Hiệu quả nuôi ăn sớm sau phẫu thuật cắt đoạn dạ dày nội soi điều trị ung thư dạ dày tại bệnh viện quân y 103
HIỆU QUẢ NUÔI ĂN SỚM SAU PHẪU THUẬT CẮT ĐOẠN DẠ DÀY NỘI
SOI ĐIỀU TRN UNG THƯ DẠ DÀY TẠI BỆNH VIỆN QUÂN Y 103
Đặt vấn đề: Đến nay nuôi ăn sớm sau phẫu thuật tiêu hóa ở Việt Nam chưa được
quan tâm đúng mức. Vì vậy chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm xác định
hiệu quả của việc nuôi ăn sớm sau phẫu thuật cắt đoạn dạ dày.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 90 bệnh nhân ung thư 1/3 dưới dạ dày
được phẫu thuật cắt đoạn dạ dày nội soi từ 1/2010 đến 6/2013 tại Bệnh viện 103,
chia làm 2 nhóm: nhóm nuôi ăn sớm 45 bệnh nhân và nhóm nuôi đường tĩnh mạch.
Bệnh nhân trong nhóm nuôi ăn sớm bắt đầu một chế độ ăn sữa qua sonde dạ dày từ
ngày đầu sau mổ đến khi có trung tiện. Các chỉ tiêu so sánh bao gồm: tình trạng
bụng, trung tiện, ngày điều trị sau mổ.
Kết quả: Nuôi ăn sớm thực hiện được ở 93,3%, trung bình 1 bệnh nhân được
1.028 ml sữa(1.028 Kcal). Sau mổ tình trạng bụng, trung tiện, biến chứng giữa 2
nhóm không có sự khác biệt với p>0,05. Ngày nằm điều trị sau mổ ở nhóm nuôi ăn
sớm là 6,93 ±1,65 ngày, nhóm nuôi đường tĩnh mạch là 7,42 ±1,75 ngày, khác biệt
với p = 0,034.
Kết luận: Nuôi dưỡng sớm sau phẫu thuật cắt đoạn dạ dày do ung thư là an toàn,
khả thi, giúp cho bệnh nhân hồi phục sớm giảm ngày nằm điều trị.
* Từ khóa: cắt đoạn dạ dày do ung thư, nuôi ăn sớm.
Effects of early enteral feeding after laparoscopic distant
gastrectomy for gastric cancer at Hospital 103.
Background: Today in Vietnam, early enteral feeding after gastrointes- -tinal
surgery has not been given due attention. So we performed this study to determine
the effect of early enteral feeding after gastric resection.
Material and method: 90 lower third gastric carcinoma patients, who underwent
laparoscopicgastrectomy from 1/2010 to 6/2013 at 103 Hospital, divided into 2
groups: early enteral feeding group and intravenous feeding group. Patients in the
early enteral feeding group started a diet of milk through the sonde from the first
day after surgery until flatus. The comparison criteria include: abdominal
condition, flatus, postoperative day.
Result: Early feeding is performed at 93.3%, the average of one patient was 1.028
ml milk (1.028 kcal). Postoperative abdominal condition, flatus, complications of
the 2 groups were the same with p > 0,05. Postoperative day in early feeding group
was 6.93 ± 1.65 days, the control group was 7.42 ± 1.75 days, differences with p =
0.034.
Conclusion: Early enteral feeding following a gastrectomy for gastric cancer is
safe, feasible and can result in faster recovery of bowel function and a shorter
hospitalization.
Key words: Gastric cancer resection, early enteral feeding.
* Bệnh viện Quân Y 103, ** HVQY
1. Đặt vấn đề.
Nuôi dưỡng có vai trò quan trọng trong điều trị bệnh nói chung và điều trị ngoại
khoa nói riêng vì bệnh nhân phải vượt qua cuộc phẫu thuật, mất máu, mất thể dịch.
Có hai đường nuôi dưỡng chính là nuôi dưỡng qua đường tĩnh mạch và qua đường
ruột, nhiều nghiên cứu đã so sánh hiệu quả hai phương pháp nuôi dưỡng này và
thấy rằng nuôi dưỡng qua đường ruột mang lại giá trị dinh dưỡng và hiệu quả tốt
hơn đường tĩnh mạch[1], [3], [11].
Toàn bộ đường ống tiêu hoá đều có khả năng hấp thu, nhưng hấp thu ở ruột non là
quan trọng nhất vì hai lý do: thứ nhất niêm mạc ruột non có cấu trúc đặc biệt tạo
nên diện tích hấp thu lớn nhất trong ống tiêu hóa, thứ hai các chất dinh dưỡng qua
quá trình tiêu hoá khi đến ruột non đã sẵn sàng ở dạng hấp thu được. Chính nhờ sự
hấp thu ở ruột non mà cơ thể nhận được các chất dinh dưỡng cần thiết đáp ứng cho
hoạt động sống của mình.
Dinh dưỡng trong bệnh ngoại khoa được chia ra 3 thời kỳ: dinh dưỡng trước phẫu
thuật, dinh dưỡng trong thời gian chuẩn bị phẫu thuật và dinh dưỡng sau khi phẫu
thuật. Quan điểm trước kia không cho bệnh nhân ăn qua đường tiêu hóa trong giai
đoạn sau phẫu thuật. Bệnh nhân phải nhịn ăn và nuôi dưỡng hoàn toàn bằng đường
tĩnh mạch cho đến khi có trung tiện. Việc này đòi hỏi một chi phí lớn cho điều trị
do phải bù đủ đạm, nước, điện giải và đảm bảo đủ lượng calo cần thiết để nuôi
dưỡng cơ thể. Hơn nữa một số bệnh nhân có thời gian trung tiện muộn, thời kỳ liền
vết thương kéo dài nguy cơ suy dinh dưỡng càng tăng cao [1], [8], [10].
Ung thư dạ dày (UTDD) là bệnh lý ác tính hàng đầu trong trong ung thư đường
tiêu hóa, điều trị chủ yếu bằng phẫu thuật [8]. Theo thông báo của tổ chức nghiên
cứu ung thư Quốc tế, năm 2008 thế giới có 989.600 ca mới mắc và 738.000 ca tử
vong. Tại Việt Nam, tỷ lệ mới mắc hàng năm trên 100.000 dân ở nam giới là 24 và
nữ là 11.
Tại khoa Ngoại bụng, Bệnh viện Quân y 103 hàng năm có khoảng 300 bệnh nhân
UTDD được phẫu thuật, phần lớn bệnh ở giai đoạn tiến triển, cơ thể suy mòn suy
kiệt. Với mục đích nuôi dưỡng bệnh nhân sau phẫu thuật cắt dạ dày điều trị UTDD
được tốt hơn góp phần nâng cao hiệu quả của điều trị chúng tôi tiến hành nghiên
cứu đề tài: “Hiệu quả nuôi ăn sớm sau phẫu thuật cắt đoạn dạ dày nội soi điều trị
ung thư dạ dày tại Bệnh viện 103.”
* Mục tiêu nghiên cứu.
- Đánh giá tính an toàn, khả thi trong nuôi ăn sớm sau phẫu thuật cắt đoạn dạ dày
điều trị UTDD.
- Đánh giá hiệu quả nuôi ăn sớm sau phẫu thuật cắt đoạn dạ dày.
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu.
2.1. Đối tượng và cỡ mẫu nghiên cứu:
- Gồm 90 bệnh nhân được chẩn đoán ung thư biểu mô tuyến dạ dày, được phẫu
thuật cắt dạ dày nạo vét hạch D2 nội soi từ tháng 1/2010 đến tháng 6/2013 tại Bệnh
viện 103. Bệnh nhân được chia thành 2 nhóm: nhóm nuôi ăn sớm qua ống thông dạ
dày (viết tắt là nhóm nuôi ăn sớm) 45 BN và nhóm nuôi dưỡng đường tĩnh mạch
45 BN.
- Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân:
+ Bệnh nhân được phẫu thuật cắt đoạn dạ dày nạo vét hạch D2 nội soi.
+ Nhóm bệnh nhân được chọn nuôi ăn sớm sau mổ phải tỉnh, tự thở hoàn toàn,
trong mổ được đặt ống thông dạ dày qua miệng nối dạ dày hỗng tràng.
- Tiêu chuẩn loại trừ:
+ Bệnh nhân không phải PTNS nạo vét hạch D2, không cắt đoạn dạ dày hoặc cắt
toàn bộ dạ dày, cắt dạ dày kết hợp cắt cơ quan khác.
+ Bệnh nhân sau mổ không tỉnh, thở máy hoặc không được đặt ống thông dạ dày
qua miệng nối dạ dày hỗng tràng.
2.2. Phương pháp nghiên cứu:
a. Phương pháp: Tiến cứu can thiệp có đối chứng.
b. Quy trình nghiên cứu được thực hiện như sau:
- Trong mổ đặt ống thông dạ dày đưa qua miệng nối dạ dày hỗng tràng.
- Sau mổ BN được theo dõi 4 giờ, tỉnh táo, tự thở hoàn toàn mới cho ăn sữa qua
ống thông.
- Các bệnh nhân được nuôi ăn theo 1 chế độ thống nhất, sữa Ensure Gold, pha theo
tiêu chuẩn quy định, 1ml sữa cung cấp 1 Kcalo, lượng ăn 20ml /1 giờ ngày đầu sau
mổ, 25ml/ giờ từ ngày thứ 2 sau mổ đến khi có trung tiện.
- 1 hộp sữa Ensure Gold pha được 1.725 Kcal.
2.3. Công cụ và các chỉ tiêu nghiên cứu:
a. Công cụ:
- Hồ sơ bệnh án người bệnh phẫu thuật.
- Ống thông dạ dày.
- Phiếu theo dõi bệnh nhân sau phẫu thuật.
- Sữa Ensure Gold và phương tiện pha sữa theo chuẩn, mỗi bệnh nhân cần 2 hộp, 1
hộp có giá 316.000 VN đồng.
- Túi Nutriflex Lipid peri, mỗi ngày cần 1 túi có giá 900.000 VN đồng.
- Cân để cân trọng lượng bệnh nhân.
- Thước đo chiều cao.
- Đồng hồ
- Phiếu ghi chép các thông số người bệnh
b. Các chỉ số thu thập:
- Tuổi, giới, chỉ số khối cơ thể BMI.
- Tổng số lượng sữa nuôi dưỡng (ml).
- Tình trạng bụng trước khi trung tiện: mềm, trướng nhẹ, trướng vừa, trướng căng.
- Tình trạng nôn: Không buồn nôn, buồn nôn và nôn.
- Biến chứng: chảy máu, nhiễm khuẩn, viêm phổi, áp xe tồn dư, rò miệng nối, rò
mỏm tá tràng.
- Thời gian trung tiện (giờ), ngày điều trị sau mổ.
2.4. Tổng hợp và xử lý số liệu:
Sử dụng phần mềm SPSS 15.0
3. Kết quả nghiên cứu.
Trong 45 bệnh nhân nuôi ăn sớm, có 3 trường hợp sau khi cho ăn ngày đầu tiên
bệnh nhân xuất hiện đầy bụng, khó chịu, bụng chướng, quyết định dừng nuôi ăn
qua sonde. 42 bệnh nhân nuôi ăn được thực hiện đến ngày trung tiện, cho ăn nhẹ
qua đường miệng đạt 93,3%.
Nuôi ăn 2 ngày: 41 BN, có 1 trường hợp trung tiện ở ngày thứ 2, chỉ nuôi ăn 1
ngày đầu, 2BN nuôi ăn ngày thứ 3, 1 BN nuôi ăn đến ngày thứ 4.
Tổng lượng sữa nuôi ăn cho 42 BN là 43.200ml, tính trung bình 1.028 ml/1 BN
- 1 BN được nuôi 1.028 ml sữa với giá 182.806 VN đồng, tiết kiệm được 785.989
VN đồng.
- 42 BN nuôi dưỡng tiết kiệm được 33.011.538 VN đồng.
4. Bàn luận.
* Đặc điểm dinh dưỡng bệnh nhân trước mổ.
Bảng 1, so sánh các chỉ số về tuổi, giới và chỉ số khối cơ thể ở 2 nhóm thấy rằng
không có sự khác biệt với p> 0,05. Theo quy định của tổ chức dinh dưỡng thế giới,
chỉ số BMI dưới 20 kg/m2 được xem là suy dinh dưỡng [2]. Cả 2 nhóm nuôi ăn
sớm và nhóm chứng đều có chỉ số BMI trung bình là thấp: 19,96±1,95 và 20,22
±1,99 kg/m2. Điều này hoàn toàn phù hợp với đặc điểm dinh dưỡng của người Việt
Nam và đặc điểm bệnh nhân UTDD đến viện đã ở giai đoạn muộn, do vậy nhu cầu
được nuôi dưỡng thực sự cần thiết.
* Tình trạng bụng sau mổ.
Sau phẫu thuật vùng bụng, bệnh nhân được gây mê nội khí quản, do vậy những giờ
đầu sau mổ chúng tôi đặc biệt quan tâm tới tình trạng ý thức và hô hấp của người
bệnh. Những giờ đầu sau mổ cho bệnh nhân nằm đầu cao, thở oxy, đề phòng tình
trạng trào ngược dịch từ đường tiêu hóa vào phổi nên chúng tôi chưa nuôi ăn ngay.
Một số tác giả có quan điểm nuôi ăn ngay, một số lại nuôi ăn từ ngày thứ 2 sau mổ
(Hur 2009) [7]. Chúng tôi lựa chọn 4 giờ sau mổ, bệnh nhân tỉnh hoàn toàn, tự thở
tốt, các chỉ số tim mạch ổn định mới bắt đầu nuôi ăn.
Sau phẫu thuật đường tiêu hóa, trong những ngày đầu chưa có nhu động ruột
thường bụng mềm xẹp, một số trường hợp bệnh nhân đầy hơi hoặc tăng trương lực
cơ thành bụng do đau nên cảm giác bụng chướng nhẹ. Mặc dù bệnh nhân chưa
được ăn, nhưng dịch mật, dịch tụy, dịch dạ dày và dịch niêm mạc ruột vẫn được
tiết ra, các dịch này sẽ được hấp thu trở lại qua niêm mạc ruột. Vì vậy nuôi ăn sớm
không những không có hại mà còn đưa thêm các chất dinh dưỡng vào để làm tăng
khả năng hấp thu của ruột [1].
Bảng 2 cho thấy các chỉ số về tình trạng bụng giữa 2 nhóm không có sự khác biệt
với p>0,05. Nhóm nuôi ăn 39/45 bệnh nhân bụng mềm hoàn toàn, có 5 bệnh nhân
chướng nhẹ và 1 bệnh nhân chướng căng. Chúng tôi đã dùng thuốc giảm đau và an
thần, 3 bệnh nhân vẫn tiến hành nuôi ăn thuận lợi, chỉ có 3 bệnh nhân phải dừng
nuôi ăn (6,67%). Tình trạng nôn và buồn nôn ở nhóm nuôi dưỡng đường tĩnh mạch
là 20% và nhóm nuôi ăn thấp hơn là 13,33%, không có trường hợp nào nôn, tuy
nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.
* Tai biến và biến chứng sau mổ.
Biến chứng đáng sợ nhất sau phẫu thuật dạ dày là rò mỏm tá tràng và rò miệng nối,
bảng 3 cho thấy cả 2 biến chứng này đều không xảy ra trong nhóm nghiên cứu.
Nhóm nuôi ăn sớm gặp 1 bệnh nhân nhiễm trùng vết mổ (2,22%), nhóm nuôi
dưỡng đường tĩnh mạch gặp 1 bệnh nhân viêm phổi (2,22%) và 1 bệnh nhân áp xe
tồn dư (2,22%), không có trường hợp nào tử vong hay phải mổ lại. Khác biệt giữa
2 nhóm không có ý nghĩa thống kê với p >0,05. Do vậy có thể kết luận nuôi ăn
sớm không liên quan đến các biến chứng sau mổ. Tác giả Lee và cộng sự đã
nghiên cứu nuôi ăn sớm ở những bệnh nhân phẫu thuật tiêu hóa cấp cứu và thấy
rằng nuôi ăn sớm qua sonde dạ dày là an toàn và khả thi, cần thận trọng hơn ở
những bệnh nhân có shock chấn thương [9].
Để tìm hiểu tính an toàn và khả thi của việc nuôi ăn sớm sau phẫu thuật tiêu hóa,
Lewis S.J. năm 2001 đã phân tích 13 nghiên cứu của các tác giả khác nhau trên thế
giới và kết luận rằng nuôi ăn sớm qua đường ruột trong phẫu thuật tiêu hóa có thể
thực hiện được, an toàn và khả thi [10].
