tình tiết tăng nặng đáng kể. Thông thường hình phạt này được áp dụng đối với những trường hợp mà nếu áp dụng hình phạt tù có thời hạn đến hai mươi năm tù thì vẫn còn nhẹ nhưng nếu phạt tử hình thì chưa thật cần thiết. Mục đích của hình phạt tù chung thân cũng giống như mục đích của hình phạt nói chung, là mục đích cuối cùng mà Nhà nước mong muốn đạt được khi áp dụng hình phạt. Đó là mục đích: bảo đảm công bằng xã hội và phòng ngừa tội phạm (gồm phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng). Giáo dục, cải tạo người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn chặn người phạm tội tái phạm, được gọi là mục đích phòng ngừa riêng của hình phạt. Đối với người bị kết án, sau khi trải qua sự mong manh giữa sự sống và cái chết, họ sẽ cảm thấy quý trọng cuộc sống của mình hơn, yêu tự do, và sẽ quyết tâm cải tạo tốt để trở thành người có ích cho xã hội. Từ đó, Họ có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội, không phạm tội mới. Như vậy, mục đích phòng ngừa riêng của hình phạt tù chung thân đã đạt được. Mục đích phòng ngừa chung thể hiện rất rõ ràng, mạnh mẽ qua loại hình phạt này. Hình phạt tù chung thân khi được áp dụng không chỉ tác động trực tiếp đến người bị kết án mà còn tác động mạnh và gây ảnh hưởng rộng lớn đến các thành viên khác trong xã hội, giáo dục các thành viên khác trong xã hội nâng cao ý thức pháp luật, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Hai là, hình phạt tù chung thân là hình phạt duy nhất trong hệ thống hình phạt có thể thay thế hình phạt tử hình: Trong pháp luật hình sự nước ta, ranh giới về điều kiện áp dụng giữa hình phạt tù chung thân hoặc tử hình là không rõ ràng, rành mạch, bởi vậy, tòa án khi xét xử cần phải xem xét vụ án một cách khách quan, toàn diện, chính xác để đảm bảo khi áp dụng đạt được mục đích phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung. "Khi cân nhắc giữa hình phạt tử hình và hình phạt tù chung thân mà cảm thấy băn khoăn không biết nên áp dụng hình phạt nào thì cương quyết không áp dụng hình phạt tử hình mà áp dụng hình phạt tù chung thân" [29, tr. 192]. Điều 35 Bộ luật Hình sự quy định: "Trong trường hợp người bị kết án tử hình được ân giảm, thì hình phạt tử hình chuyển thành tù chung thân". Chế định ân giảm án tử hình theo Luật Hình sự Việt Nam thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta đối với mọi công dân; thể hiện sự bao dung của Nhà nước và xã hội đối với người bị kết án. Ba là, hình phạt tù chung thân không có tính linh hoạt trong áp dụng: Hình phạt tù chung thân không có nhiều mức độ để Tòa án có thể lượng hóa khi áp dụng đối với từng tội phạm với mức nguy hiểm cho xã hội khác nhau. Ví dụ như, đối với hình phạt tù có thời hạn, tòa án có thể lựa chọn mức từ 3 tháng đến 20 năm tù. Hoặc đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, tùy theo tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, tòa án có thể lựa chọn mức từ 3 tháng đến 3 năm. Hình phạt tù chung thân chỉ chứa đựng duy nhất một mức độ không thể tăng lên hay giảm xuống để áp dụng cho mọi trường hợp phạm tội đáng phải bị áp dụng loại hình phạt này. 1.2. MỤC ĐÍCH CỦA HÌNH PHẠT TÙ CHUNG THÂN Điều 27 Bộ luật Hình sự hiện hành quy định: Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm [33]. Tuy nhiên, trong khoa học luật hình sự, vấn đề mục đích của hình phạt vẫn còn tồn tại những quan điểm khác nhau chưa thống nhất. Nhìn chung, có thể thấy sự khác nhau căn bản của các quan điểm đó thể hiện cụ thể như sau: 1) Phần lớn các nhà luật học cho rằng mục đích của hình phạt là giáo dục, cải tạo người phạm tội để họ trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội, có ý thức tuân thủ pháp luật. Còn trừng trị chỉ là thuộc tính, là nội dung, là biện pháp để đạt mục đích giáo dục, cải tạo và phòng ngừa tội phạm. 2) Một số tác giả khác lại cho rằng mục đích của hình phạt bao gồm hai yếu tố: trừng trị và giáo dục, cải tạo. 3) Có tác giả lại cho rằng, từ góc độ hình sự và tội phạm học có thể phân chia mục đích của hình phạt thành các loại sau: một là, cải tạo, giáo dục phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung (mục đích trực tiếp); hai là,
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan