Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hệ thống nhân vật nữ và nam thuộc tầng lớp chủ trong tác phẩm hồng...

Tài liệu Hệ thống nhân vật nữ và nam thuộc tầng lớp chủ trong tác phẩm hồng

.PDF
64
536
70

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC PHẠM THỊ NGỌC HỆ THỐNG NHÂN VẬT NỮ VÀ NAM THUỘC TẦNG LỚP CHỦ TRONG TÁC PHẨM HỒNG LÂU MỘNG CỦA TÀO TUYẾT CẦN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Sơn La, năm 2014 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC PHẠM THỊ NGỌC HỆ THỐNG NHÂN VẬT NỮ VÀ NAM THUỘC TẦNG LỚP CHỦ TRONG TÁC PHẨM HỒNG LÂU MỘNG CỦA TÀO TUYẾT CẦN Chuyên ngành: Văn học nƣớc ngoài KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Ngƣời hƣớng dẫn: ThS. Hà Thị Hải Sơn La, năm 2014 LỜI CẢM ƠN Khóa luận được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của cô giáo, ThS. Hà Thị Hải. Nhân dịp khóa luận được hoàn thành em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới cô, người đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em trong suốt thời gian qua. Em xin gửi lời cảm ơn tới tổ Lí luận - Văn học Nước ngoài, tập thể các thầy cô khoa Ngữ Văn, thư viện và phòng Đào tạo Trường Đại học Tây Bắc, cùng thầy cô giáo chủ nhiêm và tập thể lớp K51 ĐHSP Ngữ Văn đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này. Khóa luận còn nhiều hạn chế do khả năng của người thực hiện, cũng như tài liệu nghiên cứu còn thiếu thốn. Rất mong được sự góp ý chân thành từ thầy cô và các bạn. Em xin chân thành cảm ơn! Sơn La, tháng 5 năm 2014 Ngƣời thực hiện Phạm Thị Ngọc MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................. 1 2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................ 2 2.1. Ở Trung Quốc .......................................................................................... 2 2.2. Ở Việt Nam .............................................................................................. 3 3. Đối tượng, phạm vi, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................. 5 3.1. Đối tượng nghiên cứu............................................................................... 5 3.2. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................. 5 3.3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................ 5 3.4. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................... 5 4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 6 4.1. Phương pháp khảo sát văn bản ................................................................. 6 4.2. Phương pháp so sánh................................................................................ 6 4.3. Phương pháp phân tích ............................................................................. 6 5. Đóng góp của khóa luận ................................................................................. 6 6. Cấu trúc của khóa luận ................................................................................... 6 CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ...................................................... 7 1.1. Tác giả Tào Tuyết Cần và Cao Ngạc ........................................................ 7 1.1.1. Tác giả Tào Tuyết Cần ....................................................................... 7 1.1.2. Tác giả Cao Ngạc ............................................................................... 8 1.2. Tác phẩm Hồng lâu mộng ........................................................................ 8 1.2.1. Quá trình sáng tác tác phẩm Hồng lâu mộng ...................................... 8 1.2.2. Hoàn cảnh ra đời tác phẩm Hồng lâu mộng ....................................... 9 1.2.3. Khái quát về nội dung và nghệ thuật tác phẩm Hồng lâu mộng ........ 10 1.3. Một số vấn đề lí luận .............................................................................. 13 1.3.1. Nhân vật văn học ............................................................................. 13 1.3.2. Hệ thống nhân vật văn học ............................................................... 14 Tiểu kết ............................................................................................................ 16 CHƢƠNG 2. NHỮNG ĐIỂM GIỐNG VÀ KHÁC NHAU GIỮA HỆ THỐNG NHÂN VẬT NỮ VÀ NAM THUỘC TẦNG LỚP CHỦ TRONG HỒNG LÂU MỘNG ........................................................................................ 18 2.1. Nguồn gốc xuất thân .............................................................................. 18 2.2. Ngoại hình ............................................................................................. 20 2.3. Tính cách ............................................................................................... 23 2.3.1. Những điểm giống nhau về tính cách của hệ thống nhân vật nữ và nam thuộc tầng lớp chủ .............................................................................. 23 2.3.2. Những điểm khác nhau về tính cách giữa hệ thống nhân vật nữ và nam thuộc tầng lớp chủ .............................................................................. 32 3.3. Tài năng ................................................................................................. 34 3.3.1. Tài năng trong lĩnh vực nghệ thuật ................................................... 34 3.3.2. Tài quản lí kinh tế ............................................................................ 37 Tiểu kết ............................................................................................................ 39 CHƢƠNG 3. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HỆ THỐNG NHÂN VẬT NỮ VÀ NAM THUỘC TẦNG LỚP CHỦ TRONG HỒNG LÂU MỘNG .......... 40 3.1. Dùng nhân vật phụ để làm nổi bật nhân vật chính .................................. 40 3.2. Sử dụng bút pháp “phạm mà không phạm” trong xây dựng hệ thống nhân vật ................................................................................................................. 44 3.2.1. Cặp đôi Lâm Đại Ngọc và Tiết Bảo Thoa ........................................ 44 3.2.2. Cặp đôi Phượng Thư và Thám Xuân ................................................ 47 3.2.3. Cặp đôi Giả Trân và Giả Liễn .......................................................... 49 3.3. Đặt nhân vật trong mối quan hệ huyết thống .......................................... 51 3.4. Sử dụng con số để liên kết hệ thống nhân vật ......................................... 53 Tiểu kết ............................................................................................................ 55 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 56 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 58 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Hồng lâu mộng là một kiệt tác của nền văn học Trung Quốc. Người Trung Hoa say mê đọc và bình luận về Hồng lâu mộng đến nỗi nói: “Khai đàm bất thuyết Hồng lâu mộng, độc tận thi thƣ diệc uổng nhiên” (chuyện trò không nói Hồng lâu mộng thì đọc hết thi thư cũng vô ích). Ở Trung Quốc có hẳn một ngành chuyên nghiên cứu về Hồng lâu mộng đó là ngành Hồng học. Chưa có tiểu thuyết cổ điển nào của Trung Quốc có được vinh dự ấy. Sự ra đời của Hồng lâu mộng đánh dấu một bước phát triển vượt bậc của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc. Lỗ Tấn nhận xét: “Điểm khác biệt của Hồng lâu mộng với các cuốn tiểu thuyết trƣớc đây là dám tả thật không che đậy. Bởi vậy các nhân vật đƣợc miêu tả ở đây đều là nhƣng con ngƣời thật. Nói chung sau khi Hồng lâu mộng ra đời, cách viết và cách tƣ duy truyền thống hoàn toàn bị phá vỡ” [14, II, 675]. Tác phẩm miêu tả hơn bốn trăm nhân vật, mỗi người một vẻ, vô cùng hấp dẫn và sinh động, trong số đó hệ thống nhân vật nữ và nam thuộc tầng lớp chủ là các nhân vật được Tào Tuyết Cần chú trọng xây dựng: Giả Bảo Ngọc, Lâm Đại Ngọc, Tiết Bảo Thoa là những nhân vật trung tâm tác phẩm, xoay quanh mối tình tay ba giữa ba người. Tuy nhiên, bên cạnh đó tác giả cũng chú trọng miêu tả các nhân vật nữ và nam thuộc tầng lớp chủ khác một cách hết sức sinh động, chi tiết từ chân dung, tính cách, tài năng… Chọn đề tài này giúp tôi hiểu sâu sắc hơn hệ thống nhân vật trong Hồng lâu mộng và tài năng sáng tạo nghệ thuật của Tào Tuyết Cần. 1.2. Hồng lâu mộng được rất nhiều độc giả yêu mến. Tác phẩm đã được dịch ra khoảng hơn hai mươi thứ tiếng trên thế giới như: Anh, Pháp, Đức, Ý, Hi Lạp, Nhật, Triều Tiên, Ấn Độ, Việt Nam… Hồng lâu mộng được xếp vào hàng “Tứ đại kì thƣ” (pho sách lạ nhất đời) thật sự phản ánh toàn diện và sâu sắc gương mặt văn hóa Trung Quốc. Tác phẩm được chuyển thể thành phim truyện và được công chiếu ở nhiều quốc gia trên thế giới. Ngoài sự thu hút về mặt nội dung mới mẻ, hấp dẫn, độc giả không thể quên được hệ thống các nhân vật trong tác phẩm. Tác phẩm có rất nhiều hệ thống nhân vật như: Hệ thống nhân vật thuộc tầng lớp chủ, hệ thống nhân vật thuộc tầng lớp a hoàn, hệ thống nhân vật thuộc tầng lớp quan lại,... Nhưng hệ thống nhân vật thuộc tầng lớp chủ để lại 1 cho độc giả ấn tượng sâu sắc nhất. Họ không chỉ đẹp ở ngoại hình mà còn có tính cách phức hợp, mang chất thực của con người hiện tại. Tìm hiểu đề tài này không chỉ giúp tôi hiểu sâu sắc hơn về nhân vật, về tài năng nghệ thuật xây dựng hệ thống nhân vật mà còn giúp tôi thấy được vẻ đẹp của tác phẩm và có thể hiểu vì sao người Trung Quốc và Việt Nam lại yêu thích Hồng lâu mộng như vậy. 1.3. Tác phẩm Hồng lâu mộng được giảng dạy trong chương trình đại học, trong học phần Văn học Trung Quốc. Nghiên cứu Hồng lâu mộng và lựa chọn đề tài này giúp tôi hiểu sâu hơn về tác phẩm, cũng như hiểu thêm về các tác phẩm Trung Quốc và phục vụ tốt hơn cho quá trình giảng dạy phần văn học nước ngoài ở nhà trường phổ thông sau này. Từ những lí do trên đã thúc đẩy tôi tìm hiểu, nghiên cứu đề tài này. Hy vọng rằng khóa luận sẽ là tài liệu tham khảo có ích cho các bạn sinh viên yêu thích tác phẩm Hồng lâu mộng và bộ môn văn học Trung Quốc. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Ở Trung Quốc Trong cuốn Lí luận văn học nghệ thuật cổ điển Trung Quốc tác giả Khâu Chấn Thanh nhấn mạnh tới yếu tố “yếu tân kí biệt chí” (phải mới mẻ độc đáo) trong quan điểm sáng tác của Tào Tuyết Cần: “Tào Tuyết Cần coi sáng tạo mới mẻ là thƣớc đo quan trọng để đánh giá một tác phẩm hay hay dở. Hồng lâu mộng sở dĩ trở thành đỉnh cao của tác phẩm hiện thực chủ nghĩa của Trung Quốc, điều đó có quan hệ mật thiết với việc tác giả đã dám đi vào con đƣờng mà ngƣời trƣớc chƣa đi, ra sức đạt tới sự mới mẻ độc” [ 20, 259]. Trong cuốn Lịch sử văn học Trung Quốc, tập 2, các nhà nghiên cứu thuộc viện khoa học xã hội Trung Quốc đã đánh giá cao tài xây dựng nhiều nhân vật cùng một lúc và tài miêu tả tính cách của các nhân vật tạo nên sự sinh động, nhất quán trong xây dựng nhân vật và hệ thống xây dựng nhân vật như sau: “Trong Hồng lâu mộng, Tào Tuyết Cần miêu tả nhiều nhất là phụ nữ, mà chủ yếu lại là những thiếu nữ giống nhau hoặc na ná nhƣ nhau về độ tuổi, hoàn cảnh sống, cách sống. Rõ ràng điều đó làm cho việc miêu tả gặp rất nhiều khó khăn. Nhƣng Tào Tuyết Cần không những có thể miêu tả đƣợc hết sức rõ ràng cá tính của từng ngƣời mà đến cả những tính cách gần giống nhau, chỉ khác ở những nét đặc trƣng hết sức tinh tế cũng đƣợc ông khắc họa rõ ràng, tỉ mỉ. Thí dụ tính ôn 2 hòa thuần hậu, dịu dàng của Bình Nhi khác với tính ôn hòa thuần hậu của Tập Nhân; tính phóng khoáng bộc trực của Sử Tƣơng Vân khác với tính phóng khoáng bộc trực của chị Ba Vƣu; Lâm Đại Ngọc và Diệu Ngọc đều quen tính kiêu kì, cô độc, nhƣng họ lại có điểm khác nhau, một ngƣời nhập thế, còn ngƣời kia xuất thế. Tính kiêu kì, cô độc của Lâm Đại Ngọc khiến ngƣời ta cảm thấy nóng, nhƣng cũng tính này ở Diệu Ngọc lại làm cho ngƣời ta thấy lạnh” [13, 676]. Trong cuốn Khái yếu lịch sử văn học Trung Quốc, tác giả Thạch Xương Du chú ý tới bi kịch tình yêu và hôn nhân trong tác phẩm cùng tính chất hiện thực của tác phẩm mà ít chú ý tới nghệ thuật xây dựng hệ thống nhân vật. Đánh giá về tác phẩm Hồng lâu mộng, tác giả cho rằng: “Tiểu thuyết Hồng lâu mộng miêu tả sự suy vong của một đại gia đình quý tộc, miêu tả bi kịch tình yêu, hôn nhân của Giả Bảo Ngọc, Lâm Đại Ngọc và Tiết Bảo Thoa trong đại gia đình đó. Bi kịch trong Hồng lâu mộng phản ánh mối xung đột không thể điều hòa giữa yêu cầu của nam nữ thanh niên thời đó đối với tự do cá tính và chế độ phong kiến. Bộ tiểu thuyết này đã nắm đúng vấn đề trọng đại nhất ở thời kì cuối chế độ Phong kiến, thể hiện khuynh hƣớng tƣ tƣởng dân chủ ban đầu. Đây là bộ tiểu thuyết hiện thực chủ nghĩa vĩ đại nhất thời trung đại Trung Quốc” [15, 153, 156]. 2.2. Ở Việt Nam Trong cuốn Để hiểu tám bộ tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, tác giả Lương Duy Thứ đã đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật như sau: “Hồng lâu mộng chú ý thể hiện tính cách nhân vật qua hành động và ngôn ngữ” [21, 197]. Đặc biệt Lương Duy Thứ đề cập đến tính chất điển hình của các nhân vật nữ thuộc tầng lớp chủ như: Lâm Đại Ngọc, Tiết Bảo Thoa, Vương Hy Phượng... Đại Ngọc hiện lên với tính cách “đa sầu đa cảm là đặc trƣng tính cách của nàng” [21, 167], Bảo Thoa lại hiện lên với một vẻ khác: “Tiết Bảo Thoa là một giai nhân phong kiến chuẩn mực” [21, 164]. Phượng Thư lại được tác giả nhận xét: “Phƣợng Thƣ lại tiêu biểu cho bản chất nham hiểm độc ác của giai cấp thống trị” [21, 155]. Trong cuốn Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, tác giả Trần Xuân Đề đã đề cập đến nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật, tác giả cho rằng: “Từ hành động nhân vật khắc họa tính cách nhân vật là một trong những đặc điểm nghệ thuật nổi bật của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc. Tác giả thƣờng thông qua miêu tả 3 hành động để khắc họa tính cách nhân vật” [5, 160] hay: “Trong Hồng lâu mộng, Tào Tuyết Cần cho nhân vật hoạt động trong làn sóng đấu tranh và sự xung đột của gia đình, xã hội để biểu hiện tính cách và bộ mặt tinh thần của nhân vật” [5, 166]. Cuốn Lịch sử văn học Trung Quốc, tập 2, do Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) đã nhận xét về nghệ thuật xây dựng nhân vật và xây dựng hệ thống nhân vật Hồng lâu mộng như sau: “Nghệ thuật xây dựng nhân vật và xây dựng nhiều nhân vật cùng một lúc là một thành tựu to lớn của Hồng lâu mộng. Hồng lâu mộng là tác phẩm có số lƣợng nhân vật đông đúc, 443 nhân vật (230 nam và 213 nữ). Mặc dù số lƣợng đông, nhƣng các nhân vật đều có máu thịt, cá tính rõ nét. Có nhân vật chỉ vài phác họa cũng để lại ấn tƣợng cho ngƣời đọc. Điều đáng chú ý là phần đông nhân vật là thiếu nữ, tuổi xấp xỉ, hoàn cảnh sống, quá trình giáo dục cũng tƣơng tự, nhƣng tính cách lại hết sức khá nhau. Tào Tuyết Cần không những rất tài hoa trong việc miêu tả những nhân vật có tính cách đối lập mà còn rất tinh tế miêu tả những tính cách giống nhau. Các nhân vật vừa “Phạm vào nhau lại tránh nhau rất xa” (Lời Kim Thánh Thán nói về nhân vật Thủy hử) [ 16, 154]. Trong đề tài nghiên cứu khoa học Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tác phẩm Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần, tác giả Hà Thị Hải cũng đã đề cập đến một số biện pháp xây dựng hệ thống nhân vật như: bút pháp “Song quản tề hạ”, sử dụng phép “Bàng