* Phục hồi lưu thông sau mổ.
Đánh giá sự phục hồi lưu thông sau mổ là có nhu động ruột và trung tiện. Bảng 4
thời gian trung tiện trung bình của nhóm nuôi ăn sớm là 49,11±9,76 giờ, của nhóm
nuôi dưỡng đường tĩnh mạch là 49,6±7,93 giờ. Cho ăn nhẹ bằng đường miệng của
nhóm nuôi dưỡng sớm là 3,11±0,43 ngày, của nhóm nuôi dưỡng tĩnh mạch là 3,24
±0,48 ngày, khác biệt giữa 2 nhóm không có ý nghĩa thống kê với p> 0,05. Hur và
cộng sự thấy thời gian trung tiện của nhóm nuôi dưỡng sớm là 1,96 ± 0,58 ngày
nhanh hơn nhóm không nuôi dưỡng là 2,97 ± 0,66 ngày, khác biệt với p < 0,001
[7].
Ngày điều trị sau mổ ở nhóm nuôi dưỡng sớm là 6,93±1,65 ngày, cải thiện hơn so
với nhóm nuôi dưỡng đường tĩnh mạch là 7,42 ±1,75 ngày, khác biệt có ý nghĩa
thống kê với p< 0,05(p = 0,034). Nghiên cứu của Lee và cộng sự thấy ngày điều trị
sau mổ nhóm nuôi ăn sớm là 9 ngày và nhóm không nuôi dưỡng là 12 ngày
(p=0,012) [9]. Hur ngày nằm điều trị sau mổ nhóm nuôi dưỡng sớm và không nuôi
dưỡng là 8,03±1,43 và 9,97 ± 2,07 ngày với p <0,001 [7].
* Giá trị nuôi dưỡng bằng sữa Ensure?
Trong sữa ensure có đầy đủ các chất protein, lipit, glucid và các chất khoáng.
Protein trong sữa bao gồm: casein, lactoalbumin và lactoglobulin. Casein là một
loại photphoprotit có đủ tất cả các axit amin cần thiết cho cơ thể. Lipid trong sữa
có giá trị sinh học cao, ở trong trạng thái nhũ tương và có độ phân tán cao; có
nhiều axit béo chưa no cần thiết, có nhiều photphatit là một photpho lipit quan
trọng, có độ tan chảy thấp và dễ đồng hóa. Glucid trong sữa là lactoza, là một loại
đường kép, khi thủy phân cho 2 phân tử đường đơn là galactoza và glucoza.
Hơn nữa trong sữa có nhiều chất khoáng; Ca, K, P vì vậy sữa là thức ăn gây kiềm.
Canxi trong sữa dễ đồng hóa vì nó dưới dạng liên kết với casein (caseinat canxi).
Do vậy sữa ensure là nguồn thức ăn dễ hấp thu ngay tại niêm mạc hỗng tràng. Với
cách pha 53,5 g sữa trong 195ml nước được 200ml sữa cung cấp 200 kcal cho
người bệnh (1ml tương đương 1 kcal).
Kết quả nuôi ăn tại bảng 5, 45 BN nuôi ăn sớm, thực hiện được 42 BN đạt 93,3%,
3 BN sau khi cho ăn xuất hiện chướng bụng, khó chịu đã được dừng nuôi dưỡng.
Braga tiến hành nuôi 25ml/kg/ngày đáp ứng được nuôi dưỡng là 91% [4], Carr
nuôi dưỡng được 1622 kcal/BN [5]. Tác giả Jo nuôi ăn sớm sau cắt đoạn dạ dày
cho 132 BN, đáp ứng nuôi dưỡng được 89% [8]. Trung bình 1 BN nuôi dưỡng
được 1.028 ml sữa cung cấp 1.028 k cal.
Lợi ích dinh dưỡng và kinh tế, tại bảng 6 thấy 1 BN nếu nuôi ăn sớm bằng ống
thông dạ dày tiết kiệm được 785.989 VN đồng, 42 BN tiết kiệm được 33.011.538
VN đồng.
5. Kết luận.
- Qua nghiên cứu nuôi dưỡng sớm sau mổ chúng tôi thấy rằng nuôi ăn sớm qua
ống thông dạ dày sau mổ cắt đoạn dạ dày điều trị ung thư dạ dày là an toàn, khả thi
và có thể thực hiện được.