sấn”, đặt nhân vật trong quan hệ huyết thống, sử dụng con số để liên kết hệ thống nhân vật. Tác giả cũng đưa ra những nhận xét như sau: “Tác giả Hồng lâu mộng chú trọng, dồn tâm sức và bút lực vào việc khắc họa hình tƣợng những ngƣời phụ nữ, đặc biệt là mƣời hai cô gái đẹp trong phủ Giả. Đó là mƣời hai cô gái không chỉ tuyệt đẹp mà còn thông minh, tài giỏi, cá tính rõ nét. Có thể gọi là mƣời hai cô gái tài mạo song toàn. Hệ thống nhân vật mƣời hai cô gái đẹp này hoàn toàn tƣơng phản với những nhân vật nam trong tác phẩm cả về trí tuệ, tài năng và tính cách. Mƣời hai cô gái đẹp này không những tài thơ, khả năng hội họa, thƣởng thức tuồng kịch đều vƣợt trội hơn những ngƣời đàn ông mà đến khả năng quản lí kinh tế, sự thông tuệ nam nhân ít sánh kịp” [6, 73]. 4 Nhìn chung, theo dòng chảy của thời gian, với nhiều góc độ tiếp nhận, các nhà nghiên cứu đã đạt được những thành quả rất đáng trân trọng trong việc nghiên cứu hệ thống nhân vật trong Hồng lâu mộng. Tuy nhiên, những tài liệu mà chúng tôi bao quát được chưa có chuyên luận nào đề cập cụ thể, tỉ mỉ đến sự giống và khác nhau giữa hệ thống nhân vật nữ và nam thuộc tầng lớp chủ cũng như nghệ thuật xây dựng hai hệ thống nhân vật này. Khóa luận của chúng tôi sẽ đi sâu vào những vấn đề đó và tiếp thu có chọn lọc những ý kiến của các thế hệ đi trước ở tất cả những vấn đề có liên quan. 3. Đối tƣợng, phạm vi, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu Nghiên cứu hệ thống nhân vật nữ và nam thuộc tầng lớp chủ trong tác phẩm Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu sự giống, khác nhau giữa hệ thống nhân vật nữ và nam thuộc tầng lớp chủ, đồng thời nghiên cứu một số biện pháp nghệ thuật xây dựng hai hệ thống nhân vật này. Văn bản khảo sát là tiểu thuyết Hồng lâu mộng, ba tập, do nhóm dịch giả: Vũ Bội Quang, Trần Quảng, Nguyễn Đức Vân... dịch, NXB Văn học, Hà Nội, 2002. Một số vấn đề lí luận và thực tiễn liên quan đến khóa luận này cũng được chúng tôi quan tâm tìm hiểu. 3.3. Mục đích nghiên cứu Làm nổi bật và khẳng định tài năng sáng tạo nghệ thuật của Tào Tuyết Cần thông qua việc tìm hiểu, phân tích, so sánh hệ thống nhân vật nữ và nam thuộc tầng lớp chủ và một số biện pháp nghệ thuật xây dựng hai hệ thống nhân vật này trong tác phẩm Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần. 3.4. Nhiệm vụ nghiên cứu Nhiệm vụ chủ yếu của người nghiên cứu là phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu để làm nổi bật đặc điểm giống và khác nhau của hệ thống nhân vật nữ và nam thuộc tầng lớp chủ, đồng thời tìm hiểu đôi nét về nghệ thuật xây dựng hai hệ thống nhân vật này của Tào Tuyết Cần. 5 4. Phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Phƣơng pháp khảo sát văn bản Chúng tôi dựa vào việc khảo sát, thống kê, phân loại một số dữ liệu cần thiết, cụ thể để phân tích, chứng minh cho những nhận định, đánh giá trong khóa luận. Thống kê, phân loại những chi tiết để làm sáng tỏ những nét về nguồn gốc xuất thân, ngoại hình, tính cách, tài năng tương đồng và khác biệt giữa hệ thống nhân vật nữ và nam thuộc tầng lớp chủ, thống kê những chi tiết gắn với các thủ pháp nghệ thuật xây dựng hệ thống nhân vật nữ và nam thuộc tầng lớp chủ trong Hồng lâu mộng. 4.2. Phƣơng pháp so sánh Đây là phương pháp quan trọng nhất để tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa hệ thống nhân vật nữ và nam thuộc tầng lớp chủ. So sánh đồng đại, so sánh lịch đại, đặt các nhân vật trong mối quan hệ đa chiều để làm nổi bật sự sinh động, hấp dẫn và tính chân thực của các nhân vật. 4.3. Phƣơng pháp phân tích Chúng tôi phân tích những đặc điểm về nguồn gốc xuất thân, ngoại hình, tính cách, tài năng và các thủ pháp nghệ thuật được tác giả sử dụng khi xây dựng hệ thống nhân vật nữ và nam thuộc tầng lớp chủ và phân tích nhân vật theo đặc trưng thể loại. 5. Đóng góp của khóa luận Khóa luận chỉ ra một cách cụ thể, chi tiết những điểm tương đồng và khác biệt giữa hệ thống nhân vật nữ và nam thuộc tầng lớp chủ cùng một số biện pháp nghệ thuật xây dựng hai hệ thống nhân vật nữ và nam thuộc tầng lớp chủ, giúp bạn đọc hiểu thêm về tài năng sáng tạo nghệ thuật của Tào Tuyết Cần. 6. Cấu trúc của khóa luận Ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận bao gồm ba chương: Chương 1. Những vấn đề chung Chương 2. Những điểm giống và khác nhau giữa hệ thống nhân vật nữ và nam thuộc tầng lớp chủ trong Hồng lâu mộng Chương 3. Một số biện pháp nghệ thuật xây dựng hệ thống nhân vật nữ và nam thuộc tầng lớp chủ trong Hồng lâu mộng 6 CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Tác giả Tào Tuyết Cần và Cao Ngạc 1.1.1. Tác giả Tào Tuyết Cần Tào Tuyết Cần tên thật là Tào Triêm, tự là Mộng Nguyễn, hiệu Tuyết Cần. Ngoài ra ông còn có tên khác: Cần Phố, Cần Khê. Ông sinh khoảng năm 1716. Tổ tiên xa xưa của ông là người Hán, sau đó vì nhiều lí do đã nhập tịch Mãn Châu. Tuy nhiên, có điều chắc chắn rằng từ đầu đời Thanh cho đến thế hệ Tào Tuyết Cần, nhà họ Tào là một “bách niên vọng tộc”. Cụ cố năm đời của Tào Tuyết Cần là Tào Châu Ngạn được bổ làm tri châu Cát Châu, phủ Bình Dương (Sơn