- Hiệu quả nuôi ăn sớm giúp cho bệnh nhân hồi phục sớm và giảm ngày nằm điều
trị 7,42 ngày xuống 6,93, khác biệt có ý nghĩa thống kê với p = 0,034. Tiết kiệm
được chi phí nuôi dưỡng 1 BN là 785.989 VN đồng, 42 BN là 33.011.538 VN
đồng.
6. Kiến nghị.
Từ kết quả nghiên cứu này, trong công tác nuôi dưỡng bệnh nhân sau mổ nói
chung và đường tiêu hóa nói riêng cần chủ động nuôi dưỡng cho bệnh nhân ăn
sớm, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng sau mổ.
Cần thiết mở rộng nghiên cứu nuôi dưỡng sớm trong các phẫu thuật đường tiêu
hóa khác để đánh giá hiệu quả nuôi dưỡng sớm chính xác hơn.
Tài liệu tham khảo.
1.
Trần Văn Tập (2008), Chế độ ăn trong một số bệnh ngoại khoa, Dinh
dưỡng lâm sàng, Bộ môn Dinh dưỡng, HVQY, NXB Quân đội Nhân Dân,
tr 97-100.
2.
Abunnaja S., Cuviello A., Sanchez J.A. (2013) “Enteral and Parenteral
Nutrition in the Perioperative Period: State of the Art”, Nutrients, vol 5,
pp: 608-623.
3.
Bozzetti F., Braga M., Gianotti L. et al (2001), “Postoperative enteral
versus parenteral nutrition in malnourished patients with
gastrointestinal cancer: a randomized multicentre trial”, Lancet, Vol.
358, pp: 1487-92.
4.
Braga M., Gianotti L. et al (2002),“Feeding the gut early after
digestive surgery: results of a nine-year experience”Clinical
Nutrition Vol. 21(1): pp.59–65.
5.
Carr C.S., Ling K.D., Boulos P., Singer M. (1996), “Randomised trial of
safety and efficacy of immediate postoperative enteral feeding in patients
undergoing gastrointestinal resection”,BMJ. Vol 312 (7035) pp:869-871.
6.
Gabor S., Renner H., Matzi V. et al (2005), “Early enteral feeding
compared with parenteral nutrition after oesophageal or oesophago -gastric
resection and reconstruction”, British Journal of Nutrition, Vol. 93,
pp:509–513.
7.
Hur H., Si Y., Kang W.K., Kim W., Jeon H. (2009), “Effects of Early
Oral Feeding on Surgical Outcomes and Recovery After Curative Surgery
for Gastric Cancer: Pilot Study Results”, World Journal of Surgery, Vol.
33(7), pp 1454-1458.
8.
Jo D.H., Jeong O., Sun J.W. Et al (2011), “Feasibility Study of Early
Oral Intake after Gastrectomy for Gastric Carcinoma” J Gastric Cancer,
Vol. 11(2), pp:101-108.
9.
Lee H.S., Shim H., Jang J.Y., Lee H. (2014), “ Early Feeding Is Feasible
after Emergency Gastrointestinal Surgery”, Yonsei Med J, Vol. 55 (2),
pp:395-400.
10 Lewis S.J., Egger M., Sylvester P.A. and Thomas S. (2001), “Early
enteral feeding versus “nil by mouth” after gastrointestinal surgery:
systematic review and metaanalysis of controlled trials”, BMJ, Vol. 323,
pp: 773-776.
11 More F.A., Feliciano D.V. et al (1992), “Early enteral feeding compared
with parenteral reduces postoperative septic complications. The results of a
meta- analysis ”, Ann Surg, Vol. 216 (2), pp: 172-183.
CNĐD Trần Tuấn Anh (Khoa Ngoại Bụng, Bệnh viện quân y 103, HVQY)**
Bs Trương Thị Thư (Hệ sau đại học, Học Viện Quân y)*
Ths Hồ Chı́ Thanh (Khoa Ngoại Bụng, Bệnh viện quân y 103, HVQY)**
PGS TS Nguyễn Văn Xuyên (Khoa Ngoại Bụng, Bệnh viện quân y 103, HVQY)**
- Xem thêm -