Tây), đến thời cụ nội Tào Tuyết Cần là Tào Tỉ, nhà họ Tào đã có mối quan hệ khá mật thiết với nhà vua đương triều là Khang Hy. Tào Tỉ đảm nhận chức Giang Ninh, chức tạo giám đốc suốt 22 năm, vợ Tào Tỉ là vú nuôi của Khang Hy. Sau Tào Tỉ, đến Tào Dần là ông nội của Tuyết Cần và bố đẻ hay chú bác Tuyết Cần đều lần lượt sung chức ấy, trước sau đến 65 năm. Ngoài ra, dòng họ Tào rất giàu truyền thống văn học, Tào Dần đã đứng ra lo việc hiệu đính và in ấn bộ Toàn Đƣờng thi. Đời Tào Dần là thời kì cực thịnh của dòng họ Tào. Vợ Tào Dần là con gái Lí Sĩ Trinh - tuần phủ Giang Nam; hai con gái của Tào Dần đều làm Vương phi. Tào Dần đã có vinh hạnh bốn lần được tiếp giá khi nhà vua Khang Hy đi tuần du phương Nam chọn hành cung là Tào phủ. Như vậy, đủ biết nhà vua đã tin tưởng và sủng ái họ Tào như thế nào. Nhưng vinh quang mà họ Tào có được cũng là mầm mống gây họa cho gia tộc lớn này. Mặt khác, chính mối quan hệ mật thiết với Khang Hy cũng khiến các nhà vua kế nhiệm tìm cách diệt trừ họ Tào. Cho nên, khi Ung Chính lên ngôi, nội bộ hoàng tộc khuynh loát nhau dữ dội thì đến năm Ung Chính thứ 5 (1729), Tào Thiếu bị tội mất chức, gia sản bị tịch thu, năm sau cả gia đình từ Giang Nam dọn về Bắc Kinh. Nhà họ Tào từ đó sa sút. Thời niên thiếu, Tào Tuyết Cần có thời kì sống trong vinh hoa phú quý. Tuy nhiên thời gian này ngắn ngủi vì cha mắc tội, bị cách chức, bị tịch biên gia sản, nên khi ông trưởng thành, gia đình phải dời về ngoại ô phía tây Bắc Kinh sinh sống. Lúc này, gia đình Tào Tuyết Cần sống nghèo khổ, ông đã phải làm đủ nghề như: dạy học, vẽ tranh để kiếm sống, trải qua cuộc sống “ăn cháo và mua chịu rƣợu” [16, 133]. 7 Gia đình quý tộc đã ảnh hưởng đến Tào Tuyết Cần ở hai mặt chủ yếu: Mặt thứ nhất, trên con người ông để lại nhiều dấu vết giai cấp khó xóa mờ, khiến ông quyến luyến không thể cắt đứt được với giai cấp của mình, đặc biệt là thế giới quan của ông nhuốm rất đậm màu sắc hư vô và bi quan; mặt thứ hai, cũng là mặt quan trọng hơn, gia đình ông từ chỗ cực thịnh đến chỗ cực suy, sự thay đổi to lớn ấy không thể không dẫn đến sự thay đổi trong tư tưởng và tình cảm của ông. Cuộc sống nghèo khổ giúp ông nhận thức bản chất xấu xa và tội ác của giai cấp xuất thân, khiến ông phải hồi tưởng lại một cách đau xót và sâu sắc về những điều mình đã trải qua. Nhưng chính hoàn cảnh, cuộc sống, sự thay đổi, thịnh suy của xã hội lại cung cấp vốn kiến thức dồi dào cho việc sáng tác của Tào Tuyết Cần sau này. Ông mất khoảng năm 1763 vì căn bệnh lao. 1.1.2. Tác giả Cao Ngạc Bản thảo dở dang Tào Tuyết Cần để lại chỉ 80 hồi đặt tên là Thạch đầu kí. Người viết tiếp 40 hồi sau là Cao Ngạc, tự Lan Thự (Lan Sử), biệt hiệu Hồng lâu mộng ngoại sử, đỗ cử nhân năm Mậu Thân - Càn Long 53 (1788), làm quan Nội các Trung thư rồi Thị Độc, Giang Nam ngự sử hình khoa cấp sự trung. Cao Ngạc là tác giả của các sách: Lại trị tập yếu, Lan thự văn tồn, Lan Thự tập nghệ. 1.2. Tác phẩm Hồng lâu mộng 1.2.1. Quá trình sáng tác tác phẩm Hồng lâu mộng Hồng lâu mộng ra đời như là một bản tổng kết, một bức tranh sinh động về hiện thực đời sống xã hội mà Tào Tuyết Cần đã trải qua. Xuất thân trong gia đình “hào môn vọng tộc” nhưng đã sa sút đến mức cùng cực, ông viết Hồng lâu mộng khi cả gia đình phải rau cháo qua ngày ở ngoại ô phía tây Bắc Kinh. “Để viết tiểu thuyết này, ông “đọc sách mƣời năm, sửa chữa năm lần” đúng là tình cảnh “Mỗi chữ xem ra đều là máu. Mƣời năm gian khổ chẳng tầm thƣờng”. Ngặt vì nghèo vừa bệnh, thêm vào đó cái chết sớm của đứa con trai duy nhất, Tào Tuyết Cần đau khổ ngã bệnh, cho đến một buổi tối “khô lệ mà chết”, chƣa kịp hoàn thành tác phẩm Hồng lâu mộng vĩ đại” [16, 133]. Tám mươi hồi đầu do Tào Tuyết Cần sáng tác. Hai mươi tám năm sau khi Tào Tuyết Cần mất, Cao Ngạc dựa vào đề cương viết tiếp bốn mươi hồi còn lại của Tào Tuyết Cần. Tiểu thuyết này vốn lúc đầu có tên là Thạch đầu kí sau được Trình Vĩnh Nguyên đem bốn mươi hồi viết tiếp của Cao Ngạc in chung làm một đổi tên là Hồng lâu mộng. 8 Khi viết tiếp bốn mươi hồi sau của Hồng lâu mộng, về đại thể Cao Ngạc tuân theo ý định của Tào Tuyết Cần, hoàn thành chủ đề tấn bi kịch tình yêu giữa Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc. Do việc xử lý thỏa đáng một số tình tiết quan trọng khác, cho nên phần viết tiếp để lại cho người đọc cảm giác câu chuyện khá hoàn chỉnh và gây được sức hấp dẫn nghệ thuật. Về phương diện nội dung tư tưởng tình cảm cũng như nghệ thuật bốn mươi hồi sau của Cao Ngạc không sánh được với tám mươi hồi trước của Tào Tuyết Cần. Hồng lâu mộng vừa ra đời đã lan truyền khắp nơi, tác phẩm nhanh chóng trở thành món ăn tinh thần của quần chúng. 1.2.2. Hoàn cảnh ra đời tác phẩm Hồng lâu mộng Hồng lâu mộng ra đời thời Khang Hy - Ung Chính - Càn Long đời Thanh. Nền kinh tế tự phát tư bản chủ nghĩa xuất hiện trong lòng xã hội phong kiến chuyên chế mọt ruỗng đang trên đà tan rã, đã sản sinh ra một lớp thị dân có những nhu cầu thẩm mĩ mới. Hồng lâu mộng là sự thể hiện những tư tưởng của thời đại: tinh thần dân chủ, tinh thần phê phán xã hội phong kiến mục nát, phê phán những giáo điều cổ hủ đã ăn sâu bén rễ hàng ngàn năm, đòi tự do yêu đương và mưu cầu hạnh phúc, giải phóng cá tính, khao khát tự do bình đẳng. Trong khi đó giai cấp phong kiến không hề có tác dụng thúc đẩy sản xuất, nhưng đời sống của chúng lại cực kì hủ bại, ăn chơi, xa hoa, dâm dật. Tập đoàn phong kiến nhà Thanh tận hưởng của cải bóc lột của nhân dân, còn nhân dân lao động cần cù, chất phác lại vô cùng cực khổ. Những người nông dân đã trở thành tá điền quanh năm làm việc mà vẫn cực khổ. Mâu thuẫn giữa bọn thống trị đời Thanh và nhân dân lao động ngày càng sâu sắc, nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra. Tầng lớp thị dân nổi lên, lực lượng này chưa thoát khỏi sự ràng buộc của xã hội phong kiến về tư tưởng, kinh tế. Vì thế, trong xã hội lúc bấy giờ, ngoài mâu thuẫn giữa nông dân với giai cấp địa chủ còn tồn tại mâu thuẫn giữa lực lượng thị dân với quý tộc phong kiến. Thời kì này nhiều nhà tư tưởng có đề xướng dân chủ, đòi tự do tư tưởng, giải phóng cá tính như: Hoàng Tôn Hy, Cố Viên Vũ, Vương Phu Chi, Đường Chú Vạn,... Tào Tuyết Cần xuất thân từ giai cấp trên, gia đình quan lại, quý tộc nhưng ông đứng trên lập trường của tầng lớp thị dân để chống lại chế độ phong kiến. Ông xây dựng hàng loạt những nhân vật xuất thân quý tộc nhưng lại hướng 9 vào cuộc sống tự do, giải phóng cá tính, có tư tưởng dân chủ mới như Giả Bảo Ngọc, Lâm Đại Ngọc. 1.2.3. Khái quát về nội dung và nghệ thuật tác phẩm Hồng lâu mộng 1.2.3.1. Khái quát về nội dung Hồng lâu mộng Hồng lâu mộng viết về câu chuyện tình duyên trắc trở nhưng không đơn giản là bi kịch tình yêu tay ba. Tác giả có căn cứ vào cuộc đời riêng nhưng tác phẩm không phải là “tự truyện” cũng không phải là sự sụp đổ của một gia đình quý tộc do “miệng ăn núi lở”, “thu ít chi nhiều”. Ý nghĩa khách quan của tác phẩm lớn hơn nhiều, âm vang sâu nặng của tác phẩm gợi cho người đọc những vấn đề thời đại. Trước tiên, tác phẩm phản ánh sự suy tàn tất yếu của chế độ phong kiến Trung Quốc. Điều này được thể hiện qua sự phân chia giai cấp và mâu thuẫn của xã hội phong kiến. Trong xã hội có sự phân chia giai cấp rõ rệt. Giai cấp quý tộc là giai cấp thống trị xã hội có quyền quyết định số phận của những giai cấp khác. Tuy nhiên, trong lòng giai cấp quyền quý này lại chứa đựng những cơn sóng ngầm có thể bùng phát bất cứ lúc nào. Các ông, bà chủ đó một mặt câu kết với nhau để bóc lột, vơ vét, mặt khác lại cắn xé lẫn nhau để giành giật quyền uy và thế lực. Nhưng bên cạnh mâu thuẫn nội bộ giai cấp quý tộc còn có mâu thuẫn giữa họ với quần chúng bị áp bức bóc lột, mà cụ thể trong Hồng lâu mộng là các a hoàn. Họ được nhà chủ mua về làm kẻ hầu người hạ và số phận của họ hoàn toàn phụ thuộc vào ông chủ, bà chủ. Trước mắt họ hầu như chỉ có ba con đường: đi tu, tự vẫn, bị gả chồng. Mặc dù không chủ tâm miêu tả quan hệ giữa gia đình phong kiến quý tộc này với nông dân nhưng bằng một vài nét vẽ đậm nhạt tác giả cũng cho chúng ta thấy chúng dựa vào đâu mà sống xa hoa, phè phỡn. Không chỉ dừng lại ở đó, Tào Tuyết Cần tiếp tục đi sâu vào bản chất của giai cấp này để một lần nữa vạch trần bộ mặt thực sự của giai cấp phong kiến quý tộc. Có thể nói, dâm ô chính là bản chất của giai cấp bóc lột. Sự thực đó là sức tàn phá ghê gớm đối với một nề nếp, một gia phong và đến một mức độ nhất định nó làm cho kỉ cương họ Giả bị rối loạn góp phần đẩy gia đình hào môn vọng tộc này đến bước sụp đổ. Điều đó cũng cho thấy sự suy tàn của phủ Giả, của chế độ phong kiến là tất yếu không thể cưỡng lại được. 10 Vấn đề thứ hai mà tác phẩm phản ánh chính là tình yêu và hôn nhân trong xã hội phong kiến Trung Quốc. Chúng ta thấy rằng, trong xã hội thối nát đó, tình yêu không hề tồn tại, thay vào đó là sự trói buộc, ràng buộc con người vào những cuộc hôn nhân không tình yêu. Nhưng trong Hồng lâu mộng, Tào Tuyết Cần xây dựng một Giả Bảo Ngọc, một Lâm Đại Ngọc luôn luôn hành động theo trái tim, chống lại quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” nhưng rồi tình yêu của họ vẫn rơi vào bi kịch, họ không thể chống lại được thế lực phong kiến mạnh mẽ thời bấy giờ. Có thể nói, Hồng lâu mộng là bi kịch tình yêu và hôn nhân dưới chế độ phong kiến. Tác giả đặt tình yêu và hôn nhân trên một bình diện rộng lớn. Nó gắn chặt với vấn đề phụ nữ, vấn đề chế độ thê thiếp, chế độ cung phi, chế độ nô tì,... Hồng lâu mộng là một tác phẩm hiện thực kiệt xuất, phê phán toàn diện xã hội phong kiến đời Thanh. Tất cả cuộc sống thối nát của giai cấp quý tộc đều được Tào Tuyết Cần đề cập một cách rộng rãi và sâu sắc. Những giá trị hiện thực trên đã đem lại sức sống lâu dài cho tác phẩm. Vì vậy, không chỉ người dân Trung Quốc yêu thích Hồng lâu mộng mà đông đảo bạn đọc trên thế giới cũng đón nhận và yêu thích kiệt tác này. 1.2.3.2. Khái quát về nghệ thuật Hồng lâu mộng Hồng lâu mộng là tiểu thuyết hiện thực xuất sắc, được xếp vào hạng một trong tứ đại kì thư Trung Hoa. Tác phẩm đã “kế thừa kinh nghiệm sáng tác của các tác giả thời đại trƣớc, bằng tƣ duy nghệ thuật mới mẻ và tài năng sáng tạo, Tào Tuyết Cần tạo ra đứa con tinh thần của mình - Hồng lâu mộng. Tác phẩm trở thành tập đại thành cho những tiến bộ nghệ thuật của tiểu thuyết hiện thực Trung Quốc thế kỉ XIV - XVIII. Nó phá vỡ tƣ tƣởng và cách viết truyền thống, đƣa tiểu thuyết cổ điển phát triển theo hƣớng gần gũi với tiểu thuyết hiện đại” [16, 152]. Bút pháp hiện thực đạt đến trình độ điêu luyện trong khi miêu tả, tác giả bám sát cuộc sống thường ngày, miêu tả chi tiết, không cường điệu tô vẽ. Cuộc sống trong Hồng lâu mộng hiện lên vô cùng bình di, đời thường và đó chính là sức hút của tác phẩm. Đọc tác phẩm ta không hề cảm thấy bàn tay đẽo gọt của nhà văn mà chỉ theo dáng dấp vốn có tràn lên mặt giấy một cách tự nhiên. Đó chính là vẻ đẹp thuần phác, kết quả của sự rèn luyện khắc khổ mới có được. 11 Nghệ thuật xây dựng nhân vật và xây dựng nhiều nhân vật cùng một lúc là thành tựu to lớn của Hồng lâu mộng. Hồng lâu mộng là một tác phẩm có số lượng nhân vật đông đúc nhưng các nhân vật đều có máu thịt, có cá tính rõ nét. Có nhân vật chỉ vài phác họa cũng để lại ấn tượng cho người đọc. Tào Tuyết Cần không những tài hoa trong việc miêu tả những nhân vật có tính cách đối lập mà còn rất tinh tế miêu tả những tính cách giống nhau. Các nhân vật vừa “phạm vào nhau lại tránh nhau rất xa”. Hồng lâu mộng với kết cấu đồ sộ gồm 120 hồi. Tác giả đề cập đến mọi mặt của đời sống gia đình họ Giả nhưng bao giờ cũng xoay quanh câu chuyện tình duyên của Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc. Câu chuyện tình duyên bi thảm ấy trở thành sợi dây xuyên suốt tác phẩm, vừa có ý nghĩa chắp nối sự kiện, vừa có tác dụng gắn bó hai chủ đề của tác phẩm, đó là sự sa đọa ruỗng nát của một gia đình thượng lưu và sự trong sáng đẹp đẽ của một mối tình. Gia đình càng đen tối ruỗng nát thì tình yêu càng trở nên cao đẹp. Tình yêu càng lâm vào tình thế bi kịch càng có sức tố cáo sự lỗi thời và kệch cỡm của chế độ phong kiến. Đó là thành công lớn của Tào Tuyết Cần. Thành tựu về ngôn ngữ của Hồng lâu mộng khá tiêu biểu. Ngôn ngữ của tác phẩm lưu loát, uyển chuyển, đẹp đẽ. Về mặt này Hồng lâu mộng được đánh giá cao như Thủy hử. Tác giả cũng giỏi cá tính hóa ngôn ngữ nhân vật làm cho lời nói từng người khác nhau, phù hợp với tính cách của họ. Mặc dù ngôn ngữ cũng như thơ từ của các nhân vật, hầu như giữa 80 hồi đầu và 40 hồi sau có sự khác nhau đôi chút ít, một bên mượt mà, chau chuốt và uyển chuyển hơn, nhưng nhìn chung phong cách ngôn ngữ toàn tác phẩm là thống nhất, không để lại dấu vết của sự chắp vá. Nghệ thuật miêu tả không - thời gian cũng là một đóng góp không nhỏ của tác giả vào thành công của tác phẩm. Thế giới của Hồng lâu mộng là vô cùng phong phú, đa dạng bởi sự kết hợp của nhiều yếu tố không - thời gian đó là: không - thời gian thần thoại, không - thời gian mộng ảo và không - thời gian hiện thực. Các lớp không - thời gian này lại được tổ chức theo các dòng mạch của truyện. Vì vậy chúng không làm ảnh hưởng đến tính trình tự của tác phẩm mà ngược lại các lớp không - thời gian vừa đan kết, vừa hỗ trợ lẫn nhau tạo nên trong tác phẩm một kết cấu không - thời gian vô cùng chặt chẽ. 12 Tóm lại, Hồng lâu mộng là một kiệt tác, kế thừa được tư tưởng tốt đẹp của tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa, nhưng lại vượt lên trên tất cả các tác phẩm trước đó. Từ khi ra đời Hồng lâu mộng đã được tán thưởng và truyền tụng rộng rãi, đồng thời còn kích thích hứng thú nghiên cứu của nhiều thế hệ người Trung Quốc. 1.3. Một số vấn đề lí luận 1.3.1. Nhân vật văn học Trong tác phẩm văn học, con người chính là nhân vật, hay nói cách khác nhân vật “là con ngƣời đƣợc miêu tả trong văn học bằng phƣơng tiện văn học” [10, 277]. Chính vì vậy, con người tồn tại trong cuộc sống đa dạng và phức tạp bao nhiêu thì nhân vật trong tác phẩm văn học cũng đa dạng và phức tạp bấy nhiêu. Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật đầy ước lệ, không thể đồng nhất nó với con người có thật trong cuộc sống, thường mang những dấu hiệu để ta dễ nhận ra. Đó có thể là tên gọi: Chí Phèo, Lang Rận, Trương Chi,... đến các dấu hiệu tiểu sử, nghề nghiệp hoặc đặc điểm riêng như: chàng mồ côi, thằng ngốc, thằng bồi tiêm,... dự báo trước tương lai của nhân vật cũng như diễn biến câu chuyện. Nhân vật văn học là con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học. Nhân vật văn học có thể có tên riêng: Giả Bảo Ngọc, Lâm Đại Ngọc, Tiết Bảo Thoa... cũng có thể xuất hiện với tên chung chỉ nghề nghiệp: bác lái đò, chị hàng nước, anh nông dân,... xuất hiện với tên chung chỉ giới: anh chỉ nam giới, chị chỉ nữ giới hoặc xuất hiện với tên gọi theo đơn vị, chức vụ chỉ xã hội: thầy thơ lại, viên quản ngục, ông quan huyện,... Nhân vật văn học có thể là những con vật trong truyện cổ tích, đồng thoại, thần thoại, bao gồm cả quái vật lẫn thần linh, ma quỷ. Đây là những con vật nhưng mang nội dung và ý nghĩa của con người. Khái niệm nhân vật văn học có khi được sử dụng như một ẩn dụ, không chỉ con người cụ thể nào, mà chỉ một hiện tượng nổi bật nào đó trong tác phẩm. Ví dụ nhân dân là nhân vật chính trong Chiến tranh và hòa bình của L. Tônxtôi, đồng tiền là nhân vật chính trong Ơgiêni Grăngđê của Banzắc... Nhân vật văn học được miêu tả bằng nhiều hình thức khác nhau. Có thể nhân vật được miêu tả đầy đặn cả ngoại hình lẫn nội tâm, có tính cách, có tiểu sử như trong tác phẩm tự sự và kịch. Chẳng hạn nhân vật Chí Phèo, Thị Nở của Nam Cao, hồn Trương Ba, da hàng thịt trong tác phẩm cùng tên của Lưu Quang 13 Vũ. Hoặc ngược lại đó là những người thiếu hẳn nét đó, chỉ có giọng điệu, tiếng nói, cảm nhận như nhân vật trữ tình trong thơ trữ tình. Ví dụ: Sao anh không về chơi thôn Vĩ ? Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử Quan niệm nghệ thuật và lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn ở mỗi dân tộc khác nhau. Sống dưới chế độ khác nhau, các quan điểm thẩm mĩ có sự khác nhau. Như ở Việt Nam, dưới thời kì phong kiến, người phụ nữ được coi là chuẩn mực thì phải đủ “Tam tòng tứ đức” còn người đàn ông thì “Tề gia, tri quốc, bình thiên hạ” nhưng ngày nay một số điều trong đó không còn phù hợp nữa. Thực tiễn sáng tác, phê bình và nghiên cứu đã nêu lên nhiều kiểu và loại nhân vật văn học tương ứng với những dấu hiệu phân loại khác nhau. Dựa vào kết cấu, người ta phân loại thành nhân vật chính, nhân vật trung tâm, nhân vật phụ; dựa vào lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn người ta phân loại nhân vật thành nhân vật chính diện, nhân vật phản diện; dựa vào kiểu cấu trúc nhân vật ta có nhân vật chức năng, nhân vật tính cách, nhân vật tư tưởng,... Dựa vào thể loại người ta phân biệt nhân vật tự sự, nhân vật trữ tình, nhân vật kịch,...Nhân vật văn học là một trong những khái niệm trung tâm để xem xét sáng tác của nhà văn, một khuynh hướng, trường phái hoặc phong cách. Những nét chung về nhân vật văn học có thể cho phép nêu lên những biểu tượng văn học như: văn học về “con ngƣời bé nhỏ”, về “con ngƣời thừa kế”, văn học về “thế hệ mất mát”. Những nhân vật văn học trở nên nổi tiếng thế giới chính là những hình tượng vĩnh cửu như: Faust, Grăngđê, G. Mêlêkhôp,... 1.3.2. Hệ thống nhân vật văn học Các nhân vật trong một tác phẩm nghệ thuật thực sự tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh. Chúng hình như đều liên can nhau, không chỉ móc nối nhau bằng tiến trình sự kiện được miêu tả (không phải bao giờ cũng thế) mà suy đến cùng còn bằng logic tư duy nghệ thuật của nhà văn. Hệ thống nhân vật bộc lộ nội dung của tác phẩm, nhưng tự nó lại là một trong các phượng diện của kết cấu. Giáo sư G. N. Pospelov cho rằng: “Lí giải và xây dựng hệ thống nhân vật là một khâu quan trọng trong việc sáng tạo của nhà văn” [18, 521] và “Hệ thống nhân vật đem lại cho hình thức nghệ thuật của tác phẩm sự thống nhất và tính chỉnh 14 thể” [18, 522]. Chức năng kiến trúc này của nó đặc biệt quan trọng khi các sự kiện do nhà văn miêu tả không có mối liên hệ nhân quả trực tiếp với nhau. Ví dụ trong tiểu thuyết Anna Karenina có sự rời rạc trong các số phận nhân vật gây khó hiểu cho người đọc nhưng thực chất tác phẩm của ông xây dựng trên các mối liên hệ nội tại giữa các nhân vật chứ không phải trên sự quen biết của chúng. Hệ thống nhân vật cũng chính là hệ thống hình tượng nhân vật trong tác phẩm văn học. Hệ thống hình tượng là toàn bộ mối quan hệ qua lại của các yếu tố cụ thể, cảm tính tạo nên hình tượng nghệ thuật mà trung tâm là mối quan hệ của các nhân vật. Nói đến hệ thống nhân vật là nói đến sự tổ chức các quan hệ nhân vật cụ thể của tác phẩm. Các mối quan hệ thường thấy của các nhân vật là “đối lập, đối chiếu, tƣơng phản, bổ sung” [10, 300]. Sự phản ánh hiện thực trong các mâu thuẫn, xung đột và sự vận động dẫn đến việc tổ chức các nhân vật đối lập. Đó là sự đối lập giữa thiện và ác, tốt và xấu, giữa thống trị và bị trị, xâm lược và chống xâm lược, bóc lột và bị bóc lột. Dĩ nhiên, quan hệ đối lập ở đây không phải chỉ là một phạm trù xã hội học. Nó gắn liền với sự đối lập của các cá nhân về phương diện địa vị, cá tính, nhân phẩm, chẳng hạn như dũng cảm và hèn nhát, trung thực và gian dối, trung thành và phản bội,... Ta dễ dàng thấy đối lập đó trong các quan hệ giữa Lí Thông và Thạch Sanh, Tấm và Cám, Lục Vân Tiên và Trịnh Hâm, chị Dậu và lũ quan sai, Mị, A Phủ và bố con thống lí Pá Tra,... Đó là sự đối lập về nhân cách, lí tưởng, lẽ sống. Cái khéo của tác giả là làm cho các nhân vật đối lập, thù địch có quan hệ với nhau, ràng buộc nhau ở phương diện nào đấy, và do đó mà càng thêm đối lập gay gắt. Quan hệ đối lập thường loại trừ nhau một mất, một còn và thường là cơ sở để tạo thành các tuyến nhân vật của tác phẩm. Quan hệ đối chiếu, tương phản làm nổi bật sự đối lập và khác biệt của các nhân vật. Đó là thầy trò Đôn Kihôtê và Santro Panxa của Xervantes: một người cao và gầy; một người thấp và béo. Một người bị đầu độc bởi những hoang tưởng của tiểu thuyết hiệp sĩ; một người có trí óc lành mạnh. Một người có lí tưởng cao xa; một người thực dụng, thiển cận. Cả hai thầy trò như hai tấm gương soi chiếu lẫn nhau. Sự tương phản làm cho các đối lập, khác biệt hiện ra gay gắt. Đối chiếu là một mức độ thấp hơn của tương phản. Chẳng hạn đối lập 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan